Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ CHẤT LƯỢNG tín DỤNG TRONG GIẢM NGHÈO của NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH xã hội , THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.22 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRONG GIẢM NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng
1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng trong
giảm nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Thành
phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRONG
GIẢM NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI
GIAN QUA
2.1. Một số nét khái quát về Ngân hàng chính sách xã hội
Thành phố Hà Nội
2.2. Thành tựu, hạn chế về chất lượng tín dụng trong giảm
nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Hà Nội thời gian
qua, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRONG GIẢM
NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Những quan điểm cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng tín
dụng trong giảm nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội
Thành phố Hà Nội
3.2. Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tín dụng trong
giảm nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố
Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC

3

11
11

20

35
35

38

60

60

63
80
81
86


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là vấn đề xã hội mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều có
thể gặp phải. Thực hiện xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội là chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các

vùng, địa bàn và giữa các nhóm dân cư. Trong Báo cáo "Khởi đầu tốt nhưng
chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và
những thách thức mới" của Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi
nhận: Trong vòng 20 năm (1990 - 2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ
gần 60% xuống cịn 20,7% với khoảng hơn 30 triệu người thốt nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại một bộ phận khơng nhỏ người dân vẫn
ở trong tình trạng đói nghèo và các đối tượng chính sách cần được quan tâm
giúp đỡ. Một trong những nguyên nhân của những hộ nghèo là thiếu vốn để
sản xuất kinh doanh, thiếu điều kiện để học nghề... Để giải quyết vấn đề đó,
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam được thành lập nhằm mục đích cấp tín
dụng ưu đãi đối với các hộ nghèo và đối tượng chính sách khác để giải quyết
nhu cầu về vốn cho họ.
Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Hà Nội là chi nhánh của
NHCSXH Việt Nam. Trong những năm qua bằng sự hoạt động tích cực của
mình, NHCSXH thành phố Hà Nội đã giúp các các đối tượng chính sách được
tiếp cận thuận lợi và vay vốn kịp thời để phát triển sản xuất, thực hiện xóa đói
giảm nghèo, đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong cấp
tín dụng cho hộ nghèo trên địa bàn thành phố của NHCSXH vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập, nhất là về chất lượng tín dụng. NHCSXH Thành phố Hà Nội
mặc dù đã cố gắp phấn đấu đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu của khách hàng
nhưng quy mơ cấp tín dụng cịn tăng chậm, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu
cầu của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

3


Hiệu quả xã hội trong hoạt động cho vay ưu đãi của NHCSXH vẫn còn
hạn chế, chưa bền vững. Mặt khác vẫn còn tồn tại nợ quá hạn nên vẫn tiềm ẩn
nguy cơ không thu hồi được vốn cho vay của NHCSXH Thành phố Hà Nội.
Điều này khiến cho hiệu quả tín dụng của NHCSXH trong cho vay hộ nghèo

cịn chưa cao. Hơn thế nữa, sau khi sát nhập tỉnh Hà Tây (trước đây) vào
Thành phố Hà Nội thì vấn đề giảm nghèo có những địi hỏi rất mới, nhất là
nhu cầu vốn vay của hộ nghèo, hộ chính sách trên địa bàn thành phố.
Chính vì vậy, làm thế nào nâng cao chất lượng tín dụng nhằm bảo đảm
cho sự phát triển bền vững của nguồn vốn tín dụng, đồng thời người nghèo
thốt khỏi cảnh nghèo đói là một vấn đề được cả xã hội quan tâm, cũng như
tại NHCSXH Việt Nam nói chung và NHCSXH Thành phố Hà nội nói riêng.
Đó cũng là câu hỏi được đặt ra cho thực tiễn hiện nay.
Nhận thức được tính cấp thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng
cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, tơi đã chọn chủ đề “Chất
lượng tín dụng trong giảm nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Thành
phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xóa đói, giảm nghèo và vai trị của Ngân hành chính sách xã hội đối
với q trình xóa đói, giảm ngèo trong giai đoạn hiện nay đang trở thành vấn
đề được toàn xã hội quan tâm. Vì vậy, đã có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý
nghiên cứu làm rõ và công bố những kết quả nghiên cứu của mình, tiêu biểu
như các cơng trình sau:
- Trần Xuân Trang (2004), Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Trong phần cơ sở lý luận tác giả đã trình bày tương
đối chi tiết một số khái niệm cơ bản về Ngân hàng Chính sách, các hoạt động
cơ bản của Ngân hàng Chính sách và hoạt động cho vay đối với hộ nghèo.
Tác giả đã xây dựng các tiêu chíđó lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ
nghèo của Ngân hàng Chính sách.

