Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế TRÊN địa bàn HUYỆN THƯỜNG tín, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.03 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƯỜNG
TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên địa bàn huyện
1.2. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
huyện Thường Tín
1.3. Những yếu tố ảnh hướng tới sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín
Chương 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƯỜNG TÍN
THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội
2.2. Những kết quả, hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
tại huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội thời gian
qua
2.3 Nguyên nhân của những thành công, hạn chế và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở huyện Thường Tín
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƯỜNG
TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
huyện Thường Tín
3.2. Các giải pháp chủ yếu đầy nhanh việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín thời gian


tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3
10
10
22
26
33
33
38
55

65
65
75
100
101
106


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam
nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia
văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng
giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công
nghiệp) và thương mại – dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần
tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp
và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch
của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành
phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu
kinh tế đối ngoại…
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, cơ cấu kinh tế của huyện
Thường Tín cũng đang từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, theo
xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
Là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, Thường Tín có nhiều điều kiện
thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mục tiêu đã đề ra. Thường
Tín vốn là một huyện có thế mạnh và truyền thống về sản xuất nông nghiệp
dựa trên những điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên như khí hậu, nguồn
nước, thổ nhưỡng phù hợp với canh tác cây lúa nước, rau màu và trồng cây ăn
quả cũng như nuôi trồng thủy sản.
Với quá trình xây dựng, phát triển của những năm qua hệ thống giao
thông được hiện đại hóa đã mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
cho Huyện. Hơn nữa huyện cũng là địa phương có nhiều ngành nghề thủ công
3


truyền thống và lợi thế từ một huyện ngoại thành của Thủ đô nên tốc độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thường Tín diễn ra khá mạnh mẽ. Nhiều khu
công nghiệp, cụm công nghiệp được đầu tư xây dựng ở địa phương, đồng
thời, tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh đã thúc đẩy sự phát triển của các
ngành dịch vụ. Nhờ các nhân tố thúc đẩy trên, cơ cấu kinh tế của huyện
Thường Tín trong thời gian qua đã có những chuyến biến tích cực. Tuy nhiên

chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn Huyện còn chậm và chưa bền vững. Sự phát triển của
làng nghề, của các khu công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và đặt ra
nhiều vấn đề về môi trường. Quy hoạch phát triển cơ cấu kinh tế vùng cũng
chưa thực sự hiệu quả. Kinh tế nông nghiệp có sự phát triển nhất định nhưng
hiệu quả còn thấp và chưa thật sự bền vững. Những điều này đặt ra yêu cầu
trong thời gian tới đối với địa phương phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế một cách nhanh chóng và bền vững hơn, nhằm phát huy tốt các tiềm năng
và lợi thế của Huyện trong phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương.
Nhận thức được tính cấp thiết của việc thúc đẩychuyển dịch cơ cấu
kinh tế hợp lý trên địa bàn huyện Thường Tín trong quá trình CNH, HĐH, tôi
đã chọn chủ đề “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín,
Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Tình hình nghiên cứu trong nước
- Nguyễn Sinh Cúc (1990), Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và
nông dân nước ta, NXB Thống Kê. Cuốn sách đã nêu bật được những thành
công và hạn chế của nông nghiệp nước ta sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của
Bộ chính trị và những tác động to lớn tới đời sống xã hội nông thôn trong đó
có chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sau đổi mới.

4


- Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam.
Cuốn sách chủ yếu đề cập những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế và nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
Việt Nam trong giai đoạn từ sau đổi mới tới năm 2005. Trên cơ sở phân tích

các nguyên nhân tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tác giải đưa
ra những nhận định về xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Việt Nam
trong tương lai.
- Ngô Thái Hà, (2013), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị. Tác giả đã nghiên
cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
các nhân tố tác động đến quá trình đó để bảo đảm chuyển dịch theo hướng
phát triển bền vững ở Việt Nam; Phân tích những biến đổi của cơ cấu kinh tế
Việt Nam từ năm 2000 đến nay; từ đó, đưa ra những nhận định về các khuynh
hướng vận động và đề xuất phương hướng và các chỉ tiêu đánh giá; những
giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế bảo đảm tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trần Anh Tuấn (2013), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ven biển Bắc
Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế chính
trị. Tác giả luận án đã góp phần làm rõ khái niệm về CDCCKT của vùng và
CDCCKT vùng ven biển theo hướng CNH, HĐH; Luận án đã phân tích, đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng đến CDCCKT vùng VBBB, tính toán, phân tích các
chỉ tiêu đánh giá CDCCKT của vùng VBBB theo hướng CNH, HĐH. Qua đó,
đánh giá những thành công, hạn chế và nguyên nhân của những thành công,
hạn chế của quá trình CDCCKT vùng VBBB theo hướng CNH, HĐH để làm
cơ sở đề xuất những định hướng, giải pháp cho quá trình CDCCKT vùng
VBBB theo hướng CNH, HĐH.
- Võ Tấn Danh (2011), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Kon Tum”,
Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, tác giả
đã làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về CDCCKT tỉnh Kon Tum trong thời
gian qua, từ đó đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm
5


thúc đẩy cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch nhanh hơn theo hướng CNH,

