Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS thành phố Hà Nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.78 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUANG HƯNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ
CÔI TỪ THỰC TIỄN LÀNG TRẺ EM SOS
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Trung Hải

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan
Phản biện 2: TS. Nguyễn Ngọc Toản

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại Học viện Khoa học xã
hội..........giờ.........ngày..........tháng.........năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ và chăm sóc trẻ em mồ côi luôn cần sự quan tâm, góp sức của
toàn thể xã hội. Từ đó rất nhiều mô hình, đề án và chương trình hành động
nhằm giúp đỡ nhóm TEHCĐB và trẻ em mồ côi được ra đời. Đó là các
trung tâm bảo trợ xã hội, các mái ấm tình thương, các Làng trẻ em SOS trên
toàn quốc...Trong các mô hình đó, mô hình chăm sóc gia đình thay thế của
tổ chức Làng trẻ em SOS là một mô hình lí tưởng hoạt động dựa trên bốn
nguyên tắc sư phạm là bà mẹ, anh chị em, gia đình và cộng đồng Làng. Mô
hình này thể hiện ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc giúp trẻ mồ côi tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm giảm bớt những nỗi đau mà các em gặp
phải.
Làng trẻ em SOS Hà Nội là một trong những địa chỉ đã từng giúp đỡ
nhiều mảnh đời bất hạnh song trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt công tác hỗ trợ, tham vấn tâm
lý cho trẻ còn thiếu tính chuyên nghiệp, việc tổ chức các hoạt động nhóm
giúp trẻ bớt mặc cảm tự ti, hòa nhập và gắn kết với nhau còn nhiều hạn chế
do thiếu vắng đội ngũ NVXH chuyên nghiệp. Vì vậy, có nhiều trẻ trong
Làng còn thiếu tự tin vào bản thân để kết bạn và hòa nhập cộng đồng, hơn
nữa các em còn chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng để đối phó với mọi
khó khăn trong cuộc sống.
Công tác xã hội nhóm được coi là một trong những phương pháp can
thiệp chính của ngành công tác xã hội chuyên nghiệp. Công tác xã hội
nhóm ra đời dựa trên niềm tin hoạt động nhóm là một biện pháp tích cực
xây dựng tính cách và thúc đẩy sự phát triển của con người, đặc biệt là
những người yếu thế. Những hoạt động nhóm sẽ giúp từng cá nhân nâng
cao khả năng hoàn thành các nhiệm vụ, giảm bớt những căng thẳng, lo âu
và nhận ra giá trị bản thân mình từ đó giúp thân chủ nâng cao khả năng giải
quyết vấn đề và ngăn ngừa nảy sinh ra những vấn đề xã hội nghiêm trọng

khác.
Từ những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Công tác xã
hội nhóm

1


đối với trẻ mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS thành phố Hà Nội” với
hy vọng
áp dụng phương pháp CTXH nhóm, vận dụng những kiến thức, kỹ năng
trong tiến trình trợ giúp nhóm trẻ em mồ côi giải quyết vấn đề của nhóm
(nâng cao tính cố kết nhóm) và nâng cao năng lực của mỗi thành viên trong
nhóm (sự tự tin và kỹ năng sống) hướng đến giải quyết vấn đề của nhóm
thân chủ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng nhận được nhiều sự quan
tâm của các nhà nhà nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu là trẻ em mồ
côi sống tại cơ sở bảo trợ xã hội tôi lựa chọn một số công trình nghiên cứu
và báo cáo tiêu biểu.
Nhóm các công trình, tài liệu nghiên cứu về trẻ em mồ côi
Nghiên cứu “Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn: cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý dân sự ở Việt Nam hiện nay” năm
2008, của tác giả Dương Hải Yến đã phân tích các quy định của pháp luật
về bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để đưa ra giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ chăm sóc TETHCĐB trong
thực tiễn.
Trong tài liệu Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp
luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở
Việt Nam của Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011), đã
tập trung đề cập đến các văn bản pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt, so sánh với các chuẩn mực quốc tế, trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đối với trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, đảm bảo từng bước hài hòa với chuẩn mực và pháp luật quốc tế.
Năm 2011 tác giả Nguyễn Thị Bích Hằng đã có bài Đánh giá tình
hình chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi tại Việt Nam trong thời gian
qua. Bài viết đã đưa ra các số liệu về thực trạng chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi tại Việt Nam và các chính sách hỗ trợ cho trẻ em mồ côi và
những định hướng cụ thể cho hoạt động chăm sóc trẻ em mồ côi ở nước ta
hiện nay. Đây là những số liệu để các nhà quản lý xem xét để có thể hoàn
thiện hơn cơ chế chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.

2


Tài liệu Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
của nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương năm 2012 đã chỉ
ra các quyền trẻ em, các nhu cầu thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của
tình trạng trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt từ đó nhóm tác giả đã chỉ ra các
yếu tố tác động làm gia tăng tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhất là
nhóm trẻ em không nơi nương tựa, lang thang, trẻ bị bạo hành. Trên cơ sở
đó nhóm tác giả đã đưa ra những hướng giải quyết theo phương pháp công
tác xã hội vào tiến trình can thiệp đối với nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.
Nghiên cứu “Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và các dự báo
đến năm 2020” năm 2014, của tác giả Lê Thu Hà. Đã phản ánh thực trang
TETHĐB khó khăn ở Việt Nam đang cần rất nhiều hỗ trợ để hạn chế gia
tang số lượng của nhóm này trong giai đoạn mới.
Luận văn “ Tổ chức và hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em mồ
côi từ thực
tiễn Làng trẻ em SOS Hà Nội” năm 2016 của tác giả Nguyễn Văn Sinh đã
phản ánh thực trạng công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi từ đó

đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giúp các em phát
triển toàn diện về thể chất, tâm sinh lý, nhận thức để từng bước tái hòa nhập
cộng đồng.
Nhóm các công trình, tài liệu nghiên cứu về CTXH nhóm với trẻ em mồ
côi
Ở Việt Nam các hoạt động sinh hoạt nhóm đã bắt nguồn từ khá sớm
trong văn hóa tương thân tương ái của người Việt. Những nhóm điển hình
tiêu biểu như hoạt động của nhóm Hoa Phượng ở Hải Phòng, nhóm Hoa
Sữa ở Hà Nội, nhóm đồng đẳng hỗ trợ các thân chủ Xã hội bị bạo hành gia
đình, nhóm đồng đẳng sau cai nghiện của những người lạm dụng ma túy ở
nhiều địa phương giúp nhau sinh hoạt và phát triển kinh tế. Mặc dù đã có
các hoạt động nghiên cứu và thực hành CTXH nhóm dưới nhiều hình thức
khác nhau, song vẫn còn thiếu những nghiên cứu can thiệp vừa mang ý
nghĩa thực tiễn (trợ giúp thân chủ), vừa mang ý nghĩa lý luận (bổ
sung, làm rõ lý thuyết, phương pháp và kỹ năng can thiệp trong thực tiễn).
Như vậy, có thể thấy có nhiều hoạt động nghiên cứu và thực hành
nhằm nâng cao năng lực cho một số nhóm xã hội có hoàn cảnh khó khăn,
song vẫn chưa nghiên cứu can thiệp nào đi sâu vào nghiên cứu ứng dụng

3


phương pháp CTXH nhóm nhằm nâng cao năng lực cho TEMC tại Làng trẻ
em SOS Hà Nội. Do đó việc nghiên cứu tập trung vào phương pháp CTXH
nhằm nâng cao năng lực cho TEMC tại Làng trẻ em SOS Hà Nội là rất hữu
ích và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đánh giá thực trạng khó khăn, nhu cầu của trẻ em mồ côi và
các hoạt

động CTXH tại làng trẻ em SOS Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động can thiệp trong CTXH
nhóm với nhóm trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tình hình hoạt động công tác xã hội với
trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Nghiên cứu thực trạng về nhu cầu vận dụng phương pháp công tác
xã hội nhóm trong việc nâng cao kỹ năng giao tiếp và sự tự tin cho đối
tượng trẻ em trong Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Vận dụng tiến trình công tác xã hội nhóm, lựa chọn một nhóm đối
tượng thân chủ cụ thể tiến hành can thiệp nhằm giải quyết vấn đề của nhóm,
và nâng cao năng lực cho đối tượng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi Làng trẻ em SOS Hà
Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi không gian: Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: 2016 - 2017.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu các hoạt động và vận dụng tiến trình
CTXH
nhóm với trẻ em mồ côi.
- Phạm vi khách thể: 10 trẻ mồ côi từ 13 đến 15 tuổi, đại diện cán bộ
nhân viên, lãnh đạo
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

4



Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng;
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục trẻ em và các học thuyết
phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài như thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết
xung đột xã hội và thuyết học tập xã hội. Việc sử dụng các thuyết trên vào
nghiên cứu giúp chúng ta có cơ sở để hiểu về tâm sinh lý cũng như quá
trình phát triển con người và những yếu tố có thể ảnh hưởng, tác động tích
cực, tiêu cực tới quá trình phát triển đó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp công tác xã hội nhóm
Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp quan sát
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm nâng
cao năng lực cho nhóm trẻ em mồ côi, bổ sung về mặt lý luận cho việc ứng
dụng phương pháp nghiên cứu và thực hành với trẻ em nói chung và trẻ em
mồ côi nói riêng.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm đối với nhóm trẻ em
mồ côi còn thiếu tự tin, mặc cảm và nhút nhát thông qua tiến trình công tác
xã hội nhóm làm thay đổi nhận thức thái độ và hành vi để cá nhân hòa nhập
tốt hơn với cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho những người quan tâm đến lĩnh vực CTXH.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
phần nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi
Chương 2: Thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em mồ

côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS Hà Nội.
Chương 3: Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn
Làng trẻ em SOS Thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1 Lý thuyết nhu cầu cuả MasLow
Nhu cầu cấp thấp:
- Nhu cầu sinh lý
- Nhu cầu an toàn
Nhu cầu cấp cao:
- Nhu cầu xã hội
- Nhu cầu được tôn trọng
- Nhu cầu tự hoàn thiện
Như vậy, theo Maslow khi con người thỏa mãn các nhu cầu bậc thấp
đến một.
Chính vì thế việc vận dụng thuyết nhu cầu của Maslow sẽ giúp chúng ta đối
chiếu với trẻ em mồ côi xem các em đã được đáp ứng những gì và những gì
còn thiếu hụt từ đó đưa ra những giải pháp can thiệp phù hợp nhằm đạt
được mục đích nghiên cứu đề ra.
1.1.2. Thuyết xung đột xã hội
Thuyết xung đột nhấn mạnh mâu thuẫn là một phần không tránh
được trong mối quan hệ con người với nhau. Đồng thời, thuyết cũng cho
rằng xung đột và mâu thuẫn đóng góp vào sự thay đổi không ngừng của xã
hội.

Dựa vào thuyết xung đột xã hội, trong quá trình tổ chức hoạt động
cho nhóm trẻ mồ côi NVXH cần phải có những ứng xử phù hợp và giải
quyết các xung đột xuất hiện trong nhóm một cách hợp lý. Quan trọng hơn,
NVXH trong quá trình giúp đỡ nhóm trẻ mồ côi cần giúp tất cả thành viên
nhóm hiểu được các kỹ năng cơ bản, cách thức giải quyết mâu thuẫn để các
em tự điều chỉnh hành vi của mình. Từ đó, vấn đề có thể được giải quyết và
vẫn đảm bảo duy trì tốt các mối quan hệ vẫn ngay cả khi nhóm có mâu
thuẫn.
1.1.3.Thuyết học tập xã hội (Social learning theory)