4


- Trần Quyết Thắng (2007), Cho vay hộ nghèo tại Phịng giao dịch Ngân

hàng chính sách xã hội huyện Lý Nhân.Chi nhánh tỉnh Hà Nam. Thực trạng và
giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Phần cơ sở lý luận tác giả đã hệ thống những vấn đề cơ bản về Ngân hàng
Chính sách như: Mục tiêu, hoạt động huy động và cho vay, ngun tắc cho
vay...sau đó, đã nêu lên tính cấp thiết và vai trò cho vay hộ nghèo. Phần chương
2, tác giả nêu thực trạng cho vay hộ nghèo tại phịng giao dịch ngân hàng chính
sách xã hội huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đánh giá chung về thực trạng và chất
lượng tín dụng cho vay hộ nghèo tại phòng giao dịch NHCSXH huyện Lý Nhân
như: những mặt đạt được, hạn chế và nguyên nhân của nó. Từ đó rút ra được
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ nghèo tại phòng giao dịch Ngân
hàng CSXH Huyện Lý Nhân.
- Huyền Thị Thùy Linh (2008) Giải pháp góp phần phát triển hoạt
động cho vay người nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Kết
cấu bài làm gồm 3 phần, phần cơ sở lý luận tác giả đã đưa ra một số khái
niệm cơ bản về Ngân hàng CSXH như mục tiêu, cơ chế, ý nghĩa của hoạt
động cho vay đặc biệt là cho vay hộ nghèo. Phần này tác giả cũng đã nêu lên
tính cấp thiết đối với nhu cầu vay vốn của người nghèo và một số nhân tố
ảnh hưởng đến hoạt động cho vay hộ nghèo. Phần hai, tác giả đánh giá thực
trạng cho vay của Ngân hàng CSXH Việt Nam đối với hộ nghèo, qua các số
liệu thực tế thu thập được tác giả đã rút ra nhữngthành tựu đạt được và hạn
chế, nguyên nhân tác động đến hoạt động cho vay đối với hộ nghèo. Từ đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần phát triển hoạt động cho
vay người nghèo tại NHCSXH Việt Nam. Các giải pháp này khá chi tiết, cụ
thể, dễ dàng áp dụng vào thực tiễn hoạt động cho vay hộ nghèo của
NHCSXH, tuy nhiên các giải pháp chưa mang tính đồng bộ thống nhất cao.
- Phạm Thị Châu (2007), Tín dụng ngân hàng chính sách xã hội với
cơng tác xóa đói giảm nghèo, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế thành
5



phố Hồ Chí Minh. Trong bài luận văn của mình, tác giả đã làm rõ cơ sở lý
luận về vai trị xóa đối giảm nghèo của hoạt động tín dụng ngân hàng chính
sách cũng như quan điểm cơ bản của Nhà nước ta về xóa đói giảm nghèo.
Đồng thời, trong chương 2, tác giả đã phân tích thực trạng hoạt động tín dụng
chính sách tại ngân hàng chính sách xã hội Lâm Đồng và đánh giá hiệu quả
các chương trình tín dụng chính sách xã hội về hiệu quả đầu tư, hiệu quả về
phía ngân hàng, hiệu quả.
- Đỗ Ngọc Tân (2012), Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ Tài chính
ngân hàng, Học viện Ngân hàng Hà Nội. Luận văn đã hệ thống hoá những vấn
đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo. Phân tích, đánh giá
thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tỉnhNinh Bình. Đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại
(Ngân hàng Chính sách xã hội) NHCSXH tỉnh Ninh Bình.
- Phạm Thị Châu (2007), Tín dụng Ngân hàng chính sách xã hội với
cơng tác xóa đói giảm nghèo tại Lâm Đồng, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã tổng hợp, hệ thống hóa những
vấn đề lý luận cơ bản về Chính sách tín dụng, tín dụng ngân hàng, tín dụng
chính sách. Thơng qua hoạt động của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Lâm
Đồngtrong bốn năm qua, nêu lên những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao hiệuquả thực hiện các chương trình tín dụng chính sách đối với cơng tác
xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
- Nguyễn Hoàng An (2014), Nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân
hàng chính sách xã hội Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ kinh
tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống
hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng, chất lượng tín dụng bao gồm
khái niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Trên cơ sở đó, luận văn đã đi sâu phân tích đánh giá những thành tựu, hạn chế


6


và nguyên nhân của những han chế trong chất lượng tín dụng của Ngân hàng
chính sách xã hội Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh từ năm 2011- 2013. Từ đó,
luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh tới năm 2018.
- Đỗ Quế Lượng (2001), Thực trạng và giải pháp tín dụng ngân hàng
hỗ trợ cho cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, Đề tài nghiên cứu khoa học mã số
KNN2000, Hà Nội. Trong cơng trình nghiên cứu, các tác giả đã đánh giá
những thành tựu đã đạt được trong cơng tác xóa đói giảm nghèo ở Việt nam.
Trong cơng cuộc đó, vai trị của ngân hàng trong việc giải quyết nhu cầu vốn
cho hộ nghèo và hộ chính sách đã phát huy những hiệu quả nhất định. Cơng
trình đã làm rõ vai trị của tín dụng ngân hàng trong xóa đói giảm nghèo.
Đồng thời đánh giá những hạn chế và nguyên nhân trong cơng tác cấp tín
dụng cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Trên cơ sở đó, các tác giả đã
đề xuất những phương hướng tăng cường vai trị tín dụng đối với xóa đói
giảm nghèo, tập trung vào giải pháp tăng chất lượng hoạt động tín dụng.
- Hương Thủy (2014), Làm tốt hơn hoạt động tín dụng trong xóa đói
giảm nghèo, báo Khoa học và đời sống. Tác giả đã đánh giá những thành tựu
mà NHCSXH làm được trong cơng tác xóa đói giảm nghèo từ năm 2012 –
2013; đồng thời, tác giả cũng đề cập tới những biện pháp nâng cao hơn nữa
hiệu quả tín dụng trong xóa đói giảm nghèo.
- Ngơ Thị Huyền (2010), Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo, báo
Khoa học và đời sống. Thông qua nghiên cứu này, tác giả đề cập về mặt lý
luận những tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng tới
hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phan Thanh Tú (2013), Nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tân Kỳ (Nghệ An), bài nghiên cứu đánh
giá những thành tựu và những tồn tại cần khắc phục trong việc nâng cao hiệu

quả tín dụng hộ nghèo của NHCSXH Tân Kỳ sau 10 năm đi vào hoạt động.