HĐH trong thời gian tới.
- Trần Xuân Vui (2010), Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hà Nam,
luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị. Thông qua đề tài này tác giả đã làm nổi bật
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Nam trên các phương diện cơ cấu
ngành, cơ cấu theo thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Trên cơ sở đó, tác
giả cũng đề xuất một số định hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại
Hà Nam trong thời gian tới.
- Huỳnh Phẩm Dũng Phát (2009), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền
Giang thời kỳ 1995 - 2007 và định hướng đến năm 2020, luận văn thạc sỹ
kinh tế chính trị. Luận văn đã phân tích ảnh hưởng của các nguồn lực tới sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh; phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo ngành, theo thành phần gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, năng
suất lao động và cơ cấu giá trị sản xuất nội ngành, không phân tích sâu các
lĩnh vực trong từng ngành; phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ
gồm: cơ cấu giá trị sản xuất của các địa phương phân theo khu vực kinh tế và
tỉ trọng so với toàn tỉnh; đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang theo hướng CNH, HĐH.
- Trương Thị Mỹ Hoa (2011), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học
Đà Nẵng. Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận vềchuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp, phân tích thực trạng chuyển dịch cơcấu nông nghiệp huyện
Thăng Bình giai ñoạn 2000-2010 và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện Thăng Bình trong thời gian tới.
- Trương Thị Hiền (2010), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo quan điểm
phát triển bền vững”, Tạp chí phát triển nhân lực. Bài bào đã đề cập tới sự
dịch chuyển kinh tế ngành và lĩnh vực của Việt Nam sau 20 năm đổi mới.
- Lê Xuân Bá (2010), “Nghiên cứu xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2010 – 2020”, bài nghiên cứu, Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương. Bài nghiên cứu phân tích xu hướng chuyển dịch
6



cơ cấu của Khánh Hòa tới năm 2020 đặt dưới tác động của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Nguyễn Thế Cường, (2010), Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng, Kỷ yếu
hội thảo. Bài viết phân tích cơ sở khoa học và thực trạng của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2007 -2010, từ
đó đề ra một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng. Đề
tài sử dụng ma trận SWOT để đánh giá tổng hợp về thực trạng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của vùng. Kết quả đề tài đưa ra được một số giải pháp để thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Bùi Quang Bình (2014), Xây dựng chính sách khuyến khích chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thành phố Đà Nẵng tới năm 2020, Đề tài nghiên cứu cấp
tỉnh, cơ quan chủ trì Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng. Đề
tài tập trung làm rõ những nội dung sau: Trình bày một số lý luận cơ bản về
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực trạng phát triển kinh tế của thành
phố Đà Nẵng thời gian qua và các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.Phân tích tình hình thực hiện các chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đánh giá tác động của các chính
sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với sự thay đổi, phát triển của
kinh tế, xã hội thành phố. Đề ra định hướng, xây dựng các chính sách nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020.
- Trần Anh Phương (2009), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng và
những vấn đề cần đặt ra”, Tạp chí cộng sản, số 1. Bài nghiên cứu đã khẳng
định rõ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam
nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia
văn minh, hiện đại. Tác giả đã phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế Việt Nam

trong giai đoạn tới năm 2008. Trên cơ sở đánh giá những hạn chế trong
7


chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác giả đã đề xuất phương hướng và giải pháp
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho có hiệu quả.
* Tình hình nghiên cứu trên thế giới
- Andrew Figura and William Wascher(2008), “The Causes and
Consequences of Economic Restructuring:Evidence from the Early 21st
Century”, (Các nguyên nhân và kết quả của tái cơ cấu kinh tế: Bằng chứng từ
đầu thế kỷ 20). Bài nghiên cứu phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và nguyên nhân dẫn đến tái cơ
cấu kinh tế.
- Michael Pettis (2013), “China's Economic Restructuring”, (Tái cơ cấu
kinh tế ở Trung Quốc), cụ thể tác giả đã phân tích yêu cầu và cách thức tiến
hành quá trình tái cơ cấu kinh tế tại Trung Quốc.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện
Thường Tín dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là khoảng
trống khoa học để tác giả lựa chọn và nghiên cứu.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn huyện và đề xuất những phương hướng, giải pháp để thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý trên địa bàn huyện Thường Tín trong
thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên địa bàn huyện.

- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
huyện Thường Tín, làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và các vấn đề đặt
ra cần giải quyết.
8


- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của huyện Thường Tín trong thời kỳ mới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa bàn huyện.
* Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.
- Thời gian: Trong những năm 2009 - 2014; tuy nhiên, để vấn đề nghiên
cứu có tính hệ thống, đề tài có đề cập một số nội dung liên quan trong thời gian
trước và sau 5 năm nói trên.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mà
trực tiếp là Kinh tế chính trị Mác – Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của
Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính
trị, gồm: Phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích, phương pháp điều tra xã hội học, phướng pháp hệ thống hóa, mô
hình hóa và đồ thị, phương pháp chuyên gia….


6. Ý nghĩa của đề tài
- Làm rõ nội dung của chuyểndịch cơ cấu kinh tế ở huyện vàđánh giá
thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Thường Tín từ năm 2009
cho tới nay, đề xuất những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Huyện tới năm 2020.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn
kinh tế chính trị và tài liệu tham khảo cho lãnh đạo các cấp của huyện Thường
Tín cũng như các địa phương khác.
9


7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn huyện
1.1.1. Quan niệm về cơ cấu kinh tế

Theo quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống, cơ cấu kinh
tế là thuộc tính của hệ thống kinh tế, biểu thị nội dung, cách thức liên kết,
phối hợp giữa các phần tử cấu thành nên hệ thống kinh tế. Nó phản ánh tính
chất và trình độ phát triển của hệ thống kinh tế luôn luôn vận động và phát
triển có sự điều khiển của con người. Trong những điều kiện kinh tế cụ thể,
các bộ phận hợp thành có mối quan hệ tương tác, hữu cơ; số lượng và chất
lượng của các bộ phận và quan hệ giữa chúng bị chi phối bởi yêu cầu phát
triển trong từng thời kỳ của đất nước nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định.

“Sự liên kết, phối hợp giữa các bộ phận hợp thành hệ thống càng chặt chẽ,
tương tác giữa các bộ phận hợp thành ở trình độ càng cao thì sự phát triển hài
hoà được bảo đảm, hệ thống càng phát triển và cơ hội đem lại kết quả càng
cao, hiệu quả càng lớn” [38, tr. 96].
Cơ cấu kinh tế là thuộc tính của hệ thống kinh tế, một phạm trù kinh
tế, thể hiện cả tính kinh tế, tính xã hội và tính lịch sử cũng như cả tính chất
của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cơ cấu kinh tế là sản phẩm
trực tiếp của phân công lao động xã hội. Những ngành, lĩnh vực và lãnh thổ
chủ đạo có ý nghĩa động lực, mũi nhọn giữ vai trò quyết định sự tồn tại và
phát triển của cơ cấu kinh tế. Khi nói về cơ cấu kinh tế phải nói cả về mặt

10


số lượng (được đo bằng tỷ lệ phần trăm của các phần tử trong toàn bộ hệ
thống) và mặt chất lượng (được đo bằng mức độ chặt hay lỏng của mối liên
kết giữa các phần tử hợp thành hệ thống và kết quả hoạt động của hệ thống
kinh tế [33, tr. 208].
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ giữa
các bộ phận hợp thành nền kinh tế: các lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng), các ngành kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông
vận tải, y tế, giáo dục. . .), các thành phần kinh tế xã hội ( kinh tế nhà nước, tư
nhân, cá thể tiểu chủ, nước ngoài . . .), các vùng kinh tế.
Phân tích quá trình phân công lao ðộng xã hội, C.Mác nhấn mạnh: “cơ
cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá
trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất” [6, tr. 54]. “Do
tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ làm đảo
lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế của xã hội” [6, tr. 68]. Mác còn phân tích cơ cấu
kinh tế ở cả hai mặt chất lượng và số lượng, “cơ cấu là một sự phân chia về
chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội” [6,

tr. 213]. Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh
tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợp thành.
Cơ cấu bao gồm hai phương diện:
Phương diện thứ nhất, mặt vật chất kĩ thuật của cơ cấu, bao gồm:
- Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỉ
trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
- Cơ cấu theo quy mô, trình độ kĩ thuật, công nghệ của các loại hình tổ
chức sản xuất phản ánh chất lượng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành
nền kinh tế

11


- Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai
thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế-xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu
phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Phương diện thứ hai, xét theo cơ cấu kinh tế, bao gồm:
- Cơ cấu theo các thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng
lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội
- Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Nó phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các
ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Một cách khái quát, có thể hiểu cơ cấu kinh tế là mối quan hệ giữa các
bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế, các bộ phận này có những mối liên
hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng, các quan hệ
tỷ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định, chúng
luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Dựa vào những đặc trưng của các bộ phận cấu thành hệ thống và cách
thức quan hệ giữa chúng với nhau trong quá trình phát triển, cơ cấu nền kinh

tế quốc dân bao gồm:
- Cơ cấu các thành phần kinh tế (quan hệ sản xuất trong nền kinh tế).
- Cơ cấu vùng lãnh thố.
- Cơ cấu ngành kinh tế.
Các loại cơ cấu nói trên có mối quan hệ gắn kết, tương tác với nhau.
Thứ nhất: Cơ cấu thành phần kinh tế có cơ sở hình thành là chế độ sở
hữu, bởi vậy, sự hợp lý của nó phản ánh một hệ thống tổ chức kinh tế với chế
độ sở hữu có khả năng thúc đấy lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội phát triển. Với ý nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thố, đồng thời nó cũng chịu tác dụng ngược trở
lại của hai loại cơ cấu này. Ở nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế:

