Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG tự học của học VIÊN học VIỆN CẢNH sát NHÂN dân HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.43 KB, 135 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối
cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ, xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra từng ngày, từng giờ với nhiều hình
thức và với nhiều thời cơ cũng như sự cạnh tranh gay gắt. Ngày 07/11/2006
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Sự kiện này đặt nền giáo dục Việt Nam trước những
cơ hội thuận lợi để phát triển đồng thời cũng chứa đựng những thách thức
không nhỏ. Đó là thách thức về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
thách thức về bình đẳng và công bằng xã hội trong giáo dục, về ngôn ngữ
và giao tiếp…Những thách thức đó tác động mạnh mẽ đến chiến lược phát
triển nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung và của ngành công an nói
riêng, đòi hỏi giáo dục nước ta phải thực sự đổi mới để đào tạo thế hệ trẻ
có đủ năng lực làm chủ đất nước.
Công an nhân dân là một trong những lực lượng nòng cốt, là công cụ sắc
bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, giữ vững ổn định chính trị và góp phần
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đấu tranh phòng
chống tội phạm trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay không chỉ là vấn đề
riêng của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề mang tính khu vực và quốc tế.
Do đó, xây dựng lực lượng Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại là một yêu cầu bức thiết.
Trước yêu cầu đó, Bộ Công an đã có nhiều chủ trương, định hướng, giải
pháp phát triển giáo dục đào tạo, đặc biệt năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt Đề án “Quy hoạch tổng thể nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo
của các cơ sở đào tạo bồi dưỡng trong công an nhân dân đến năm 2020”,
3


trong đó xác định đầu tư phát triển Học viện CSND thành trường trọng điểm


của ngành Công an.
Để dần thực hiện mục nâng cao chất lượng dạy học, Ban giám đốc các
học viện và hiệu trưởng các trường CAND đã chỉ đạo giáo viên các khoa, bộ
môn tích cực đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực của học viên
trong tự học, tự nghiên cứu chiếm lĩnh tri thức các môn học.
Trong những năm qua, các học viện, trường đại học CAND đã có nhiều
công trình nghiên cứu xác định phương hướng, biện pháp đổi mới PPDH, tập
trung vào việc phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của người học, chuyển
dần sang phương pháp học tập có tính chất nghiên cứu. Do vậy, quá trình học
tập đòi hỏi học viên phải tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo để có thể nắm
vững tri thức khoa học, qua đó rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Việc tìm
ra các biện pháp quản lý hoạt động tự học cho học viên đã trở thành một vấn
đề có tính cấp thiết ở các trường trong CAND nói chung và ở Học viện CSND
nói riêng.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho ngành trong thời kỳ hội
nhập quốc tế, thời gian qua Học viện CSND luôn chú trọng đến việc đổi mới
phương thức đào tạo và quản lý theo hướng hiện đại hoá. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy chất lượng đào tạo của Học viện chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của nhiệm vụ đảm bảo ANQG và giữ gìn TTATXH của lực lượng,
điều này có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trong
đó các công tác quản lý có thể là một trong những yếu tố tác động không nhỏ
đến chất lượng đào tạo. Điều này được thể hiện qua kết quả học tập của học
viên còn thấp, hoạt động học của học viên còn nhiều hạn chế. Học viên chưa
có động cơ mục đích học tập rõ ràng, chưa tự giác học tập, đại đa số mới chỉ
học để đối phó với thi cử, học viên chưa biết lựa chọn và sử dụng hợp lý
phương pháp học tập cũng như hình thức tự học.