6


Thuyết học tập được bắt đầu từ quan điểm học tập của Tarde (1843 1904). Trong quan điểm của mình, Tarde nhấn mạnh về ý tưởng học tập xã
hội thông qua ba quy luật bắt chước: đó là sự tiếp xúc gần gũi, bắt chước
người khác và sự kết hợp cả hai. Cá nhân học cách hành động vừ ứng xử
của người khác qua quan sát hoặc bắt chước.
Đối với trẻ mồ côi khi tham gia hoạt động nhóm sẽ có những em rụt
rè, thiếu tự tin nhưng bên cạnh đó có những em tự tin, bạo dạn. Trong quá
trình hoạt động những em thiếu tự tin quan sát thấy các bạn khác tích cực
dần dần các em sẽ học tập các hành vi đó. Như vậy thuyết học tập trong
sinh hoạt nhóm sẽ giúp cho các nhóm viên thay đổi hành vi không tương
hợp (hành vi lệch chuẩn) và củng cố hành vi tương hợp.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Công tác xã hội nhóm
* Khái niệm công tác xã hội (Có nhiều khái niệm của các tổ chức, cá nhân
khác nhau)
Theo các nhân viên xã hội Mỹ - NASW đưa ra năm 1970
Theo hiệp hội nhân viên xã hội quốc tế - IFSW năm 2000
Theo nhóm tác giả Việt Nam (2010): “Công tác xã hội là một nghề,

một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng
đồng nâng cao năng lực, đáp ứng nhu cầu và tang cường chức năng xã hội
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ
nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn
đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã
hội”.
* Khái niệm nhóm và nhóm xã hội:
- Khái niệm nhóm:
“Nhóm là một thành tố của hệ thống xã hội mà mối quan hệ ý nghĩa
của nó được xác định qua những quan hệ thành viên trực tiếp và phân tán
cũng như qua tính bền lâu tương đối”.
Nhóm là hai hay nhiều người có mối quan hệ tương hỗ nhau về mặt
tinh thần, hoạt động như một tập thể, có những mối quan tâm chung, sử
dụng việc tương tác mặt đối mặt để chia sẻ, nhất trí và làm việc để đáp ứng
nhu cầu, các vấn đề thuộc về giá trị chung của họ hoặc của người khác.

7


Các yếu tố hình thành một nhóm: Có cùng chung mục đích và chia sẻ
trách nhiệm để đạt được mục đích đó. Có mối quan hệ tác động qua lại
thông qua giao tiếp, có ảnh hưởng lẫn nhau, sinh hoạt theo quy tắc và tiêu
chuẩn riêng. Mỗi thành viên có một hay nhiều vai trò tùy theo tình huống
nhất định.
- Nhóm xã hội:
“Nhóm xã hội là một tập hợp những cá nhân được gắn kết với nhau
bởi những mục đích nhất định. Những cá nhân có những hoạt động chung
với nhau trên cơ sở cùng chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt được những
mục đích cho mọi thành viên”.
* Khái niệm công tác xã hội nhóm:

“CTXH nhóm trước hết phải được coi là một phương pháp can thiệp
của CTXH.
Đây là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên trong nhóm được
tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhâu, chia sẻ
những mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động
nhóm và hướng đến giải tỏa những vấn đề khó khăn. Trong hoạt động
CTXH nhóm, một nhóm thân chủ được thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới
sự điều phối của người trưởng nhóm (có thể là nhân viên xã hội cũng có thể
là thành viên của nhóm) và đặc biệt là sự trợ giúp, điều phối của nhân viên
xã hội”.
“CTXH với nhóm (còn gọi là làm việc với nhóm) là quá trình mà
nhân viên CTXH sử dụng tiến trình sinh hoạt nhóm để giúp đỡ nhóm và
từng cá nhân tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề nhằm thỏa mãn nhu
cầu”
* Nhân viên xã hội
- Khái niệm Nhân viên xã hội (Social worker)
Theo Zastrow (1996) Nhân viên xã hội là người được đào tạo về
công tác xã hội. Họ sử dụng kiến thức và kỹ năng để cung cấp các dịch vụ
xã hội cho các cá nhân và gia đình, nhóm, cộng đồng, tổ chức, xã hội.
- Nhiệm vụ của nhân viên xã hội
- Vai trò của nhân viên xã hội.
1.2.2. Trẻ em mồ côi
* Khái niệm trẻ em

8


Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công bố năm
1989 xác
định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18 tuổi, trừ

trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn”.
Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi vận dụng khái niệm trẻ em theo
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Cụ thể, trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài là những trẻ em mồ côi dưới 16 tuổi tại Làng trẻ em
SOS Hà Nội.
* Khái niệm trẻ em mồ côi
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004 quy định
trẻ em mồ côi được hiểu là những trẻ em có hoàn cảnh như sau: Mồ côi cả
cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người
thân thích ruột thịt (ông, bà nội, ngoại; bố, mẹ nuôi hợp pháp; anh, chị) để
nương tựa.
Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo
quy định của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi
dưỡng (như tàn tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại
cải tạo), không có nguồn nuôi dưỡng và không có người thân thích để
nương tựa.
Theo Luật Nuôi con nuôi ban hành năm 2010 thì: Trẻ em mồ côi là
trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người
kia không xác định
được.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xác định, trẻ em mồ
côi là những em dưới 16 tuổi và có hoàn cảnh như: cả cha lẫn mẹ đã chết
hoặc cha hoặc mẹ đã chết; cả cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đã mất tích theo
qui định của pháp luật.
1.2.3. Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
* Công tác xã hội với trẻ em
“Công tác xã hội với trẻ em là công tác xã hội có đối tượng tác động

là trẻ em,

9


nhằm phát hiện và can thiệp để ngăn ngừa các em tránh rơi vào hoàn cảnh
đặc biệt hoặc trợ giúp các em đã rơi vào hoàn cảnh đặc biệt vượt qua hoàn
cảnh của mình để
có thể hòa nhập với gia đình và cộng đồng.
* Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
Từ khái niệm về CTXH nhóm cũng như cách hiểu về nhóm trẻ em
mồ côi có thể hiểu: CTXH nhóm với trẻ em mồ côi là quá trình nhân viên
CTXH sử dụng phương pháp CTXH nhóm tác động đến nhóm đối tượng là
trẻ em mồ côi. Thông qua tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên
nhóm là trẻ em mồ côi được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động
tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung
tham gia vào các hoạt động nhóm và hướng đến giúp đỡ nhóm và từng cá
nhân tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề nhằm thỏa mãn nhu cầu.
1.3. Các vấn đề chung của công tác xã hội nhóm
1.3.1. Mục đích, ý nghĩa
CTXH nhóm ra đời và phát triển với mục đích thông qua hoạt động
của nhóm giúp các cá nhân giải quyết vấn đề và thoả mãn các nhu cầu được
an toàn, chia sẻ, cảm thông, được công nhận, được yêu thương gắn bó, được
khẳng định mình và nâng cao năng lực phát huy tiềm năng.
CTXH nhóm là môi trường tốt tạo cơ hội cho các cá nhân phát triển,
học hỏi và hàn gắn tổn thương, vì vậy, Klein (1972) đã đưa ra các mục đích
của CTXH nhóm như sau:
- Phòng ngừa
- Phục hồi
- Chỉnh sửa