7


- Nguyễn Văn Hiệp (1999), Về quản lý cho vay hộ nghèo, Tạp chí Thị
trường tài chính tiền tệ, số 7. Bài nghiên cứu của tác giả bàn về vấn đề quản
lý cho vay hộ nghèo để nhằm giúp cho hộ vay vốn có thể nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn vay, gia tăng thu nhập và thoái nghèo.
- Thu Hằng (2015), Nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội,
Cổng giao tiếp điện tử Thành phố Hà Nội. Bài viết đã chỉ rõ nâng cao trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền trong việc củng cố,
nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội; công tác điều tra, xác nhận
đối tượng vay vốn và bổ sung danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu vốn
sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ nhằm tạo điều kiện hỗ trợ vốn tín
dụng ưu đãi; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng Chính sách
xã hội trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách tín dụng ưu đãi, kiểm
tra hoạt động của các tổ giao dịch; gắn kết các hoạt động chuyển giao khoa
học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo nghề… với hoạt động cho
vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội giúp người vay sử dụng vốn hiệu
quả.
- Anh Thi (2015), Lâm Đồng tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng
chính sách, Tạp chí chuyên ngành của Ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam, bài nghiên cứu của tác giả đã nêu bật những thành công và nguyên nhân
của những thành cơng trong nâng cao chất lượng tín dụng chính sách tại
NHCSXH Lâm Đồng. Cụ thể hai nguyên nhân chủ yếu là do Ngân hàng đã
phân bổ vốn kịp thời và tăng trưởng dư nợ theo đúng kế hoạch.
- Ngồi những cơng trình đã được tác giả nêu ra ở trên, vẫn còn nhiều
luận văn, đề án, bài báo, báo cáo khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vẫn chưa có một nghiên cứu nào về

chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của NHCSXH Thành phố Hà Nội dưới
góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là một “khoảng trống” khoa học

8


để tác giả lựa chọn vấn đề “Chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của ngân
hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng tín
dụng của NHCSXH trong giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Trên
cơ sở đó, đề xuất những phương hướng và giải pháp để tiếp tục nâng cao hơn
nữa chất lượng tín dụng của NHCSXH trong giảm nghèo trong những năm tới
(đến năm 2020).
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ chất lượng tín dụng của NHCSXH trong hoạt động giảm
nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hoạt động
giảm nghèo của NHCSXH Thành phố Hà Nội, làm rõ nguyên nhân và các vấn
đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng tín
dụng trong giảm nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội và
các giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng của NHCSXH
đối với giảm nghèo những thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chất lượng tín dụng của NHCSXH trong giảm nghèo.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn Thành phố Hà Nội nhất là khu vực thuộc

về Hà Tây (trước đây).
- Về thời gian: Từ năm 2009 - 2013; tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu
có tính hệ thống, luận văn có đề cập một số nội dung liên quan trong thời gian
trước và sau 5 năm nói trên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận

9


Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác - Lênnin, các quan
điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà
nước về đói nghèo, cơng cuộc xóa đói giảm nghèo thời gian qua, và các cơ
chế hoạt động của NHCSXH, chức năng, nhiệm vụ của NHCSXH trong giảm
nghèo và cấp tín dụng cho hộ nghèo cùng các đối tượng chính sách.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính
trị, gồm: phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, phương pháp điều tra xã hội học, phướng pháp hệ thống hóa, mơ
hình hóa và đồ thị, phương pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đưa ra quan niệm về chất lượng tín dụng và nâng cao chất lượng tín
dụng trong cho vay của NHCSXH đối với hộ nghèo và đối tượng chính sách
khác, làm rõ các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng cũng như sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của NHCSXH
đối với hộ nghèo và đối tượng chính sách khác.
- Đánh giá tồn diện thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo và
đối tượng chính sách khác tại NHCSXH Thành phố Hà Nội từ năm 2009 cho
tới nay, làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân và những vấn đề đật

ra cần giải quyết, đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tín
dụng phát huy vai trò của NHCSXH Thành phố Hà Nội đối với hộ nghèo và
đối tượng chính sách khác trên cơ sở những quan điểm cơ bản về nâng cao
chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của NH trong thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy mơn kinh
tế chính trị và tài liệu tham khảo cho lãnh đạo các cấp, lãnh đạo các chi nhánh
NHCSXH của Hà Nội cũng như các địa phương khác tham khảo nhằm đề ra các
biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng trong giảm nghèo trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài

10


Luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRONG GIẢM
NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ
NỘI
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng
1.1.1. Khái niệm, bản chất và chức năng của tín dụng
Một là, khái niệm về tín dụng
Tín dụng và tiền tệ gần như có lịch sử phát sinh, tồn tại và phát triển
đồng thời. Cũng như tiền tệ, quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp và từng bước được đa dạng hoá theo sự phát triển của
nền kinh tế thị trường.
Quan hệ tín dụng thơ sơ nhất phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện thì đồng
thời cũng xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hố. Bên cạnh đó hiện tượng phân
hóa giàu nghèo cũng hình thành và phát triển. Rất nhiều tư liệu sản xuất và

vật phẩm tiêu dùng được tập trung vào một số ít người. Trong khi đó, đại bộ
phận các hộ gia đình khác khơng có hoặc có rất ít những tư liệu trên. Do đó
họ rễ bị rơi vào tình trạng túng thiếu bởi nhiều lý do khác nhau.
Để duy trì được cuộc sống trong xã hội, tất yếu phải diễn ra q trình
điều hồ sản phẩm từ nơi thừa đến nơi thiếu. Qúa trình này được thực hiện
dưới hình thức “vay mượn”. Do số lượng người cho vay ít mà số người cần
vay thì nhiều, nên những người cho vay thu lãi rất cao. Vì vậy hình thành nên
“tín dụng nặng lãi”. Nhưng khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình
thành và phát triển, thì nền sản xuất hàng hố lớn cũng phát triển và mở rộng
từng bước. Lúc này “tín dụng nặng lãi” khơng cịn thích hợp. Giai cấp tư sản