4



Bên cạnh đó người dạy chỉ mới quan tâm nhiều đến việc truyền thụ kiến
thức mà chưa chú trọng tới giáo dục, rèn luyện PPTH cho học viên, chưa chú
ý đến việc thiết kế bài tập, bài kiểm tra, đề thi đòi hỏi học viên phải nghiên
cứu, tìm tòi mới có thể hoàn thành được. Hay nói cách khác Học viện chưa có
biện pháp phù hợp để quản lý hiệu quả hoạt động tự học của học viên, việc
quản lý hoạt động này mới chỉ tập trung vào quản lý thời gian học chứ chưa
quan tâm đúng mức đến quản lý chất lượng tự học của học viên. Đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo chưa cao.
Với lý do trình bày trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Quản lý hoạt động tự
học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay" làm đề tài nghiên
cứu luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiệu quả của quá trình dạy học chính là sự tương tác của tư duy, hành động
và lời nói giữa giáo viên và sinh viên. Nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ mà tư
duy được củng cố và phát triển. Giao tiếp bằng lời cho phép người học nhận
thức thế giới xung quanh, nhận ra mình trong thế giới đó. Tuy nhiên, phát
triển tư duy chỉ với một hệ thống giao tiếp không thôi thì chưa đủ, cần phải có
hoạt động tự học của sinh viên. Do vậy nghiên cứu về về tự học có ý nghĩa và
giá trị nhất định trong việc thúc đẩy con người tích lũy kinh nghiệm, tri thức
khoa học để nâng cao năng lực nhận thức thế giới khách quan. Vấn đề tự học
đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
* Nghiên cứu ở nước ngoài
Các nhà khoa học Đông Âu và các nhà khoa học Xô Viết (trước đây)
đã dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu vấn đề tự
học của người học
Một số nghiên cứu ở lĩnh vực Giáo dục học về tự học như X.P
Baranov, T.A. Ilina [18] đã nghiên cứu và khẳng định vai trò của tự học trong

5



quá trình học tập; đồng thời cũng chỉ ra cách thức để tổ chức dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả tự học cho học sinh.
Một số nghiên cứu ở lĩnh vực tâm lý học về vấn đề tự học như: N.A
Rubakin đã nhấn mạnh vai trò của thái độ tích cực tự học trong việc chiếm
lĩnh tri thức của sinh viên trong tác phẩm “Tự học thế nào”, Nxb Thanh niên
Hà Nội, 1973 [35]. A.N. Lêônchiev [23] đã nghiên cứu và chỉ ra các kỹ năng
tự học cần thiết để đảm bảo cho người học đạt kết quả cao. Trong tác phẩm
“Phát huy tính tích cực của học sinh thế nào?”, Nxb Giáo dục, 1978 của tác
giả I.F. Kharlamôv [19] đã khẳng định: Tự học đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao tính tích cực nhận thức và hiệu quả hoạt động trí tuệ của học
sinh. Nhà nghiên cứu N.D. Lêvitôv [24] đã chỉ ra các thành phần tâm lý của
sự lĩnh hội bao gồm: thái độ tích cực của người học đối với công việc tự học;
các quá trình tìm hiểu tài liệu một cách trực tiếp và cảm tính; quá trình tư duy
với tư cách là quá trình cải biến tài liệu; quá trình ghi nhớ, bảo tồn thông tin…
Một số nghiên cứu khác lại tập trung nghiên cứu các kỹ năng tự học,
như: MU. Piskunôv, V. Ôkôn [31] đã khẳng định rằng: để tự học có hiệu quả
thì đòi hỏi người học phải biết kế hoạch hóa hoạt động tự học, tức là phải có
kế hoạch tự học. Thông qua kế hoạch tự học sẽ giúp người học chủ động
trong hoạt động và thể hiện tác phong khoa học trong tự học của bản thân.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, các nhà khoa học
Đông Âu và Xô Viết (cũ) đã xem xét tự học một cách toàn diện: vai trò của tự
học, kỹ năng tự học, những biện pháp tổ chức hoạt động dạy học nhằm nâng
cao hiệu quả tự học của người học. Tuy nhiên, các tác giả còn chưa nghiên
cứu một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến tự học, các yếu tố tâm lý
cơ bản cấu thành tự học, các nhóm kỹ năng cơ bản của hoạt động tự học, các
biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh, sinh viên...

6



Trong tác phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” của nhà sư phạm nổi
tiếng Nhật Bản Tsunesaburo Makiguchi đã nhấn mạnh: “Quá trình hướng
dẫn tự học của người học” [26, tr.19]. Động lực của giáo dục là kích thích
người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng
đồng.
Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã nêu đều đi đến
khẳng định vai trò của tự học trong hoạt động học tâp của người học, chỉ ra
các kỹ năng tự học cơ bản và lưu ý vai trò của người dạy học trong việc tổ
chức quá trình dạy học để phát huy tính độc lập, tự giác, sáng tạo của người
học...Nhưng các tác giả chưa nghiên cứu về các biện pháp quản lý nhằm nâng
cao hiệu quả, chất lượng hoạt động tự học của người học.
* Nghiên cứu ở trong nước
Việc tự học của người học cũng được các nhà khoa học Việt Nam
nghiên cứu ở các mức độ khác nhau.
Trước năm 1960, việc học của người học cũng được một số tác giả
nghiên cứu song mới chỉ nêu lên một số kinh nghiệm tự học của bản thân để
mọi người tham khảo chứ chưa khái quát thành lý luận, phương pháp luận và
nghiên cứu quy trình khoa học về tự học của người học.
Từ những năm 1960 trở lại đây, vấn đề tự học đã được quan tâm
nghiên cứu, tuy chưa nhiều. Tư tưởng về tự học được một số tác giả trình bày
trực tiếp hay gián tiếp trong các công trình, Giáo dục học, Tâm lý học hoặc
phương pháp giảng dạy bộ môn.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Phải tự nguyện, tự giác xem
công việc tự học là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành
cho được, do đó phải tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập” [28].
Người còn chỉ rõ: “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”. Tư tưởng này chỉ ra