- Xã hội hoá
- Hành động xã hội
1.3.2. Đặc trưng công tác xã hội nhóm
- Đối tượng tác động của phương pháp này là toàn nhóm.
- Công cụ tác động của nhóm chính là mối quan hệ, sự tương tác giữa các
thành viên trong nhóm.
- NVXH chủ yếu đóng vai trò tổ chức, điều phối, hướng dẫn và định hướng.
1.3.3. Vai trò
- CTXH nhóm tạo ra cảm giác được thuộc về nhóm cho các thân chủ.

10


- CTXH nhóm tạo ra cơ hội để thử nghiệm thực tế.
- CTXH nhóm tạo ra sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau.
- CTXH nhóm tạo ra sức mạnh và nghị lực cho thân chủ.
1.3.4. Tiến trình công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
* Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm
- Xác định mục đích hỗ trợ nhóm
- Đánh giá khả năng thành lập nhóm
- Thành lập nhóm
- Định hướng cho các thành viên trong nhóm
- Chuẩn bị môi trường
- Viết đề xuất nhóm
* Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
- Các hoạt động trong giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
- Một số yêu cầu đối với NVXH
* Giai đoạn can thiệp
- Các nhóm can thiệp
- Nhóm nhiệm vụ

* Giai đoạn kết thúc
- Lượng giá
- Kết thúc
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công tác xã hội nhóm với trẻ
em mồ côi
1.4.1. Hệ thống chính sách xã hội của Việt Nam đối với trẻ em mồ côi
1.4.2. Hệ thống năng lực quản lý của cán bộ, nhân viên công tác xã hội
1.4.3. Đặc điểm Tâm lý xã hội của trẻ em mồ côi
- Mất niềm tin vào cuộc sống
- Sự ứng phó với trầm cảm
- Mặc cảm có tội lỗi tự trách mình:
- Giận dữ và có ác cảm:
- Hoài nghi, thiếu tin tưởng:
- Khó diễn tả cảm xúc bằng lời:
- Không nói thật:

11


Tiểu kết chương 1
Hoạt động CTXH đối với trẻ em mồ côi là một lĩnh vực còn khá mới
mẻ và có nhiều nét đặc thù riêng. Từ đó NVXH muốn tổ chức các hoạt
động CTXH nói chung và CTXH nhóm nói riêng đạt được hiệu quả cao
nhất cần phải có sự hiểu biết về pháp luật, chính sách và các nhu cầu cơ bản
của các em.
Bằng việc áp dụng tiến trình CTXH nhóm lên đối tượng là trẻ em mồ
côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội sẽ giúp các em nâng cao năng lực hòa nhập
cộng đồng - đó không chỉ là mong muốn của tổ chức Làng trẻ em SOS Hà
Nội mà của toàn xã hội.
Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI LÀNG TRẺ EM SOS HÀ NỘI
2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứa và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Lịch sử hình thành Làng trẻ em SOS Hà Nội
Làng trẻ em SOS Hà Nội được thành lập theo quyết định số
3286/QĐ-UB, ngày 14 tháng 7 năm 1988 của Uỷ ban Nhân dân Thành phố
Hà Nội. Đầu tháng 9/1989, 53 cháu đầu tiêu được tiếp nhận vào nuôi dưỡng
tại Làng. Ngày 25 tháng 01 năm 1990 Làng trẻ em SOS Hà Nội chính thức
được khánh thành.
Tính đến ngày 31/12/ 2016, Làng trẻ em SOS Hà Nội đã và đang
nuôi dưỡng được 460 cháu. Trong đó, 235 cháu hiện đang được nuôi
dưỡng và 225 cháu đã hoàn toàn tự lập, hoà nhập xã hội. Trong quá trình
hoạt động Làng trẻ em SOS Hà Nội đã nhận được Huân chương Lao động
hạng III do Chủ tịch nước trao tặng (2009) và nhiều bằng khen, giấy khen
của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội.
2.1.2. Nguyên tắc hoạt động của Làng trẻ em SOS Hà Nội
- Bà mẹ SOS (mọi trẻ em đều có một người mẹ chăm sóc)
- Anh chị em trong gia đình SOS
- Mái ấm gia đình
- Gia đình SOS là một bộ phận của cộng đồng Làng
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Làng trẻ em SOS Hà Nội

12


- Chức năng
Làng trẻ em SOS Hà Nội thực hiện chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục, hướng nghiệp cho trẻ mồ côi không nơi nương tựa trên địa bàn Hà
Nội và một số tỉnh lân cận.

- Nhiệm vụ
Chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; quản lí đối tượng; hướng nghiệp,
tìm việc làm; tái hòa nhập cộng đồng.
Ngoài chức năng trên thì mỗi bộ phận lại có chức năng, nhiệm vụ
riêng của mình nhằm đem đến những điều tốt đẹp nhất cho trẻ.
2.1.4. Cơ sở hạ tầng Làng trẻ em SOS Hà Nội
Làng được xây dựng trên diện tích khoảng 02 ha tại phường Mai
dịch, quận Cầu giấy, thành phố Hà Nội bao gồm: Khối văn phòng làm việc
của cán bộ, nhân viên ; khu nhà các gia đình; khu nhà về hưu; khu nhà
khách; khu nhà nhân viên và khu Lưu xá thanh niên.
2.1.5. Hệ thống tổ chức Làng trẻ em SOS Hà Nội
- Sơ đồ tổ chức bộ máy:
2.2. Hoạt động công tác xã hội tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
2.2.1. Tình hình hoạt động công tác xã hội tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
* Hoạt động tiếp nhận đối tượng
* Hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng:
* Hoạt động quản lý đối tượng:
2.2.2.Hoạt động công tác xã hội của cán bộ, nhân viên tại Làng trẻ SOS
Hà Nội
* Hoạt động chăm sóc y tế
* Hoạt động chăm sóc đời sống tinh thần
* Hoạt động giáo dục đối tượng.
* Hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề cho đối tượng.
* Hoạt động tái hoà nhập cộng đồng
2.2.3 Đánh giá hoạt động công tác xã hội tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
* Kết quả đạt được của các hoạt động CTXH
Làng trẻ em SOS Hà Nội chính thức đi vào hoạt động được 27 năm (tháng
1 năm 1990) đến nay Làng đã nuôi dưỡng và chăm sóc được nhiều trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, trong đó có 235 trẻ đã hoàn toàn tự lập và 235