12


Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thế, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai: Cơ cấu vùng - lãnh thổ: Là sự bố trí các ngành sản xuất và
dịch vụ theo không gian cụ thế nhằm khai thác mọi ưu thế, tiềm năng to lớn
của các vùng. Từ đó hình thành nên tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất
nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh kinh tế của tùng vùng và toàn bộ
nền kinh tế. Ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng, lãnh thổ là đi vào
chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những
vùng sản xuất hàng hoá lớn, tập trung hiệu quả cao, mở rộng với quan hệ
với các vùng chuyên môn khác, gắn cơ cấu kinh tế của từng khu vực với cơ
cấu kinh tế của cả nước.
Thứ ba: Cơ cấu ngành kinh tế: Hình thành trên cơ sở phân chia lao
động xã hội (chung, đặc thù, cá biệt) và chuyên môn hoá sản xuất còn cơ cấu
lãnh thố được hình thành dựa trên phân bố lực lượng sản xuất ở tầm tống thể
nhằm phát huy cao nhất sức mạnh kinh tế của tùng vùng cũng như sức mạnh

của toàn bộ nền kinh tế.
Sự phát triển nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng
hoá cũng có nghĩa là xuất hiện những ngành sản xuất độc lập nhau, dựa trên
những đối tượng sản xuất khác nhau. Xét về cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh tế. Cụ thể:
- Ngành nông nghiệp: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản
của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và
vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực
thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành
sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông
sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản
- Ngành công nghiệp là một ngành quan trọng của nền kinh tế, là lĩnh
vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được "chế tạo, chế biến" cho nhu
13


cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động
kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến
bộ về công nghệ, khoa học và kỹ thuật, bao gồm công nghiệp khai thác mỏ và
khoáng sản, công nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng,
sản xuất và phân phối khí, điện, nước…
- Ngành dịch vụ: Đây là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền
với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại:
Thương mại, dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách, dịch vụ bưu chính – viễn
thông, dịch vụ tài chính tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng
khoán, y tế, giáo dục…dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời
sống. Đối với Việt Nam hiện nay, dịch vụ đang thực sự trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn.
Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế nước ta hiện nay về cơ bản đang là
một nước nông nghiệp. Xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, nghĩa là tỷ trọng
và vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng nhanh còn tỷ
trọng của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần.
Đặc trưng của cơ cấu kinh tế:
Một là, cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan
Nền kinh tế có sự phân công lao động, có các ngành, lĩnh vực, bộ phận
kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ
cấu kinh tế với tỉ lệ cân đối tương ứng với các bộ phận, tỉ lệ đó được thay đổi
thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã
hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô
đọng nội dung chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn phát
triển nhất định. Nhưng không vì thế mà áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành
những tỉ lệ và vị trí trái ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội.
Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vộinhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn,

14


thường dẫn đến tai hoạ không nhỏ, bởi sai lầm về cơ cấu kinh tế là sai lầm
chiến lược, khó khắc phục, hậu quả lâu dài.
Hai là, cơ cấu kinh tế mang tính chất lịch sử - xã hội cụ thể
Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không
ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị, xã hội
của từng thời kì. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ ngành, lĩnh vực,
bộ phận kinh tế được xác lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn
ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến
của mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, con người
với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi
quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản

xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc.
Các nước có hình thái kinh tế-xã hội giống nhau, song có sự khác nhau trong
hình thành cơ cấu kinh tế, vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm chiến
lược mỗi nước khác nhau.
Ba là, cơ cấu kinh tế có tính động
Cơ cấu kinh tế không chỉ giới hạn về các mối quan hệ tỷ lệ giữa các
ngành có tính chất cố định mà luôn luôn vận động, thay đổi để phù hợp với
yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ, nhằm mục tiêu phát
triển, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.1.2 Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trạng thái của các điều kiện tự nhiên, xã hội luôn luôn vận động không
ngừng. Do vậy việc duy trì quá lâu một cơ cấu kinh tế sẽ làm giảm đi tính
hiệu quả do bản thân cơ cấu mang lại. Điều đó đòi hỏi sự khách quan phải có
sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp
thành cơ cấu kinh tế không cố định và biến đổi. Sự thay đổi về cơ cấu các
15


ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành
phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và do tốc độ tăng
trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Sự thay
đổi của cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội,
biểu hiện chủ yếu trên hai mặt: một là, lực lượng sản xuất càng phát triển
càng tạo điều kiện cho quá trình phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc;
hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại càng làm
cho các mối quan hệ kinh tế (cơ chế kinh tế thị trường) càng củng cố và phát
triển. Như vậy, “sự thay đổi về số lượng và chất lượng của cơ cấu kinh tế, đặc
biệt là cơ cấu ngành (bao gồm tất cả các cấp độ phân ngành) phản ánh trình

độ phát triển của sức sản xuất xã hội. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, nó phản
ánh mức độ đạt được (kết quả) của quá trình công nghiệp hoá” [33, tr. 133].
Thấy được vai trò quan trọng, mang tính chất quyết định của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các nhà kinh tế học không ngừng nghiên cứu và
đưa ra các quan niệm của riêng mình. Các quan niệm được xem xét dựa trên
các góc độ khác nhau nhưng đều tập trung chủ yếu vào xu hướng chuyển dịch
hiệu quả nhất cho nền kinh tế. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay diễn ra trong bối cảnh vừa chịu tác động mạnh mẽ của quá
trình chuyển đổi thể chế ở bên trong, lại vừa chịu chi phối của quá trình toàn
cầu hoá mà một trong những nội dung kinh tế chủ chốt là kinh tế tri thức và
thị trường hoá toàn cầu. “Những nhân tố mới này đã quyết định sự đổi mới
quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do đó, dĩ nhiên là cách tiếp cận
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng phải thay đổi” [40, tr. 28]. Theo cách hiểu
thông thường thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi trạng thái cơ cấu
của nền kinh tế từ thời điểm này sang thời điểm khác. Tuy nhiên, khái niệm
như thế chưa phản ánh được bản chất (về số lượng, chất lượng của cơ cấu
kinh tế) và chưa nêu ra được mục đích của quá trình chuyển dịch (vì đây

16


không phải là một quá trình vận động tự thân mà là quá trình có sự điều khiển
chủ quan của con người).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí,
mà là quá trình tích luỹ về lượng, dẫn đến sự biến đổi về chất của cơ cấu kinh
tế. Quá trình này diễn ra trên ba khía cạnh: theo ngành, theo lãnh thổ và theo
thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ đơn giản đến phức tạp (tức
là số ngành, số sản phẩm ngày càng nhiều; phạm vi liên kết ngày càng rộng:
từ ít đến nhiều, từ trong nước ra ngoài nước), từ trạng thái có trình độ thấp
sang trạng thái có trình độ cao hơn (ý nói về trình độ công nghệ và quy mô,

chất lượng sản xuất hàng hoá ngày một cao) nhằm đem lại lợi ích lớn hơn như
mong muốn của con người qua các thời kỳ phát triển.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo yêu cầu và phương hướng tiến bộ hơn
mang tính quy luật trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và biểu hiện cụ
thể là sự thay đổi tỷ lệ và mối tương quan giữa các ngành cơ bản: nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; giữa các khu vực khác nhau: khu vực thành
thị và nông thôn, ngành công cộng và tư nhân, khu vực nội địa và khu vực
định hướng xuất khẩu [40, tr. 145].
Như vậy,Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình vận động, biến đổi,
phát triển của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế theo hướng hiện đại,
tiến bộ, hợp lý, năng động và ngày càng hiệu quả. Về thực chất, đó là quá
trình tổ chức lại nền kinh tế dựa trên các quy luật kinh tế khách quan một
cách chủ động của các chủ thể kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tất yếu gắn liền với sự
phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là sự phát triển trong quá trình
hội nhập. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là sự vận động phát triển của các
bộ phận cấu thành của nền kinh tế làm thay đối vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ
tương tác giữa chúng theo thời gian để phù hợp với sự phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.Chuyển dịch cơ cấu
17


kinh tế luôn là một trong những vấn đề then chốt, đóng vai trò rất quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Một là, phát huy các lợi thế so sánh để khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực phát triển của quốc gia, địa phương như về đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn nguồn nhân lực, trên cơ sở đó tái cơ cấu lại nền kinh
tế theo hướng phân bố những nguồn lực từ khu vực có năng suất thấp sang
khu vực có năng suất cao hơn
Hai là, tạo ra sức sản xuất hàng hóa với khối lượng lớn, chất lượng cao,