11


đã tạo lập cho mình hình thức tín dụng mới - tín dụng tư bản chủ nghĩa, từng
bước đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế xã hội. Suất lợi tức của loại hình
tín dụng này thấp. Hơn nữa nó lại biểu hiện sự phân chia quyền lợi kinh tế
một cách bình đẳng giữa bên tham gia vào quá trình thực hiện quan hệ tín
dụng này cho nên “tín dụng tư bản chủ nghĩa” khơng những mang tính chất
sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy nên kinh tế thị trường.
Như vậy, tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận. Bên
đi vay có trách nhiệm hồn trả vô điều kiện vốn và lãi cho bên cho vay khi
đến thời hạn thanh tốn.
Về bản chất, tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa trên sự tin cậy.
Ngun thủy, thuật ngữ tín dụng có nguồn gốc từ tiếng Latinh cổ là Credium”
có nghĩa là sự tin tưởng, sự tín nhiệm.
Theo Các Mác: Tín dụng là một quá trình chuyển nhượng tạm thời một

lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định
thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Quá trình đem
tiền cho vay với tư cách là một việc với đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất
phát của nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn
lên thêm trong quá trình vận động.
Các nhà kinh tế học hiện đại, đã nghiên cứu và đưa ra rất nhiều định
nghĩa khác nhau về tín dụng. Các nhà kinh tế học A.Ararit và Ksuk định
nghĩa tín dụng như sau: Tín dụng phát sinh giữa một bên (người cho vay) trao
cho bên khác (người đi vay) quyền sử dụng một số tiền nhất định, trong đó
người đi vay có nhiệm vụ phải trả lại số tiền vay đó đúng hạn quy định. Để có
quyền sử dụng tư bản đó, bên đi vay phải trả một khoản bồi thường, tức là lợi

12


tức. Theo Opst và Khimt Nher, đặc trưng của quan hệ tín dụng là: Người cho
vay thực hiện ngay nghĩa vụ của mình nhưng chỉ nhận được quyền lợi trong
tương lai xa hơn. Những rủi ro đặc biệt của hình động tín dụng chủ yếu xuất phát
từ đó. Theo hai cách định nghĩa này, tín dụng được hiểu là quan hệ nhường
quyền sử dụng tiền trong hiện tại để đổi lấy quyền hưởng lợi tức trong tương lai.
Ở đâu tính chất sinh lời và rủi ro của hoạt động tín dụng được nhấn mạnh.
Tín dụng phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể
sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên ngun tắc hồn trả có kỳ
hạn cả vốn gốc lẫn lợi tức.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa các chủ thể kinh tế có
ngân hàng làm trung tâm. Dưới hình thức này, các quan hệ tín dụng được
thực hiện thông qua hoạt động của ngân hàng. Theo đà phát triển của nền
kinh tế, hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành hình thức chủ yếu
khơng chỉ ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.
Theo nội dung của khoản 14 và 16, điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số

47/2010/QH12 xác định: Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân
sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
ngun tắc có hồn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng
khác. Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam
kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với ngun tắc có hồn trả cả
gốc và lãi. Nói cách khác, nếu xem xét tín dụng ngân hàng như một q trình,
có thể phát biểu tín dụng ngân hàng là sự vận động của giá trị vốn lần lượt
qua ba giai đoạn: Giai đoạn cho vay: chuyển giao cho bên đi vay một lượng
giá trị nhất định biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Giai đoạn sử
dụng vốn: Bên đi vay sử dụng tạm thời tài sản trên trong một thời gian nhất
định, hết thời gian thoả thuận, bên đi vay phải hoàn trả lại cho bên cho vay.

13


Giai đoạn hoàn trả: Sau thời gian sử dụng vốn vay bên đi vay phải hoàn trả
cho bên cho vay một giá trị vốn lớn hơn giá trị lúc cho vay. Phần chênh lệch
đó có thể xem là lợi tức của bên cho vay.
Tùy theo cách phân chia khác nhau, tín dụng ngân hàng có các loại
khác nhau. Nếu phân chia theo thời gian thì có tín dụng ngắn hạn, tín dụng
trung hạn (trên 1 năm và dưới 5 năm) và tín dụng dài hạn (trên 5 năm). Nếu
phân chia theo đối tượng đầu tư của tín dụng thì có tín dụng vốn lưu động, tín
dụng vốn cố định...
Tóm lại, tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay
và bên đi vay, trong đó các các ngân hàng, các tổ chức tín dụng vừa là bên đi
vay vừa là bên cho vay. Bên cho vay chuyển giao tạm thời quyền sử dụng tài sản
cho bên đi vay trong thời gian thỏa thuận, bên đi vay có nghĩa vụ hồn trả lại vơ
điều kiện đầy đủ vốn và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh tốn.

Hai là, đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản và bất động sản). Về mặt
hình thức, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất
định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người
sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại
cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dơi ra này được gọi
là lợi tức tín dụng.
Trong hình thức tín dụng ngân hàng, nguồn tài chính có thể được biểu
hiện dưới hình thức là tiền tệ nhưng có thể thể hiện dưới hình thức là hiện vật.
Dưới hình thức là tiền tệ, người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một
khoản tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn trong một khoảng thời
gian nhất định. Dưới hình thức là tài sản, người cho vay sẽ nắm giữ quyền sở

14


hữu tài sản và cho người đi vay thuê tài sản để sử dụng trong một khoảng thời
gian nhất định.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nên khi người cho vay chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng, họ phải có cơ sở để tin rằng người đi vay trả
đúng hạn. Tín dụng ngân hàng cũng giống như các hình thức tín dụng khác,
được thực hiện dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Tức là, người đi vay chỉ được sử
dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó phải hồn trả phần
vốn gốc này cho người cho vay. Hay nói cách khác, người đi vay chỉ có
quyền sử dụng vốn mà khơng có quyền sở hữu vốn. Chính vì vậy, khi cho
vay, người đi vay phải có cơ sở để tin tưởng vào khả năng hồn trả của người
đi vay. Do đó, người đi vay phải chứng minh được mục đích sử dụng vốn
vay, nguồn tài chính trả nợ vay trong tương lai và thường phải thế chấp hay
cầm cố tài sản có giá trị để vay vốn.