7



rằng: Tự học có vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy quá trình học tập, phát
triển nhân cách và là nên tảng quyết định chất lượng của quá trình dạy học.
Tư tưởng giáo dục của Người đã được Đảng ta vận dụng trong đường
lối Giáo dục- Đào tạo, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa VIII, đã khẳng định vai trò: “;...Nâng cao khả năng tự
học, tự nghiên cứu của người học” [12, tr 101]. Quan điểm này tiếp tục được
Đảng ta khẳng định ở Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX
và được cụ thể hóa bằng quy định tại Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định
"Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"; "… đảm bảo thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh phát triển phong trào tự học, tự đào tạo...";
"… tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh".
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về Giáo dục và Đào tạo, trong những năm
qua đã có nhiều nhà nghiên cứu trên bình diện Giáo dục học, Tâm lý
học...nhằm làm rõ vai trò của tự học, các điều kiện tác động nâng cao kết quả
tự học của người học.
Trong tác phẩm “Quá trình dạy học tự học, tự học, tự đào tạo, tư
tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”, Nxb Giáo dục, 1998 tác
giả Nguyễn Kỳ [21] đã chỉ ra quá trình dạy học được tiến hành theo trình tự:
Người học tự tìm hiểu đối tượng nhận thức, sau đó tao đổi thống nhất trong
tập thể, nhóm, lớp, cuối cùng giáo viên kết luận về kết quả nhận thức của
người học, điều chỉnh những thiếu sót và đi đến khẳng định chân lý. Để
phương pháp học nay đạt được hiệu quả, học sinh phải phát huy năng lực tự
học, tự nghiên cứu. Cùng quan điểm trên còn có một số nhà sư phạm và cán
bộ khoa học như Đặng Bá Lãm [22], Hà Thị Đức [9], Hà Thế Ngữ [30],
Nguyễn Cảnh Toàn [39], Lê Khánh Bằng [6].... ...các tác giả đã nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến tự học và khẳng định: Tự học có vai trò quan

8


trọng trong quá trình đào tạo, đó là hình thức cơ bản giúp người học phát huy
tính độc lập, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức khoa học. Muốn nâng cao chất lượng
đào tạo ở các trường thì phải đổi mới toàn diện từ mục tiêu, nội dung, phương
pháp giảng dạy theo hướng phát huy khả năng tự học của học sinh, sinh viên.
Một số công trình, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đã quan tâm
nghiên cứu nhằm khai thác và vận dụng vào thực tiễn những biện pháp tổ
chức hoạt động tự học ở một số trường cao đẳng và đại học góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng dạy học nói chung và quá trình tự học của sinh viên
nói riêng, tiêu biểu như: “Những phương pháp tổ chức hoạt động tự học của
sinh viên các trường quân sự”, luận án Phó tiến sĩ Khoa học giáo dục, ĐHSP
HN I, 1995 của Trịnh Quang Từ; “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của
sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định”, Luận văn tốt nghiệp
2008 của Trần Thị Tuyết Hồng; “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ”, Luận văn tốt
nghiệp 2008 của Đặng Thanh Hương; “Biện pháp quản lý tăng cường hoạt
động tự học của sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội”, Luận văn tốt nghiệp
năm 2008 của Dương Hoài Văn... Trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Tình
về đề tài: “Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Giáo dục học cho
sinh viên các trường đại học sư phạm”, đưa ra kết luận: Tự học là học với sự
tự giác và tích cực ở mức độ cao…Tự học có thể diễn ra ở trên lớp, hoặc
trong quá trình tự học ở nhà, hoặc trong các hoạt động ngoại khóa. Ba khâu
này có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau không thể tách rời.
Dù đứng ở góc độ nghiên cứu nào thì theo tác giả kết quả các công trình
nghiên cứu trên là:
Về lý luận: Các tác giả đã khẳng định được tầm quan trọng của tự học,
cho rằng tự học là yếu tố quan trọng bên trong quyết định chất lượng học tập