đa dạng về chủng loại để đáp ứng nhu cầu cho nhân dân và xuất khẩu.
Ba là, góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm và không ngừng tăng
thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động, tạo cơ hội cho mọi thành
phần trong xã hội vươn lên làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp luật.
Bốn là, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở ra
cơ hội cho các ngành tiến hành công nghiệp hóahiện đại hóa, nâng cao trình
độ áp dụng khoa học kĩ thuật - công nghệ cao và phương thức quản lí tiên tiến
vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh, mở ra cơ hội để thâm nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới...
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã có
những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế
của đất nước.
Từ quan điểm còn đơn giản về công nghiệp hóa những năm 1960, khi
tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương bắt đầu từ đổi mới tư duy
kinh tế, thật sự tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Thực tiễn trải qua
các Đại hội Đảng, các quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày một
hoàn thiện. Đặc biệt, mục tiêu và các quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại
hội VII (1991) và sau đó đã được từng bước hoàn thiện trong các văn kiện
Đại hội VIII (1996) và Đại hội IX (2001) của Đảng. Các Nghị quyết Trung
18


ương (khóa IX) mới đây đã là sáng tỏ thêm một bước rất quan trọng về việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là các quan
điểm chỉ đạo việc xây dựng chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Đại hội VIII của Đảng (1996) đã khẳng định: Mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,

phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Văn kiện của Đại hội cũng phác thảo một cách định tính
những mục tiêu cụ thể về cơ cấu kinh tế, khoa học công nghệ, quan hệ sản
xuất, đời sống vật chất và văn hóa… với chỉ tiêu định lượng duy nhất cho
năm 2020 là GDP tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1993. Các quan điểm về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được thông qua có ý nghĩa quan trọng cho
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Nhiều chủ trương, chính sách trong
nghị quyết Đại hội VIII tuy xác định cho kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, song
có ý nghĩa định hướng cho thời gian dài hơn.
Đến Đại hội IX của Đảng (2001), đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được xây dựng từ Đại hội VIII của Đảng đã được cụ thể hóa trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2010, trong đó có bao hàm chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001-2010 và những nhiệm vụ cụ thể
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chiến lược 10 năm đề ra nhiệm vụ: Tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, trong đó hàm ý về công nghiệp hóa gắn chặt với hiện đại hóa.
Đại hội IX của Đảng đã bổ sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn chỉnh đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hình thành định hướng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Văn kiện
Đại hội đề ra yêu cầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa “rút ngắn thời
19


gian”, nhấn mạnh đến trình độ công nghệ tiên tiến, từng bước phát triển kinh
tế tri thức trong điều kiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu
và trong suốt các giai đoạn phát triển.
Đại hội đảng thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát

triển kinh tế tri thức.
Nhận thức về công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng từng
bước thay đổi và đó là cơ sở để có những hành động đúng đắn trong thực tiễn.
Nhận thức và hành động trong việc tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
hiệu quả, có sức cạnh tranh cao trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường
và chủ động hội nhập kinh tế hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong phân tích về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng ta cần xem xét
theo nhiều góc độ khác nhau như cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế, cơ cấu
lao động… và các vấn đề có liên quan đến năng suất lao động, đến sức cạnh
tranh của sản phẩm trên cơ sở tiếp cận thị trường, ứng dụng khoa học công
nghệ hiện đại, phát triển nền kinh tế trí thức… trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế. Từ đó làm rõ những bước tiến đã đạt được trong đổi mới nhận
thức, tư duy về chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện ngày nay và những tiến bộ thực tế đã đạt được trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
1.1.3. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín là quá trình
vận động, biến đổi, phát triển của các bộ phận cấu thành của kinh tế Huyện
theo hướng hiện đại, tiến bộ, hợp lý, năng động và ngày càng hiệu quả dựa
trên việc tổ chức lại nền kinh tế theo các quy luật kinh tế khách quan một
cách chủ động của các chủ thể kinh tế.

20


Mỗi địa phương có các điều kiện khác nhau về tự nhiên, kinh tế - xã
hội, truyền thống, kinh nghiệm sản xuất lực lượng lao động... nên việc xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế nói riêng cũng mang tính đặc thù. Việc hoạch định chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội nói chung, chính sách chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế nói riêng phải dựa trên cơ sở chiến lược phát triển vùng miền.
Trong thời gian qua, lãnh đạo huyện Thường Tín nhận thức rõ những
tiềm năng và thế mạnh của một huyện cửa ngõ phía Nam, với nhiều tuyến
giao thông huyết mạch đi qua, lợi thế về đất đai, nguồn nhân lực và các làng
nghề truyền thống, huyện Thường Tín đã xác định phát triển kinh tế theo
hướng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, quan niệm
chuyển dịch cơ cấu của Huyện là sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, phát huy lợi thế sẵn có của Huyện để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phù hợp với địa phương, đúng đắn theo đường lối Đảng đề ra.
Quá trình chuyển dịch nhằm mục tiêu biến nền kinh tế của huyện từ
trạnh thái thuần nông, lạc hậu, mất cân đối sang nền kinh tế có cơ cấu hợp lý
theo hướng hiện đại và năng động. Đó là cơ cấu kinh tế công nghiệp – dich vụ
- nông nghiệp, hình thành các vùng kinh tế chuyên môn hóa sản xuất các sản
phẩm trên cơ sở các điều kiện và lợi thế riêng của mình, thíc ứng với sự vận
động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Quá trình đó đồng thời cũng là quá trình phát triển, hoàn thiện quan
hệ sản theo hướng tiến bộ và phù hợp.
Chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất là Huyện ủy. Trong phát triển
kinh tế trên địa bàn Huyện nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng,
Huyện ủy đóng vai trò lãnh đạo. Sau khi giành được chính quyền thì xây
dựng và bảo vệ đất nước trở thành nhiệm vụ trung tâm của cách mạng, trong
đó lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm
vụ hàng đầu trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Với đường lối, chính sách
21