- Giá trị hồn trả thơng thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngồi vốn gốc. Trong quan hệ
tín dụng ngân hàng, thực chất là người đi vay mua quyền sử dụng vốn trong một
khoảng thởi gian nhất định. Chính vì vậy, hết thời gian sử dụng người đi vay
phải hoàn trả toàn bộ phần vốn gốc ban đầu và thêm một khoản tiền để mua
quyền sử dụng vốn. Khoản tiền này được gọi là tiền lãi, được tính trên cơ sở lãi
suất, vốn gốc và thời gian đi vay. Khoản tiền lãi này có thế được chi trả vào cuối
kỳ khi hết thời hạn vay vốn hoặc chi trả định kỳ.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cung cấp trên cơ sở
cam kết hồn trả vơ điều kiện. Người đi vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng
phải cảm kết hồn trả tiền gốc và lãi vơ điều kiện dựa trên cơ sở những điều
khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên.
Nghĩa vụ trả tiền này được bảo hộ bởi pháp luật. Trong trường hợp người đi
vay cầm cố thế chấp bằng tài sản mà khơn hồn thành nghĩa vụ chi trả tiền
gốc và lãi đúng hẹn, ngân hàng có thể phát mãi tài sản của họ để thu hồi vốn.

15


Ba là, bản chất của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù
lịch sử. Sự xuất hiện và tồn tại của nó gắn liền với sự xuất hiện và tồn tại của
nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ.
Thật vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy với nền kinh tế tự cung tự
cấp, chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sản phẩm hàng hóa chưa
xuất hiện, khi đó chưa có phạm trù tín dụng ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội loài người cũng
dần dần xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (sản phẩm,
hàng hóa) và diễn ra q trình phân hóa giai cấp, kẻ giàu, người nghèo, đẩy
lùi xã hội cộng sản nguyên thủy vào dĩ vãng. Nền kinh tế tự cung tự cấp đã

được thay thế bởi nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, ln ln tồn tại một hiện tượng, đó
là trong khi một số chủ thể có trong tay những khoản vốn tiền tệ tạm thời dư
thừa, chưa sử dụng; đồng thời cũng tại thời điểm này, lại có những chủ thể
đang ở trạng thái ngược lại họ đang bị thiếu vốn, đang có nhu cầu cần được
bổ sung vốn tiền tệ. Đây chính là một mâu thuẫn rất thường xuyên, phổ biến
và không thể không được giải quyết.
Xét về bản chất kinh tế, ẩn sau mâu thuẫn trên chính là sự phản ánh
hiện tượng ách tắc của dịng chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Giải
quyết mâu thuẫn này cũng chính là việc khơi thơng dịng chu chuyển vốn tiền
tệ trong nền kinh tế, nhằm tạo điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển nền
kinh tế xã hội. Cơng cụ tín dụng dựa trên ngun lý cơ bản là ứng vốn có
hồn trả. Khi một chủ thể lâm vào tình trạng tạm thời thiếu vốn, họ sẽ được
đáp ứng nhu cầu bằng khoản cho vay của chủ thể có vốn. Ngược lại một chủ
thể ở trạng thái tạm thời thừa vốn, họ có thể tìm kiếm được một khoản lợi

16


nhuận nhất định từ hành vi chuyển giao tạm thời quyền sử dụng số vốn nhàn
rỗi đó cho chủ thể khác.
Như vậy, thông qua công cụ này mâu thuẫn giữa tạm thời thừa và thiếu
vốn trong nền kinh tế xã hội được giải quyết một cách hợp lý, dòng chảy vốn
tiền tệ đã được khơi thông, đáp ứng nhu cầu của các chủ thể có liên quan. Sự
xuất hiện của các tổ chức tín dụng làm trung gian tài chính trong nền kinh tế
đã làm cho các dòng chảy vốn ngày càng mạnh mẽ, giải quyết mọi nhu cầu
của các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn.
Bốn là, chức năng của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng có chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ trên
cơ sở có hồn trả. Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông

qua phân phối lại vốn và dựa trên cơ sở tự nguyện theo ngun tắc hồn trả và
có hiệu quả. Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế "hút" (hay huy
động) các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi, phân tán trong xã hội để "đẩy" (hay cho
vay) nó vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Thứ hai, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Kiểm sốt các hoạt động kinh tế
của tín dụng có liên quan đến đặc điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn,
đến mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Người có vốn cho vay ln
quan tâm đến sự an tồn của vốn; khơng những thế, họ còn mong muốn vốn của
họ khi sử dụng có khả năng sinh lợi để họ có thể thu thêm về khoản lợi tức. Muốn
vậy, người cho vay phải am hiểu và kiểm soát hoạt động của người đi vay, từ
khâu xem xét tư cách pháp nhân người vay, tình hình vốn liếng, mặt hàng sản xuất
kinh doanh cả về chất lượng và số lượng, khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài
chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…
1.1.2 Chất lượng tín dụng
Chất lượng là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng: Theo Giáo sư Crosby thì