của người học. Bản chất của tự học là quá trình tự tổ chức, tự điều khiển, tự

9


điều chỉnh để chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, trên cơ sở
nhân cách của người học được hoàn thiện và phát triển.
Về thực tiễn: Các công trình nghiên cứu tập trung tìm hiểu, phân tích
thực trạng tổ chức hoạt động tự học của sinh viên, đưa ra một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học. Song, vấn đề quản lý của nhà
trường đối với hoạt động tự học của sinh viên vẫn chưa được nghiên cứu
nhiều nên vẫn cần được đặt ra để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn.
Trong ngành Công an, đã có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn
đề tự học của học sinh, sinh viên được hoàn thành như: "Biện pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân" của tác giả
Văn Thị Như Ý; " Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh
trường Văn hóa I - Bộ công an" của tác giả Phạm Quang Bảo; "Biện pháp
quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hóa 3- Bộ Công an" của tác
giả Trần Văn Trọng.
Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình trên đã giúp tác giả có
cơ sở để kế thừa, phát triển trong xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài của mình.
Đồng thời căn cứ đặc điểm, tình hình thực tế công tác quản lý học viên tại
Học viện Cảnh sát nhân dân, tác giả nghiên cứu đề tài: "Quản lý hoạt động tự
học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay" nhằm góp phần thực
hiện có hiệu quả việc đổi mới quá trình dạy học, đáp ứng đòi hỏi cấp bách
hiện nay của Học viện về chất lượng đào tạo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài luận văn hướng tới đề
xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh

sát nhân dân hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của
nhà trường trong thời kỳ mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

10


- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý hoạt động tự học của học viên Học
viện Cảnh sát nhân dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động tự học của học viên
Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay.
- Đề xuất biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của
học viên Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: quản lý hoạt động dạy học tại Học viện Cảnh
sát nhân dân.
* Đối tượng nghiên cứu: quản lý hoạt động tự học của học viên Học
viện Cảnh sát nhân dân.
* Phạm vi nghiên cứu
- Căn cứ vào mục đích nghiên cứu đã đặt ra, nội dung luận văn tập
trung nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học của học viên năm thứ II, III, IV
hệ đào tạo chính quy của Học viện Cảnh sát nhân dân. Các số liệu và tài liệu
nghiên cứu ở Học viện Cảnh sát nhân dân từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, kết quả hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh sát
nhân dân còn hạn chế, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nếu
trong quản lý hoạt động tự học của học viên các chủ thể quản lý kiểm soát
được kế hoạch học tập; nắm được nội dung và PPTH của học viên, cùng với
sự đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết và kết hợp với việc nâng cao ý thức tự
giác của người học và tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá...thì hoạt động

tự học của học viên sẽ được quản lý chặt chẽ và đạt được hiệu quả mong
muốn, đảm bảo chất lượng đào tạo.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;

11


quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng trong giáo dục và quản lý giáo
dục; đồng thời vận dụng các quan điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc, lịch sử lôgic và quan điểm thực tiễn của khoa học giáo dục để thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành; bao gồm các phương pháp
nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu thực tiễn và toán học...Cụ thể là:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, mô hình hóa…các tài liệu, các văn
bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như sách, tài liệu về giáo dục, về
quản lý giáo dục, chủ trương đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, các văn bản của Bộ GD & ĐT về hoạt động tự học và
quản lý hoạt động này nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài:
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát sư phạm
Thực hiện quan sát để đánh giá thuận lợi và khó khăn về hiện trạng tại
Học viện Cảnh sát nhân dân; từ đó đưa ra đánh giá, kết luận về thực trạng và
đề xuất biện pháp có tính hiệu quả về quản lý
Phương pháp điều tra
Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến của 39 CBQL và 100 GV để thu

thập ý kiến về hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân và
quản lý hoạt động này.
Khảo sát quản lý hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh sát
nhân dân để tìm ra những ưu, nhược điểm và nguyên nhân.
Kết quả điều tra, khảo sát được phân tích, so sánh, đối chiếu để tìm ra
những thông tin đảm bảo tính khách quan, tin cậy.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
12