đúng, công tác giáo dục hoạt động tổ chức, quản lý của chính quyền sẽ tạo
định hướng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
Chính quyền các cấp bao gồm UBND các cấp, các sở, ban, ngành đóng

vai trò điều hành, tổ chức thực hiện theo định hướng đường lối chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của Đảng. Trong đó, cụ thể các cấp chính quyền sẽ xây dựng
quy hoạch chi tiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đồng thời, các cấp sẽ xây
dựng các chính sách khuyến khích, thúc đẩy chuyển dịch, hỗ trợ cơ chế vốn,
lao động khoa học kỹ thuật để đảm bảo đạt được mục tiêu.
Nhân dân lao động huyện và các thành phần kinh tế chính là các chủ
thể trực tiếp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Trên cơ sở
những định hướng, chính sách của Đảng, của chính quyền, các chủ thế này
trực tiếp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra sự biến động của các
thành phần trong cơ cấu kinh tế.
1.2. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện
Thường Tín

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình vận động, biến đổi thường
xuyên, liên tục của tất cả các yếu tố cấu thành của nền kinh tế trên địa bàn
Huyện trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn các quy luật và quá trình kinh tế khách quan. Sự vận động,
biến đổi đó trên cả ba nội dung: cơ cấu kinh tế (ngành, vùng), cơ cấu thành
phần kinh tế và quản lý kinh tế - chuyển từ quản lý kinh tế hiện vật sang quản
lý của cơ chế thị trường.
* Một là, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế thực hiện một loạt chức năng
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Ngành phản ánh một loạt hoạt
động nhất định của con người trong quá trình sản xuất xã hội, nó được phân

22


bịêt theo tính chất và đặc điểm của quá trình công nghệ, đặc tính của sản

phẩm sản xuất ra và chức năng của nó trong quá trình tái sản xuất.
Trong một huyện bao giờ cũng phát triển nhiều ngành kinh tế. Mỗi
vùng bao giờ cũng có nhiều ngành với mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính
vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành chính là làm thay đổi các quan
hệ tỷ lệ giữa các ngành trong GDP, tỷ lệ lao động trong các ngành của vùng
đó. Mặt khác, trong mỗi ngành kinh tế cũng diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu
trong nội bộ ngành, tức là thay đổi tỷ trọng GDP của các thành phần trong nội
bộ ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chính là sự vận động phát triển
của các ngành làm thay đổi vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa
chúng và ngay cả trong nội bộ từng ngành của huyện theo thời gian để phù
hợp với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội trên địa bàn.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện Thường Tín
giai đoạn hiện nay là phát triển đồng thời cả ba lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ trong hệ thống mở với cơ cấu năng động có hiệu quả và
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hợp lý, năng động và ngày càng hiệu quả.
* Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng

Chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế chính là sự vận động phát triển của
các vùng kinh tế trong toàn huyện làm thay đổi vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ
tương tác giữa chúng để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng thể hiện sự tái phân công lao
động theo vùng lãnh thổ. Dựa trên những lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa lý,
kinh tế - xã hội của mồi vùng mà hình thành các vùng kinh tế. Các vùng kinh
tế này có những đặc điếm khác nhau nhưng có điểm chung là dựa vào những

23



lợi thế đó để khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong
vùng nhằm tạo ra sự phát triển.
Kinh tế vùng và chuyến dịch cơ cấu kinh tế vùng nhằm khai thác những
lợi thế từ lao động, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên để xây dựng chiến lược
phát triển sản xuất - kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu vùng còn làm cho những diện tích đất trước đây
chưa sử dụng, hoặc sử dụng chưa hiệu quả, hoặc chưa chuyển đổi được sang
hướng sản xuất phù hợp được sử dụng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, khi có
một cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm
duy trì và phát triển kinh tế vùng đó.
Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi vùng, ngành nào có ưu thế cạnh
tranh sẽ phát triển nhanh. Từ đó, kéo theo các ngành khác có liên quan cùng
phát triển cả về qui mô và tốc độ theo một quan hệ, tỷ lệ nhất định, qua đó đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất của vùng.
Xác định cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ tạo cơ sở để khai thác và sử
dụng có hiệu quả hơn những tiềm năng về tài nguyên, sức lao động, cơ sở vật
chất hiện có của từng vùng. Điều này quyết định tốc độ phát triển kinh tế
hàng hoá ở nông thôn mỗi vùng cũng như cả nước. Khi có biến đối lớn trong
vùng kinh tế về kết cấu hạ tầng và tình hình kinh tế - xã hội như hệ thống giao
thông, thuỷ lợi, trình độ dân trí, vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, đặc biệt là sự
xuất hiện của những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học, nhu cầu mới của
thị trường... sẽ xuất hiện những ngành sản xuất - kinh doanh mới có hiệu quả
kinh tế cao hơn.
Để phát triển các ngành mũi nhọn ở các vùng kinh tế nông thôn, trong
quá trình xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế vùng cần coi trọng tác động vĩ
mô của Nhà nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách như:
Khuyến nông, xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi và những
thông tin cần thiết...
24



Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ở huyện Thường Tín giai
đoạn hiện nay là chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng phát triển toàn
diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp kết hợp với chuyên môn
hoá. Trong đó xu hướng đầu tư phát triển các vùng kinh tế, các khu kinh tế
chuyên canh gắn với lợi thế của từng vùng để tạo sự tăng trưởng nhanh, trên
cơ sở lôi cuốn, thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội của huyện.
Thời gian qua, Huyện Thường Tín đã cơ cấu lại các ngành sản xuất
nông nghiệp theo hướng phát huy các lợi thế của địa phương; Trên cơ sở quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất giai đoạn
2005 - 2010, định hướng 2015, đã hình thành vùng sản xuất lúa hàng hoá, quy
hoạch những diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang trồng cây cây ăn quả, nuôi
trồng thuỷ sản, chăn nuôi tập trung, sản xuất rau an toàn, vùng hoa cây cảnh
với tổng diện tích đã chuyển đổi 649ha. Huyện đã “đầu tư kinh phí 23 tỷ đồng
khuyến khích sản xuất và hoàn thiện hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng
và có chính sách hỗ trợ nông dân về vốn, giống và kỹ thuật. Nền sản xuất
nông nghiệp của huyện bước đầu phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại
hóa và chuyên canh” [43, tr. 5].
Trong thời gian tới, Huyện tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo vùng để
đưa những phần đất chưa được sử dụng vào chuyên canh với các giống cây
phù hợp, phát huy lợi thế của các vùng.
* Ba là, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế chính là sự vận động phát triển
của các thành phần kinh tế làm thay đổi vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương
tác giữa chúng theo thời gian để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trên địa bàn huyện.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở các huyện trong
nước ta giai đoạn hiện nay:

Chuyển từ cơ cấu kinh tế quốc doanh, tập thể là chủ yếu sang cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà
25


nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó phải củng cố
kinh tế nhà nước, phát triển mạnh kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân.
Ở huyện Thường Tín, chủ yếu là kinh tế hộ tư nhân phát triển mạnh,
điều này là do đặc điểm kinh tế của Huyện, các hộ gia đình chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp, và làm nghề tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên sự liên kết sản
xuất còn kém hiệu quả, hình thức kinh tế tập thể ít nên hiệu quả sản xuất và
đẩy mạnh đầu ra cho các sản phẩm tại Huyện không cao. Loại hình kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài còn ít, chính vì vâỵ, thời gian tới, Huyện chuyển dịch
cơ cấu theo hướng tích cực phát huy các thành phần kinh tế tại Huyện, tạo sự
phát triển đồng bộ cho các thành phần kinh tế.
1.3. Những yếu tố ảnh hướng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn huyện Thường Tín
1.3.1. Nhóm các yếu tố đầu vào

Nhóm các nhân tổ đầu vào của sản xuất gồm tập hợp các nguồn lực mà
xã hội có thể huy động vào quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố chính là:
* Thứ nhất, về các nguồn lực tự nhiên
Theo William Petty: Lao động ỉà cha của của cải, còn đất là mẹ của nó.
Như vậy, cơ cấu kinh tế của một quốc gia như thế nào đều chịu ảnh hưởng
sâu sắc của nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng. Quy mô đất đai, địa
hình, khí hậu, nguồn nước... là điều kiện tự nhiên của các loại hình sản xuất
nông nghiệp khác nhau.
Có thế thấy rằng tài nguyên thiên nhiên là cơ sở xuất phát tự nhiên
quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới. Ở
nước ta, nông nghiệp lúa nước, mỏ than, mỏ dầu... là những cơ sở tự nhiên để

phát triển một nền kinh tế mà cơ cấu bao gồm trong đó các ngành sản xuất lúa
gạo, than và dầu mỏ...
Theo báo cáo của UBND huyện, Thường Tín có “tổng diện tích đất tự
nhiện 12.738,64ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 7.858,56ha chiếm 61,7%,
26


×