13


trẻ đang được nuôi dưỡng. Mô hình hoạt động của Làng trẻ đã đạt được mốt
số kết quả đáng ghi nhận như sau:
Đã chăm sóc, nuôi dưỡng, hướng nghiệp cho nhiều trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa trên địa bàn và các tỉnh lân cận, tạo điều kiện tốt nhất
để mang lại cho các em cơ hội phát triển và hòa nhập cuộc sống.
Các em được tạo điều kiện học tập theo khả năng của mình (học
nghề, cao đẳng, đại học) và được Làng giới thiệu, tìm việc làm sau khi khóa
học kết thúc.
Các em được dạy dỗ, uốn nắn ngay từ khi mới vào Làng nên anh chị
em trong gia đình đều rất đoàn kết, gắn bó, yêu thương và quan tâm lẫn
nhau, các em ngoan ngoãn, lễ phép và có ý thức trong học tập, tự giác trong
lối sống, lao động.
Các em có ý thức trong học tập, các anh chị lớn đã biết nhắc nhở em
nhỏ học tập, biết cùng nhau dọn vệ sinh khu vực nhà ở, biết giúp mẹ nấu
cơm, dọn vườn, trồng cây và tham gia các hoạt động lao động tập thể hàng
tuần do Làng tổ chức. Chấp hành tốt nội quy cũng như tham gia đầy đủ các
hoạt động do Làng qui định.
Các hoạt động của Làng trẻ mang tính chất hệ thống, có sự liên kết
đồng bộ với các tổ chức khác như trường dạy nghề, công ty, tổ chức hướng
nghiệp của Sở LĐTB&XH do đó Làng đã làm tốt được công tác hướng
nghiệp, đào tạo nghề cho các em, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng cho các
em. Trước hết các em được hoạt động phân chia trong từng nhóm nhỏ là
các nhà gia đình, mỗi gia đình gồm có từ 8 đến 10 thành viên, nên các em
có điều kiện sống, sinh hoạt và nhận được sự chăm sóc chu đáo.
* Hạn chế
Hoạt động của Làng trẻ em SOS Hà Nội tuy đã có tính hệ thống,
thống nhất giữa các ban ngành nhưng tính chất chuyên nghiệp chưa cao do

chưa có đội ngũ NVXH chuyên nghiệp mà tất cả các hoạt động, tổ chức của
Làng đều do các nhân viên chuyên ngành sư phạm đảm nhận, do đó các em
chưa được tổ chức hoạt động theo nhóm chuyên nghiệp như ngành CTXH.
Cụ thể, khi gặp những vấn đề tâm lý thì các em chỉ có thể chia sẻ với mẹ,
nhân viên giáo dục, các anh chị trong gia đình chứ chưa có cơ hội tìm đến
những chuyên gia tâm lý thực sự bởi vì Làng không có phòng tham vấn tâm

14


lý với cán bộ phụ trách chuyên nghiệp để giúp các em giải toả cũng như
tiến hành trị liệu tâm lý khi cần thiết.
Các em sống trong các gia đình thay thế với một bà mẹ - người có đủ
những phẩm chất đạo đức làm mẹ nhưng còn những hạn chế trong việc điều
phối các hoạt động gia đình do đó việc chăm sóc, nuôi dưỡng các em chưa
được sát sao và đồng đều. Người mẹ ở đây có thể tổ chức các hoạt động
trong gia đình, cho các em vui chơi, ăn ngủ, đi học nhưng không thể trở
thành một người điều phối hoạt động nhóm chuyên nghiệp.
Các em chưa được tham gia nhiều các hoạt động xã hội tự nguyện mà
phần lớn đều là những hoạt động mang tính chất thường niên do Làng và
các đơn vị tình nguyện tổ chức nên chưa lôi kéo được sự tham gia nhiệt tình
của các em vì thế chưa phát huy được tác dụng thực sự của các hoạt động.
Do vậy cần phải có đội ngũ NVXH chuyên nghiệp làm nhiệm vụ tìm hiểu,
khảo sát nhu cầu của các em để đứng ra tổ chức các hoạt động đáp ứng nhu
cầu của các em mới có thể phát huy được tác dụng của các hoạt động này.
Mặt hạn chế khác là sau khi hết thời gian sống tại Làng, việc theo dõi
cũng như giám sát hoạt động của trẻ còn gặp nhiều khó khăn nên việc đánh
giá quá trình hòa nhập cộng đồng của các em có thật sự thành công hay
không cũng khó chính xác.
2.3. Đánh giá thực trạng và nhu cầu của nhóm trẻ mồ côi tại Làng trẻ em

SOS Hà Nội
2.3.1. Đánh giá thực trạng nhóm trẻ mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
- Hiện tại (tính đến hết năm 2016) Làng trẻ em SOS Hà Nội đang chăm sóc,
nuôi dưỡng 235 trẻ có độ tuổi từ 1 đến 25 tuổi. Trước khi đến với Làng trẻ
sinh sống chủ yếu từ các huyện của Hà Nội như Sóc Sơn, Cổ Loa, Gia Lâm
và một số các huyện ở tỉnh Hà Tây cũ như Thạch Thất, Phúc Thọ và các
tỉnh thành lân cận.
- Cơ cấu trẻ em theo giới tính: 121 trẻ nữ chiếm 51,5%, 114 trẻ nam chiếm
48,5%.
- Các em được đón về đều có hoàn cảnh rất khó khăn và hạn chế về nguồn
nuôi dưỡng từ phía gia đình, người thân. Các em có thể có nguy cơ cao về
thất học, đi lang thang, lây nhiễm tệ nạn xã hội… nếu không có sự trợ giúp
từ Làng trẻ. Khi được đón vào Làng trẻ được sống trong môi trường gia
đình thay thế có mẹ và các anh, chị, em nhưng trẻ vẫn không thể quên được