17


"Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định". Tuy
nhiên, theo Giáo sư người Mỹ Juran lại cho rằng: "Chất lượng là sự phù hợp
với nhu cầu". Có quan điểm khác cho rằng “chất lượng là kết quả của một q
trình đánh giá, tích lũy của khách hàng dựa trên sự so sánh giữa chất lượng
mong đợi và mức độ chất lượng khách hàng đã nhận được” [24, tr. 83].
Dựa vào điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005 đã định nghĩa chất
lượng là: "Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có".
Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được
biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt
tài chính cho người cung cấp. Theo cách đó, trong hoạt động tín dụng ngân

hàng, chất lượng dịch vụ tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn như cầu vay
vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đát nước,
đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng được hiểu một cách khái quát nhất đó là sự đáp
ứng nhu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với
sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín
dụng cung cấp sản phẩm tín dụng đó. Theo từ điển Weekipedia thì: Chất
lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp
cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh, đo lường chất lượng tín dụng,
có rất nhiều chỉ tiêu nhưng nhìn chung có thể đề cập tới: tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo.
Với mỗi bên tham gia vào hoạt động tín dụng thì chất lượng dịch vụ tín
dụng lại được hiểu một cách khác nhau.
Đối với ngân hàng: Chất lượng dịch vụ tín dụng thể hiện ở phạm vi,
mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân Ngân
hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hồn trả
đúng hạn và có lãi.

18


Đối với khách hàng: Do nhu cầu sử dụng dịch vụ tín dụng của khách
hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên chất
lượng dịch vụ tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử
dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục vay đơn giản,
thuận lợi nhưng vẫn đảm bảo nguyên tác tín dụng.
Đối với nền kinh tế: Dịch vụ tín dụng có chất lượng nghĩa là phải huy
động được tối đa lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và thực hiện cho vay đầu tư
phát triển nền kinh tế theo định hướng của Nhà nước một cách có hiệu quả
nhất. Tức là việc đầu tư tín dụng sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động,

tạo ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, giá thành hạ; đồng thời, thơng
qua đó sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước như:
hợp lý hố cơ cấu nền kinh tế; giải quyết cơng ăn, việc làm và cải thiện cuộc
sống cho người lao động, củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại quốc gia, đặc biệt
là góp phần vào cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Tóm lại, có thể định nghĩa rằng: Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự
đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay
tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng
lợi nhuận cho Ngân hàng phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội.
Từ đó cho chúng ta thấy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của
khách hàng: Trong một thời gian dài, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng định
nghĩa và đo lường chất lượng dịch vụ. Lehtinen & Lehtinen (1982) cho là
chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên hai khía cạnh là q trình cung
cấp dịch vụ và kết quả của dịch vụ. Gronroos (1984) cũng đề nghị hai thành
phần của chất lượng dịch vụ, đó là chất lượng kỹ thuật, đó là những gì mà
khách hàng nhận được và chất lượng chức năng, diễn giải dịch vụ được cung
cấp như thế nào.
Tuy nhiên, khi nói đến chất lượng dịch vụ, chúng ta cần phải đề cập
đến đóng góp rất lớn của Parasuraman & ctg (1988, 1991). Parasuraman &

19


ctg, định nghĩa chất lượng dịch vụ là: Mức độ khác nhau giữa sự mong đợi
của người tiêu dùng về dịch vụ và nhận thức của họ về kết quả của dịch vụ.
Như vậy, chất lượng dịch vụ luôn được so sánh với mức độ thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng sau khi đã tiêu dùng dịch vụ hay nói cách khác, mức
độ thỏa mãn của khách hàng chính là thước đo chất lượng dịch vụ.
Đối với dịch vụ tín dụng của ngân hàng cũng tương tự như vậy. Đo
lường chất lượng tín dụng của ngân hàng trước hết phải dựa trên những cảm

nhận và sự thỏa mãn của khách hàng, tức là hoạt động tín dụng của ngân hàng
có làm hài lịng khách hàng hay khơng, có đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn
của khách hàng không….
Cùng với đó, chất lượng tín dụng là khái niệm vừa cụ thể vừa trừu
tượng: Chất lượng tín dụng là một khái niệm mang tính cụ thể vì nó được thể
hiện qua các chỉ tiêu tính tốn được như dư nợ tín dụng, cơ cấu tín dụng, tỷ lệ
nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn… Đồng thời chất lượng tín dụng cũng là khái niệm
mang tính trừu tượng vì nó cịn được thể hiện thơng qua các tiêu chí định tính
như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế, mức độ hài lịng
của khách hàng…
Ngồi ra, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và là một
chỉ tiêu tổng hợp vì nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay
đổi của mơi trường bên ngồi, nó thể hiện sức cạnh tranh của một ngân hàng
trong môi trường hoạt động.
1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng trong giảm
nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của Ngân
hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội
Ngân hàng Chính sách là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là
cho vay theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước (cho vay chính sách). Do
đối tượng phục vụ của Ngân hàng chính sách xã hội khá đặc biệt, là các đối

20


tượng chính sách như hộ nghèo, sinh viên… nên chất lượng tín dụng trong
giảm nghèo đối với Ngân hàng chính sách xã hội phải dựa trên sự thỏa mãn
nhu cầu của các đối tượng này và đảm bảo mục tiêu hoạt động của ngân hàng.
Như vậy, chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của NHCSXH Thành
phố Hà Nội là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của các đối tượng hộ

nghèo và các đối tượng chính sách khác trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an
tồn về vốn, hiệu quả sử dụng vốn nhằm đáp ứng cho nhu cầu giảm nghèo và
phát triển xã hội, chức năng, nhiệm vụ của NHCSXH được xác định khi thành
lập.
Chất lượng tín dụng trong giảm nghèo là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp,
phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng trong những điều kiện cụ thể của
xã hội và nền kinh tế. Do đó chất lượng tín dụng trong giảm nghèo kết quả
mối quan hệ biện chứng giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế - xã hội,
cho nên khi đánh giá chất lượng tín dụng cần phải xem xét cả ba phía ngân
hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Có thể nhận thấy đặc điểm chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của
NHCSXH xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của NHCSXH do Đảng, Nhà
nước, hệ thống ngân hàng quy định, cho nên khi bàn về chất lượng tín dụng
của NHCSXH những đặc điểm khác với các ngân hàng nói chung.
Một là, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng.
Giống như các NHTM khác, chất lượng tín dụng của NHTCSXH cũng
thể hiện thơng qua việc thỏa mãn một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng
vay vốn. Theo đó, khách hàng vay vốn đều có những yêu cầu được thỏa mãn
về quy mô vốn vay, thời hạn vay vốn với chi phí vay vốn thấp nhất. Tuy
nhiên, đối với NHCSXH thì khách hàng là hộ nghèo và các đối tượng chính
sách. Do đó, u cầu chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của NHCS ngồi
việc thỏa mãn nhu cầu về quy mô vốn và thời hạn vay còn phải giúp cho họ