Nghiên cứu kế hoạch, quyết định, báo cáo tổng kết năm học để đánh
giá thực trạng hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân.
Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành trao đổi, phỏng vấn hiệu trưởng và GV để tìm hiểu nhận
thức, đánh giá của họ về quản lý hoạt động tự học của học viên Học viện
Cảnh sát nhân dân hiện nay.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tiến hành nghiên cứu, tổng kết các kinh nghiệm của Hiệu trưởng và
cán bộ trong quản lý hoạt động tự học của học viên Học viện Cảnh sát nhân
dân hiện nay.
Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia; các nhà khoa học về giáo dục
học, quản lý giáo dục; các nhà giáo có chuyên môn sâu và có kinh nghiệm về
quản lý hoạt động tự học của học viên để làm rõ nhiệm vụ của đề tài.
Phương pháp toán thống kê
Phân tích xử lý các thông tin thu được, sử dụng thống kê toán học để
xử lý số liệu và kết quả nghiên cứu. Sử dụng phần mềm tin học để vẽ sơ đồ,
đồ thị…
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn nghiên cứu thành công góp phần phát triển hệ thống lý luận

và nghiên cứu làm rõ thực trạng, đề xuất biện pháp về quản lý hoạt động tự
học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp những cơ sở khoa học để
CBQL các cấp tăng cường biện pháp quản lý, chỉ đạo, tổ chức các bước quản
lý hoạt động tự học của học viên có tính khả thi nhằm quản lý tốt hơn hoạt
động tự học của học viên Học viện Cảnh sát nhân dân.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, luận văn được trình bày trong 3 chương (8 tiết);
kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

13


14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA HỌC VIÊN HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN

1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Hoạt động tự học
1.1.1.1. Quan niệm về tự học
Theo đại từ điển tiếng Việt (1998), “Tự”: từ biểu thị hoạt động do chủ
thể tiến hành không nhờ đến kẻ khác hoặc có ý nghĩa phản thân: tự giác, tự
lực. Với những cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những
khái niệm khác nhau về tự học.
* Quan điểm của các nhà giáo dục học về tự học.
+ Theo Đặng Hữu Hoạt, Hà Thị Đức: “Tự học là một hình thức tổ chức
dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá

nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người
học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình
và sách giáo khoa đã quy định” [10, tr.42].
+ Theo GS,TS Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (so sánh, quan sát, phân tích, tổng hợp,...)
và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình
rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh vực
đó thành sở hữu của mình... rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí tiến thủ không ngại
khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…) để chiếm lĩnh
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu
của mình”. [39, tr.80].

15


+ Theo GS Vũ Văn Tảo: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển
nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình…” "Học, cốt lõi là tự
học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi
mình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách thu nhận, xử lý và
điều chỉnh thông tin từ môi trường sống xung quanh mình” [37].
Tự học - về bản chất là quá trình tiếp thu và xử lý thông tin bằng các
hành động trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn kinh nghiệm đạt
được của cá nhân, từ đó mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới.
+ Theo TS Võ Quang Phúc: “Học, một khi được hiểu như là sự chiếm
lĩnh kinh nghiệm của nhân loại, thì tự nó bao gồm cả HĐTH. Nói khác đi, tự
học là bộ phận của học, nó cũng được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ,
ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động
dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học,
phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả

nhất định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung học tập nhất định”
[33].
+ Theo Nguyễn Văn Đạo: "Tự học là công việc tự giác của mỗi
người do nhận thức đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến
thức cho bản thân, cho chất lượng công việc của mình đảm nhiệm, cho tiến
bộ xã hội" [11, tr3]
Qua các khái niệm trên, với những góc độ tiếp cận khác nhau của các
nhà giáo dục học cho thấy: tự học là một hình thức học có tính cá nhân do bản
thân người học nỗ lực thực hiện. Để tiến hành được các công việc này, cá
nhân phải tự giác, huy động các năng lực trí tuệ, phẩm chất tâm lý trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức khoa học. Dạy học phải kích thích được năng lực tự
học của người học. Việc tổ chức hoạt động tự học như thế nào phụ thuộc vào

16


đặc điểm tâm sinh lý, năng lực trí tuệ, đặc điểm tình cảm, thái độ và tùy thuộc
theo khuynh hướng, khả năng và trình độ nhận thức của bản thân.
* Quan điểm của các nhà tâm lý học
Đại diện là N.A. Rubakin, có quan niệm: "Tự học là quá trình lĩnh hội tri
thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách
thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô
hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể". [35, tr35]. Trong
khi đó, N.D. Lêvitôv thì cho rằng: "Tự học là hoạt động tích cực của cá nhân
với các thành phần tâm lý của sự lĩnh hội, đó là thái độ tích cực của người học
trong tự học các quá trình tư duy, các quá trình ghi nhớ,... các quá trình tâm lý
có liên quan mật thiết với nhau để hoạt động tự học đạt kết quả [24, tr140]
Một số quan niệm khác thì cho rằng: Tự học là hình thức học có tính
chất cá nhân do bản thân người học nỗ lực thực hiện. Bản chất tự học là hoạt