15


quá khứ trước khi các em vào Làng vì vậy các em thường rụt rè, thiếu tự tin
khi giao tiếp. Bên cạnh đó một số em tỏ ra bướng bỉnh, khó bảo và có
những hành vi đi ngược lại những qui định của Làng.
2.3.2. Đánh giá nhu cầu của nhóm trẻ mồ côi.
Nhu cầu về thể chất:
Nhu cầu an toàn:
Nhu cầu tình cảm xã hội (nhu cầu gắn bó, yêu thương):
Nhu cầu được tôn trọng:
Nhu cầu hoàn thiện
Tiểu kết chương 2
Sau gần 30 năm thành lập, Làng trẻ em SOS Hà Nội đã chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục được 460 lượt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn trên địa bàn Thành phố Hà Nội và một số tỉnh lân cận trở thành những
công dân có ích cho xã hội. Đặc điểm đặc trưng của trẻ mồ côi tại Làng là
tính chủ động chưa cao, các em còn thiếu tự tin vào chính bản thân mình,
chính sự thụ động đó đã ảnh hưởng đến quá trình nhận thức và khả năng
tiếp cận các dịch vụ của các em. Vì vậy việc vận dụng các phương pháp
CTXH nói chung và CTXH nhóm nói riêng là nhu cầu cần thiết để cho các
em nâng cao sự tự tin cũng như dễ dàng hơn trong việc hòa nhập cộng
đồng.
Chương 3
VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VÀO VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI TẠI
LÀNG TRẺ EM SOS, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Hồ sơ nhóm thân chủ
3.1.1. Thông tin chung về nhóm thân chủ
Gồm 10 trẻ (05 nam, 05 nữ) độ tuổi từ 13 đến 15, các em đến từ
những địa phương khác nhau nhưng đều chung một đặc điểm là trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt.
3.1.2. Cơ cấu nhóm thân chủ
Cơ cấu độ tuổi: Từ 13 đến 15
Cơ cấu giới tính: 05 nam, 05 nữ
Cơ cấu trình độ: lớp 7 đến lớp 9

16


Cơ cấu về hồ sơ pháp lý cá nhân: các em có đầy đủ giấy khai sinh, hộ
khẩu gia đình trước khi các em đến với Làng.
3.1.3. Đặc điểm tâm lí của nhóm thân chủ
Nhóm thân chủ đều là trẻ em mồ côi ( mất cha, mất mẹ hoặc mất cả
cha lẫn mẹ) vì vậy đặc điểm tâm lý nổi bật của các em là luôn luôn khao

khát sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc từ gia đình.
Các em đang trong độ tuổi phát triển và có nhiều thay đổi về tâm sinh
lí (có một số em đang trong thời kì dậy thì), những thay đổi về mặt thể chất
dẫn đến nhiều thay đổi về tâm lý.
Cơ chế phòng vệ của nhóm trẻ rất cao, các em thường biểu hiện bằng
việc ngại tiếp xúc, trò chuyện với người lạ. Tuy vậy, trong thực tế dù các
em thường có xung đột với nhau song lại sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần
thiết. Hơn nữa, nếu nhận được sự quan tâm và yêu thương chân thành của
người khác, các em sẵn sàng mở lòng và chia sẻ. Đây là những yếu tố quan
trọng để NVXH khai thác trong thực hiện tiến trình CTXH nhóm với nhóm
trân chủ.
3.1.4. Nhu cầu của nhóm thân chủ
- Được yêu thương chăm sóc, chia sẻ và thật sự thấu hiểu của mẹ, các
anh chị em, CBNV trong Làng và những người bên ngoài cộng đồng xã hội.
- Được tạo tạo điều kiện để các em tham gia nhiều các hoạt động giao
lưu, học tập nâng cao trình độ góp phần cải thiện đời sống tinh thần cũng
như khả năng thích ứng với cuộc sống.
- Được tôn trọng, được chia sẻ, được đón nhận và tự tin hòa nhập với
cộng đồng xã hội.
3.2. Vận dụng tiến trình công tác xã hội nhóm nhằm nâng cao năng lực
hòa nhập cộng đồng cho trẻ mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
3.2.1. Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm thân chủ
* Xác định mục đích hỗ trợ nhóm: nhằm nâng cao năng lực cho nhóm trẻ
mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội, về các mặt cụ thể như sau:
1) Nâng cao sự cố kết trong nhóm
2) Nâng cao sự tự tin của mỗi thành viên trong nhóm
3) Nâng cao một số kỹ năng sống cho các thành viên trong nhóm, bao gồm
các kỹ năng: kỹ năng chia sẻ, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thuyết
trình và kỹ năng thuyết phục và kỹ năng vượt qua khủng hoảng.


17


4) Nâng cao khả năng hòa nhập xã hội, tạo môi trường thuận lợi để trẻ có
thể có cơ hội phát triển đầy đủ.
* Đánh giá khả năng tham gia của các thành viên
1) Nguồn lực khách quan
- Thời gian, địa điểm tổ chức sinh hoạt nhóm
- Được sự hỗ trợ, tạo điều kiện nhiệt tình của cán bộ, nhân viên trong
Làng giúp cho việc tổ chức sinh hoạt của nhóm diễn ra thuận lợi.
2) Nguồn lực chủ quan:
- Nhu cầu của các thành viên
- Đặc điểm nhóm thân chủ
- Thái độ của cán bộ trực tiếp quản lý, chăm sóc trẻ
* Thành lập nhóm
- Tuyển chọn nhóm
+ Tất cả các thành viên trong nhóm cùng được nuôi dưỡng và chăm sóc tại
Làng trẻ
em SOS Hà Nội.
+ Về cơ cấu độ tuổi: có độ tuổi từ 13 đến 15
+ Về cơ cấu giới tính: 5 nam và 5 nữ
+ Đều là trẻ có hoàn cảnh mồ côi, đặc điểm tâm sinh lý tương đồng nhau
+ Đều có nhu cầu tham gia sinh hoạt nhóm để nâng cao năng lực hòa nhập
cộng đồng.
- Thành phần nhóm
- Định hướng cho các thành viên trong nhóm
- Thỏa thuận nhóm
3.2.2 Giai đoạn nhóm hoạt động
* Giới thiệu các thành viên trong nhóm
* Thảo luận các nguyên tắc bảo mật thông tin của nhóm