21


sử dụng vốn đúng mục đích, đạt hiệu quả kinh tế, gia tăng thu nhập và thỏa
mãn được nhu cầu tiêu dùng (theo mục đích vay vốn) với lãi suất ưu đãi. Tín
dụng phát ra phải được sử dụng đúng mục đích, đáp ứng được nhu cầu sản
xuất kinh doanh, đầu tư vào đời sống của khách hàng với lãi suất kì hạn hợp

lí, hồ sơ thủ tục đơn giản theo đúng quy định của pháp luật mặt khác khách
hàng sử dụng vốn vay thực hiện thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi đúng kì hạn
thoả thuận. Việc sử dụng vốn vay đó khơng những có hiệu quả mang lại lợi
nhuận cho khách hàng mà mang lại kinh tế - xã hội đối với đất nước.
Như vậy riêng đối với hoạt động tín dụng mang tính chất xã hội như
cho vay giảm nghèo của ngân hàng CSXH thì ngồi u cầu hồn trả vay
đúng hạn, hiệu quả tín dụng còn phải hướng đến tạo thu nhập cho người đi
vay để họ nhanh chóng “thốt” nghèo, thực hiện được các mục tiêu của chính
sách xã hội đề ra.
Hai là, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu về chức năng và nhiệm vụ
của ngân hàng.
NHCSXH thực hiện chức năng, nhiệm vụ là đồng thời thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội, thực hiện
tín dụng ưu đãi với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, hoạt động
khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng phải bao hàm
cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng tới hiệu
quả xã hội của hoạt động cho vay này. Mặc dù, đối với các NTHM, chất
lượng tín dụng của NH cũng phải đảm bảo cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội nhưng dường như hiệu quả kinh tế đối với NHTM được xem trọng hơn.
Hiệu quả kinh tế: khả năng bảo tồn vốn của NH, giảm rủi ro trong
hoạt động tín dụng của NH. Đối với Ngân hàng phạm vi mức độ giới hạn Tín
dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng vừa đảm bảo được
tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn thu được tiền
vay; vừa đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng và thực hiện các

22


mục tiêu về kinh tế xã hội góp phần hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp phát
triển trên cơ sở sử dụng vốn Tín dụng của Ngân hàng. Trong khi đó, với

NHTM, hiệu quả kinh tế được đo lường bởi chỉ tiêu cuối cùng là lợi nhuận
của ngân hàng.
Hiệu quả xã hội: đóng góp trong cơng tác giảm nghèo, góp phần giảm
tỷ lệ thất nghiệp, xây dựng nông thôn mới và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tín
dụng phục vụ mọi cá nhân, góp phần giải quyết khó khăn và khai thác khả
năng tiềm tàng trong nền kinh tế thúc đẩy q trình tích tụ và trong sản xuất
giải quyết tốt các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tín dụng trong các loại hình NHTM sẽ có tác động rất lớn đến
sự tồn tại và phát triển của tổ chức đó, mức độ ảnh hưởng trực tiếp về mặt hiệu
quả kinh tế nhiều hơn về mặt xã hội, cịn hoạt động tín dụng trong giảm nghèo
của NHCSXH không những ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế mà nó cịn
tác động và ảnh hưởng to lớn về mặt xã hội: giảm nghèo, giải quyết việc làm,…
mà hiện nay giảm nghèo là vấn đề chung mà các nước đang phát triển phải đối
mặt, do vậy, giải quyết đói nghèo ln được đặt ra cùng với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và là một nội dung quan trọng cả chiến lược. Để giảm nghèo
phải dựa trên nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là cơng việc của
tồn xã hội trong đó hệ thống ngân hàng có vị trí và vai trị hết sức quan trọng.
Nâng cao chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của ngân hàng chính
sách xã hội là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp
nhằm hồn thiện, mở rộng quy mơ và gia tăng hiệu quả tín dụng của ngân
ngân hàng chính sách xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng trong giảm nghèo của
Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội
* Đối với ngân hàng chính sách xã hội Hà Nội

23


Từ chức năng, nhiệm vụ của NHCSXH được Đảng và Nhà nước quy
định khi thành lập và hoạt động có thể đưa những tiêu chí đánh giá chất lượng