động nhận thức độc lập của người học. Hoạt động tự học mang tính chất cá
nhân một cách rõ rệt. Tổ chức hoạt động tự học như thế nào phụ thuộc vào
đặc điểm tâm- sinh lý , năng lực trí tuệ, đặc điểm tình cảm, thái độ cá nhân,
tùy theo khuynh hướng và khả năng, tùy theo trinh độ nhận thức của bản thân
về nhiệm vụ và trách nhiệm, cuối cùng là theo thói quen và làm việc độc lập.
[16, tr 35]
Như vậy, mặc dù các tác giả chưa đi đến một khái niệm thống nhất về tự
học, song đều có quan điểm chung là: Tự học là hoạt động đòi hỏi có ý thức
tự giác cao, mang tính độc lập, cá nhân phải có thái độ đúng, có hệ thống kỹ
năng tự học. Tự học thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo, tự điều khiển, tự điều chỉnh,
tự kiểm tra việc học của chính mình.
Tự học là một bộ phận của quá trình học tập của học sinh. Tác giả Đỗ
Thế Hưng cho rằng: "tự học là quá trình người học tự mình hoạt động lĩnh

17


hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn,
quản lý trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục,
đào tạo. Như vậy hoạt động tự học là phương thức học tập cơ bản của giáo
dục chính quy, giáo dục thường xuyên; đồng thời còn là một bộ phận không
thể tách rời của quá trình học tập có hệ thống trong các trường hợp nhằm
đào tạo sâu, mở rộng dể nắm vững kiến thức của học sinh” .
Nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức hoạt động
dạy học ở đại học, tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: “Tự học là hình thức hoạt
động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do
chính sinh viên tiến hành ở trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo
chương trình và sách giáo khoa đã được quy định. Tự học là một hình thức tổ
chức dạy học cơ bản ở đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái
cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học”. [29, tr 276]

Như vậy, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tự học ở nhiều góc độ khác
nhau, song có thể khái quát như sau: tự học là hình thức hoạt động nhận thức
của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành
động để hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tự học giúp người học tự tìm ra tri thức
mới, cách thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học
hình thành nên những con người năng động, sáng tạo”.
Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng tự học là học với sự độc lập
và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó, chủ thể
người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao
tác trí tuệ hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá
nhân. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, chẳng hạn như
giải bài tập trên lớp, nảy sinh những thắc mắc khi nghe giáo viên giảng bài, tự
sắp xếp những lời giảng của giáo viên để ghi vào vở, tự phân tích, nhận xét
câu trả lời của bạn trong quá trình thảo luận…

18


Tự học, ngoài thái độ tích cực còn phải có các kỹ năng để thực hiện việc
tự học. Đó là kỹ năng quản lý việc học, kỹ năng lập kế hoạch học tập, kỹ năng
kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả của tự học.
Tự học diễn ra ngay ở trên lớp và ngoài giờ lên lớp, có hoặc không có sự
hướng dẫn của giáo viên.
Các quan niệm trên chỉ ra: Tự học của học viên, là hình thức tổ chức dạy
học cơ bản ở đại học, là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân,
nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học
tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo chương trình và sách
giáo khoa đã được quy định.
Từ những quan điểm trên có thể định nghĩa: Tự học là quá trình người
học huy động toàn bộ khả năng trí tuệ, vốn sống, tình cảm và ý chí của mình

một cách có chủ động để khám phá, lĩnh hội kiến thức thức, kỹ năng và hoàn
thiện nhân cách dưới sự can thiệp hay không can thiệp của giáo viên.
1.1.1.2. Hoạt động tự học của học viên
Khi người học tự mình huy động những phẩm chất, năng lực để tiến
hành các hoạt động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri
thức tức là họ tiến hành hoạt động tự học.
HĐTH có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn trực tiếp
của giáo viên. Khi đó người học là chủ thể nhận thức tích cực. Họ phải huy
động mọi phẩm chất tâm lý cá nhân tiến hành những hoạt động học tập để
lĩnh hội được kiến thức theo sự chỉ dẫn trực tiếp của giáo viên.
Khi không có giáo viên điều khiển trực tiếp, người học tự mình sắp xếp
kế hoạch, huy động các điều kiện vật chất và năng lực bản thân để ôn tập,
củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học
tập mà giáo viên giao, lĩnh hội phần kiến thức mới. Đó là tự học dưới sự điều
khiển gián tiếp của giáo viên nhằm hoàn thiện nhiệm vụ dạy - học.