* Cân bằng giữa nhiệm vụ, yếu tố tình cảm xã hội của tiến trình nhóm.
* Dự đoán về những khó khăn và cản trở
3.2.3 Giai đoạn can thiệp
* Bảng kế hoạch các hoạt động sử dụng trong quá trình can thiệp
Buổi sinh hoạt thứ nhất trong giai đoạn can thiệp
(Hoạt động nâng cao kỹ năng làm việc theo nhóm)

18


Để tổ chức các hoạt động trong suốt quá trình can thiệp nhóm thành
công, trước hết NVXH sẽ cung cấp và giúp các em làm tốt kỹ năng làm
việc theo nhóm, do đó nâng cao kỹ năng làm việc theo nhóm là hoạt động
đầu tiên mà NVXH quyết định thực hiện.
+ Thời gian thực hiện: từ 16h30 - 17h30 ngày 11 tháng 01 năm 2017.
+ Nội dung hoạt động:
Hoạt động 1: Tư vấn cho các em cách thức “làm việc theo nhóm”
Hoạt động 2: Thực hành vẽ tranh.
Chia nhóm thành 2 đội; mỗi đội cùng nhau tô một bức tranh. Đội nào tô
nhanh, tô đẹp nhất đội đó sẽ là đội chiến thắng. Mục đích là giúp các em rèn
luyện tinh thần làm việc theo nhóm.
Lượng giá buổi can thiệp thứ nhất:
Buổi tương tác đầu tiên thể hiện sự gắn kết rời rạc, các thành viên ít
có sự tương tác vì chưa thực sự tin tưởng lẫn nhau. Giữa một số thành viên
còn không tương tác và phát sinh mâu thuẫn khi chưa thống nhất được quan
điểm. Về phía
NVXH đã điều chỉnh và định hướng để trẻ dần có sự tương tác với nhau.
Buổi sinh hoạt thứ sáu trong giai đoạn can thiệp
(Vượt qua khủng hoảng và những khó khăn trong cuộc sống)
+ Thời gian thực hiện: ngày 28 tháng 01 năm 2017

+ Nội dung hoạt động:
Hoạt động 1: Giúp trẻ nhận diện một số khó khăn trong cuộc sống mà bản
thân các em phải có ý chí, nghị lực để vượt qua.
Hoạt động 2: Đóng kịch “mảnh đời của Đ”
Lượng giá buổi can thiệp thứ sáu:
Qua sơ đồ chúng ta nhận thấy các thành viên đã có sự gắn kết hơn rất nhiều
so với buổi sinh hoạt nhóm đầu tiên. Các em trở nên thân thiện, hòa đồng
và sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần thiết.
Lượng giá tổng thể
3.2.4.Giai đoạn kết thúc
* Lượng giá về phía nhóm thân chủ
1) Về cố kết nhóm

19


Các thành viên ( 10 thành viên) trong nhóm đã có sự đoàn kết, hợp tác với
nhau
trong các hoạt động, những mâu thuẫn, xung đột đã giảm. Theo quan sát
nhận thấy 10 nhóm viên bắt đầu có nhu cầu được gắn bó và được thừa nhận
là thành viên của nhóm. 10 nhóm viên đã có sự tự tin, học hỏi được nhiều
kinh nghiệm, tri thức, hành vi từ những nhóm viên khác.
2) Về sự tự tin của mỗi thành viên trong nhóm
Thông qua các trò chơi theo hướng tăng dần cấp độ, các em đã tỏ ra tự tin
hơn, các em dám chơi, dám bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình trong cá
hoạt động, kể cả tập sắm vai, đóng kịch làm viễn viên và tự tin đứng trước
đám đông.
3) Về kỹ năng chia sẻ
Nhờ việc sắp xếp khéo léo các hoạt động trong nhóm như chia sẻ những
điều tuyệt vời nhất về tình bạn, về ước mơ dẫn đến các em đã sẵn sàng chia

sẻ những bí mật của bản thân. Đây là một thành công lớn trong quá trình
can thiệp, bởi không phải bất cứ ai cũng sẵn sàng chia sẻ những điều riêng
tư của bản thân cho những người khác.
4) Về kỹ năng làm việc theo nhóm
Các thành viên đã biết đoàn kết, phối hợp với nhau để đạt được kết quả
chung cao nhất. Các em đã bớt tranh cãi và biết học cách chia sẻ khi thực
hiện các hoạt động do NVXH yêu cầu.
5) Về kỹ năng thuyết trình, thuyết phục
Thông qua các hoạt động như thuyết trình về sản phẩm, bảo vệ ý kiến
chung
của cả nhóm hay hoạt động tập làm hướng dẫn viên du lịch các em đã năng
cao kỹ năng nói, giao tiếp của mình tốt hơn, không còn nhiều cảm giác lúng
túng, ngại ngùng như trước.
6) Về kỹ năng vượt qua khủng hoảng
Thông qua hoạt động dựng kịch, các em hiểu rõ thêm về cuộc đời của
những người xung quanh. Tự các em thấy được mình không riêng lẻ, cô lập
mà cuộc đời vẫn còn những người bất hạnh như các em. Điều quan trọng là
các em phải học các vượt qua hoàn cảnh để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp
hơn ở tương lai phía trước.
* Lượng giá về phía NVXH