tín dụng của NH trong giảm nghèo như sau:
Một là, cho vay đúng đối tượng, thủ tục thuận tiện phù hợp với quan
điểm đường lối, chính sách, luật pháp, các quy định của Luật ngân hàng và
điều kiện của người vay vốn.
Cho vay đúng đối tượng có nghĩa là NHCSXH phải đảm bảo người vay
vốn chứng thực là thuộc đối tượng thuộc diện cấp tín dụng của NHCSXH.
Các đối tượng vay vốn này phụ thuộc vào quy định của NHCSXH, từng
chương trình cho vay của NH trong những thời kỳ khác nhau. Nhìn chung,
các đối tượng vay vốn của NHCSXH đều là hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc các
đối tượng chính sách khác.Việc đảm bảo cho vay đúng đối tượng của
NHCSXH rất quan trọng vì nguồn vốn tín dụng này có lãi suất ưu đãi thấp,
nên đối tượng cấp tín dụng cũng chỉ giới hạn. Tuy nhiên, lãi suất thấp nên
người dân đều có nhu cầu tiếp cập nguồn vốn ưu đãi này. Chính vì vậy, lựa
chọn đối tượng cấp tín dụng phải được tiến hành thận trọng, chính xác và
cơng bằng để nguồn vốn của Nhà nước không bị sử dụng sai đối tượng, sai
mục đích. Trong khi triển khai các chương trình cho vay, NHCSXH cần có
các quy định cụ thể về tiêu chuẩn cấp tín dụng và thực hiện các biện pháp
kiểm tra, giám sát đối tượng cấp tín dụng.
Thủ tục cho vay vốn của NHCSXH cần phải được quy định rõ ràng, tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng trên địa bàn có thể hiểu rõ về các tiêu
chuẩn và điều kiện vay vốn, dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng
chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
Hai là, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu của khách hàng trên cơ sở huy
động tối đa nững khả năng của ngân hàng về cung cấp tín dụng.
Một ngân hàng nếu có thể đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu của những
khách hàng có đủ điều kiện cần thiết để vay vốn của ngân hàng thì ngân hàng
đó đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Như vậy khả năng cấp tín dụng đối

24



với khách hàng một mặt nào đó cũng đã đánh giá được khả năng cung ứng
dịch vụ của ngân hàng hay cũng có thể nói là đã thực hiện tốt chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Khả năng cấp tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội
được biểu hiện thơng qua vốn tín dụng có đáp ứng tất cả những người có nhu
cầu vay vốn trên địa bàn hay khơng. Cụ thể, khả năng cấp tín dụng của
NHCSXH được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như: Tổng mức dư nợ tín
dụng, tổng mức doanh số cho vay, số lượng khách hàng và cơ cấu vay vốn
theo mục đích sử dụng của người đi vay.
Tuy nhiên, mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn của người đi vay lại phụ
thuộc rất lớn vào khả năng huy động vốn của NHCSXH. Tuy nhiên, chức
năng và nhiệm vụ của NHCSXH khác so với các NHTM nên đặc điểm hoạt
động huy động vốn của NH cũng có những đặc trưng nhất định. Nguồn vốn
của NHCSXH chủ yếu tới từ NSNN. Nguồn vốn từ huy động tiền gửi chiếm
tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn của NH.
Ba là, đảm bảo được hiệu quả kinh tế, xã hội cao và bền vững đối với
người đi vay. Hiệu quả xã hội của tín dụng NHCSXH: khác với các ngân
hàng thương mại, chất lượng cấp tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội
cịn phải được đo lường bởi hiệu quả xã hội của hoạt động này. Hiệu quả xã
hội có thể đo lường bởi việc hồn thành các mục tiêu xã hội của ngân hàng
chính sách. Có thể kể tới như:
Phát triển sản xuất kinh doanh nhằm tác động tới chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động. Đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách, khi
phát triển sản xuất kinh thì yếu tố quan trọng nhất họ cần là vốn. Tuy nhiên,
những đối tượng này năng lực tài chính và tài sản đảm bảo có hạn nên khó
khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Mặt
khác, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại có chi phí sử dụng vốn
cao. Do đó, với nguồn vốn của NHCSXH thì điều kiện vay vốn tương đối đơn

25



giản, mức lãi suất thấp sẽ tạo điều kiện cho các đối tượng này có vốn phát
triển sản xuất kinh doanh.
Giảm nghèo: Mục đích của việc cấp tín dụng là cho các đối tượng có
thu nhập thấp vay vốn với lãi suất ưu đãi để có thể mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh, chuyển đổi nghề nghiệp và gia tăng thu nhập cho gia đình,
giúp các gia đình thốt nghèo bền vững. Hiệu quả giảm nghèo có thể đo
lường qua các tiêu chí như: số hộ nghèo được vay vốn ưu đãi, mức vay bình
quân trên một hộ nghèo được vay vốn, tỷ lệ hộ nghèo của địa phương qua các
năm và mức thu nhập bình quân đầu người tại địa phương qua các năm.
Giải quyết việc làm: Thông qua việc cấp tín dụng cho các đối tượng
chính sách nhằm chuyển đổi nghề nghiệp, mở rộng kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thì qua đó cịn tạo thêm công ăn việc làm cho người dân trên
địa bàn. Hiệu quả xã hội này có thể đo lường qua tiêu chí tỷ lệ thất nghiệp của
địa phương và số lao động nông thôn được chuyển đổi nghề hàng năm.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chất lượng tín dụng của ngân hàng chính
sách cũng được thể hiện thơng qua việc góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vùng lãnh thổ theo hướng hợp lý hơn.
Nâng cao trình độ dân trí: Ngân hàng chính sách cịn cấp tín dụng cho
các đối tượng chính sách là sinh viên của các trường cao đẳng, đại học… với
lãi suất ưu đãi để trang trải chi phí học tập. Qua đó có thể góp phần giúp cho
các đối tượng hộ chính sách có thể tiếp cận với trình độ dân trí cao hơn, được
tạo điều kiện học tập. Đo lường hiệu quả xã hội này có thể thơng qua các tiêu
chí: số lượng sinh viên được vay vốn qua các năm, số vốn cấp tín dụng cho
các sinh viên qua các năm.
Bốn là, đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích, nâng cao khả
năng thu hồi vốn và nâng cao kết quả hoạt động của NHCSXH.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu cơ bản đánh giá tình
hình tài chính của ngân hàng. Nợ qua hạn hay cịn gọi là nợ xấu là một loại


26


×