19


Trong quá trình học tập, sinh viên còn tiến hành hoạt động tự học nhằm
đáp ứng nhu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương
trình đào tạo đã quy định của nhà trường.
Như vậy, hoạt động tự học của học viên là hình thức cá nhân người
học tự tổ chức học tập theo phương pháp tự nghiên cứu, nhằm huy động
những phẩm chất, năng lực bản thân để tiến hành các hoạt động tìm tòi,
khám phá độc lập với mục đích chiếm lĩnh tri thức mà không có giảng viên
trực tiếp hướng dẫn.
Về bản chất HĐTH của học viên là hoạt động nhận thức độc lập; nó
có phạm vi rất rộng, từ tự học trên lớp dưới sự tổ chức, điều khiển trực
tiếp của giảng viên, tự học ở nhà dưới sự điều khiển gián tiếp của giảng

viên cho tới tự học hoàn toàn độc lập không có sự tổ chức điều khiển của
giảng viên.
HĐTH có vai trò cực kỳ quan trọng, thực tế cho thấy chất lượng học
tập được quyết định bởi ý thức và phương pháp tự học của từng học viên. Khi
cả lớp được cùng học một thầy nhưng kết quả học tập của mỗi người lại rất
khác nhau đó chính là do ý thức và phương pháp học tập của mỗi người.
Mục đích HĐTH là phát triển kỹ năng hoạt động độc lập theo hướng
nghiên cứu khoa học, tiếp cận với những tiến bộ khoa học và công nghệ trong
nước và trên thế giới, đồng thời đảm bảo chất lượng quá trình học tập của bản
thân học viên.
Tự học có kế hoạch, có nề nếp sẽ tạo nên thói quen và phong cách làm
việc lâu dài của từng cá nhân. Tự học giúp con người có khả năng định hướng
trong thời đại thông tin. Tự học trang bị cho học viên phương pháp, kỹ năng
hoàn thiện mình trong suốt cuộc đời.
Nội dung công việc tự học của học viên là ôn tập, chuẩn bị bài, làm các
bài tập, thí nghiệm, thực hành, đọc sách tham khảo mở rộng kiến thức, chuẩn

20


bị thảo luận, hội thảo, ôn tập và chuẩn bị cho các kỳ thi…Học viên tự học tốt
sẽ giúp cho các giờ học trên lớp thuận lợi và chất lượng học tập toàn khóa học
sẽ được đảm bảo.
Để tự học tốt cần có hai yếu tố chủ quan và khách quan. Mặt chủ quan
đó là hứng thú, kiên trì, tập trung tâm trí, có phương pháp học tập tốt, có trạng
thái sức khỏe và tâm lý thoải mái, không bị chi phối, phân tán. Mặt khách
quan là cần có đủ tài liệu, Giáo trình, sách tham khảo, có đồ dùng, phương
tiện học tập, có máy tính kết nối mạng, cần có phòng học sáng sủa, mát mẻ,
bàn ghế thuận lợi…gia đình, nhà trường cần quan tâm các điều kiện tự học
của học viên.

Tự học là hoạt động học tập độc lập của học viên ngoài giờ lên lớp, tự
học là khâu then chốt, quyết định chất lượng học tập của mỗi học viên.
Nội dung tự học:
Hoàn thiện bài trên lớp;
Chuẩn bị bài tiếp theo;
Mở rộng và đào tạo sâu kiến thức thức bằng các nguồn thông tin khác
nhau;
Tập dượt để hình thành kỹ năng nghiệp vụ và nghiên cứu khoa học.
Cần tổ chức cho học viên tận dụng hết thời gian dành cho tự học, tự học
một cách tích cực và có phương pháp sáng tạo nhất.
1.1.2. Quản lý hoạt động tự học của học viên
* Quản lý
Hoạt động quản lý được nảy sinh, phát triển từ sự hợp tác, phân công
lao động của con người, có ý nghĩa lịch sử và vĩnh hằng với tư cách điều
khiển mọi hoạt động của xã hội về kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục...
Một xã hội càng phát triển thì các loại hình quản lý càng phức tạp, do đó lao

21


động quản lý càng phát triển và quản lý luôn là một ngành khoa học có chức
năng đặc biệt.
Quản lý phải có chủ thể, ai quản lý và đối tượng ai bị quản lý và quản lý
nội dung gì. Khái niệm quản lý cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Nói đến tổ chức là nói đến cơ cấu bộ máy,
tổ chức nhân sự trong từng bộ phận và tổ chức hành chính. Hoạt động quản lý
được hình thành từ sự phân công, hợp tác lao động, từ sự xuất hiện của tổ
chức cộng đồng. Cần có người quản lý và sự quản lý nhằm đạt hiệu quả tốt
hơn, năng suất cao hơn trong hợp tác lao động của cộng đồng. Nói đến công
việc quản lý là nói đến việc điều hành, điều khiển, chỉ huy.