20


Qua quá trình khoảng hai tuần can thiệp nhóm thân chủ là trẻ mồ côi ở
Làng trẻ em
SOS Hà Nội, NVXH đã đạt được một số thành công nhất định và rút ra
được một số bài học như sau :
NVXH đã có những nghiên cứu, tìm hiểu và khảo sát tỉ mỉ để nắm rõ
các nhu cầu, nguyện vọng của từng thành viên trong nhóm và nhu cầu

chung của cả nhóm. Từ đó ứng dụng phương pháp CTXH nhóm linh hoạt,
phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của nhóm thân chủ để không vi phạm
nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định của nhóm thân chủ.
NVXH đã có kế hoạch làm việc cụ thể, rõ ràng, tuân thủ các kế
hoạch đề ra, đảm bảo mục tiêu nhóm được thực hiện một cách trọn vẹn và
có hiệu quả cao nhất.
NVXH đã tạo ra bầu không khí thân thiện, thoải mái ngay từ đầu, cả
trong thời gian sinh hoạt cũng như khi tiếp xúc bề ngoài khiến cho nhóm
thân chủ thoải mái thân thiện với nhau hơn.
Các trò chơi được lựa chọn dễ thực hiện, vừa đảm bảo vui chơi vừa
đảm bảo trị liệu, phù hợp với đối tượng. Lúc can thiệp đã lôi kéo sự tham
gia của tất cả các thành viên, phân xử thắng bại công bằng, tạo ra sự thuyết
phục.
Ngoài ra NVXH đã sử dụng tốt các kỹ năng như : kỹ năng điều phối
sự tham gia của các thành viên trong nhóm, kỹ năng làm việc với cá nhân tỏ
ra không hợp tác, kỹ năng khuyến khích, kỹ năng thấu cảm… Việc thực
hiện tốt các kỹ năng này giúp NVXH tác động tới tất cả các thành viên
trong nhóm, giúp nhóm tương tác với nhau nhiều hơn, mang lại hiệu quả
tích cực là đã gắn kết nhóm, tạo ra sức mạnh tập thể trong quá trình rèn
luyện và tham gia các trò chơi có tính chất tập thể như vẽ
tranh, diễn kịch…
NVXH cũng đã làm tốt vai trò là một lãnh đạo nhóm, một giám sát
viên tốt. Thể hiện qua việc NVXH giới thiệu các hoạt động nhóm và việc
hướng dẫn để nhóm xây dựng các mục tiêu, nội quy nhóm cũng như việc
lãnh đạo nhóm trong
việc tổ chức các hoạt động với trò chơi trị liệu.
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công tác xã hội
nhóm đối với trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội hiện nay

21



- Làng trẻ em SOS Hà Nội cần tiếp tục phát huy và nâng cao hơn nữa công
tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đảm bảo cho các em phát tốt cả về
thể chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó cần tổ chức các hoạt động cần thiết để
giúp các em tự thực hiện các chức năng xã hội của mình từng bước tiến tới
hòa nhập cộng đồng. Để làm tốt điều này cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng
NVXH theo tiêu chuẩn CTXH chuyên nghiệp. Bên cạnh đó cán bộ quản lí
của Làng cần phải nhận thức đúng về mô hình CTXH nhóm để định hướng
các hoạt động theo đúng qui chuẩn của mô hình CTXH nhóm. Trên cơ sở
đó NVXH sẽ thực hiện đúng qui định đạo đức và các chính sách liên quan
đến đối tượng để luôn có ý thức rèn luyện bản thân và giải quyết các vấn đề
một cách tốt nhất.
- Tăng cường các hoạt động ngoại khóa và lồng ghép các chủ đề giáo dục
cần thiết (giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục kĩ năng sống). Khi
tổ chức các hoạt động cần phải căn cứ vào nhu cầu thực sự của trẻ. Nắm bắt
được điều đó giúp NVXH xây dựng mô hình hoạt động hiệu quả và thu hút
sự tham gia tự nguyện của trẻ.
- Tiếp tục tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân để các em có điều
kiện hơn khi tham gia các hoạt động.
- Đầu tư thêm một phòng sinh hoạt chức năng với không gian ấm áp, đảm
bảo những điều kiện cần thiết để các em có nơi sinh hoạt nhóm và chia sẻ
với nhau nhiều hơn những khó khăn gặp phải trong cuộc sống và là nơi vui
chơi giải trí thực sự an toàn sau những quãng thời gian học tập căng thẳng.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông để cộng đồng có cái nhìn đúng đắn về
hoàn cảnh của các em từ đó xóa bỏ những định kiến không tốt giúp các em
mở rộng quan hệ, tự tin hòa nhập cộng đồng.
Tiểu kết chương 3
Vận dụng tiến trình CTXH nhóm đối với trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em
SOS Hà Nội đã đáp ứng được phần nào mong muốn, nhu cầu và nguyện

vọng của các em. Từ đó, tiếp tục cần sự quan tâm hơn nữa của các cấp
chính quyền, các bộ ngành chuyên môn để các em phát triển ngày một tốt
hơn.

22


KẾT LUẬN
Trẻ em mồ côi là đối tượng luôn phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc
sống, vì vậy các em cần được xã hội quan tâm và tạo điều kiện để cuộc sống
của các em trở nên tốt đẹp hơn. Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu đề tài
“Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS thành
phố Hà Nội” tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kết luận sau:
Làng trẻ em SOS Hà Nội là một cơ sở bảo trợ xã hội với chức năng
chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Tại
đây các em được chăm sóc một cách toàn diện và có những điều kiện thuận
lợi nhất để hòa nhập cộng đồng. Cũng tại nơi này các em nhận được sự
thương yêu, đồng cảm, sự sẻ chia từ cán bộ, nhân viên đó chính là nền tảng
cơ bản để các em phát triển toàn diện và từng bước tái hòa nhập cộng đồng.
Đây cũng chính là ưu thế nổi trội của việc chăm sóc theo mô hình gia đình
thay thế của tổ chức Làng trẻ em SOS so với các cơ sở bảo trợ xã hội khác
trên cả nước.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên tại Làng trẻ em SOS Hà Nội có vai trò rất
quan trọng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em mồ côi. Tuy
nhiên phương pháp và kĩ năng CTXH của một số cán bộ, nhân viên còn hạn
chế chưa đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của trẻ.
TEMC tại Làng trẻ em SOS Hà Nội đã được chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục khá toàn diện. Nhưng thực tế khi tiếp xúc với các em chúng ta
dễ dàng nhận thấy các em còn gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp cũng như
thiếu hụt một số kĩ năng trong cuộc sống. Vì vậy việc vận dụng phương

pháp CTXH nhóm vào đối tượng TEMC tại Làng trẻ em SOS Hà Nội là cần
thiết để giúp các em nâng cao năng lực hòa nhập cộng đồng trong tương lai.

23


×