Bất kỳ tổ chức hành chính nào đều có sự phân định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cả quyền lợi của từng bộ phận, từng cá nhân, quy định các mối
quan hệ chấp hành, quan hệ phối hợp thực hiện và quan hệ giám sát, kiểm tra.
Quản lý là làm cho bộ máy vận hành ổn định và phát triển, muốn vậy
phải điều hành tổ chức hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ của từng bộ
phận, từng cá nhân.
Trong hoạt động quản lý, không thể không nhắc tới tư tưởng sâu sắc của
K.Marx: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến
hành trên một qui mô khá lớn đều phải có sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt
động cá nhân...Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì
cần có nhạc trưởng”. Như vậy, ta thấy rằng, quản lý là điều khiển, là chỉ huy,
là tổ chức, là hướng dẫn, là sự phối hợp quá trình hoạt động của con người
trong các tổ chức xã hội.
Khi bàn về quản lý, có rất nhiều quan điểm khác nhau, tùy thuộc vào
cách tiếp cận của mỗi nhà nghiên cứu.
- FW. Taylor (Mỹ), người sáng lập ra trường phái quản lý khoa học cho
rằng: "Quản lý là biết được chính xác điều mình muốn người khác làm và sau
đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất"
22


- Nhà khoa học Harold, Cyril Odonell và Heinz Weihrich có quan điểm:
"Quản lý là hoạt động thiết yếu của nhà quản lý đảm bảo sự phối hợp, sự nỗ
lực của mỗi cá nhân trong tổ chức nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định trong
những điều kiện thời gian, công sức và kinh phí bỏ ra ít nhất nhưng đạt hiệu
quả cao nhất" [40, tr23]
Các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý ở nước ta đã đưa ra một số định
nghĩa về quản lý như sau:
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý gồm hai quá trình tích hợp
vào nhau, quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn để duy trì tổ chức ở

trạng thái ổn định, quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ
vào thế phát triển”[7].
Tác giả Hà Thế Ngữ- Đặng Vũ Hoạt thì cho rằng: “Quản lý là một quá
trình định hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý có hệ thống là quá trình tác
động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu xác định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”. [17,
tr17]
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập
thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình
lao động" [36, tr15].
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì cho rằng: “Quản
lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [25].
Trong quá trình quản lý, các nhà quản lý đã phân loại thành nhiều các
chức năng quản lý, song cũng như quan điểm của hai tác giả Nguyễn Quốc
Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì có thể khái quát lại chỉ còn 4 chức năng cơ
bản là:
Chức năng kế hoạch hóa.

23


Chức năng tổ chức.
Chức năng chỉ đạo.
Chức năng kiểm tra.
Có thể thấy rằng, những định nghĩa trên của các tác giả tuy có sự khác
nhau về cách diễn đạt và về góc độ tiếp cận nhưng đều có sự tương đồng ở
nội dung cơ bản của khái niệm quản lý: Quản lý là quá trình có tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận
dụng các chức năng quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và cơ

hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý
thực chất là sự tác động một cách khoa học của chủ thể quản lý đến hệ thống
giáo dục nhằm làm cho hệ vận hành đến trạng mới có chất lượng cao hơn.
Chúng ta có thể hiểu quản lý là sự tác động điều khiển, hướng dẫn các
quy trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã
xác định. Quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hóa và là đối
tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt.
Quản lý là khoa học về phân loại và xử lý các mối quan hệ, đặc biệt là
quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Với tư cách là khoa học,
quản lý đòi hỏi các nhà quản lý phải không ngừng học tập để nâng cao năng
lực quản lý. Bên cạnh đó có thể coi quản lý là một nghệ thuật, vì nó là một
hoạt động đặc biệt, đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và linh hoạt những tri thức,
kinh nghiệm đã được đúc kết để được áp dụng vào việc tổ chức quản lý con
người và công việc. Với tư cách là nghệ thuật, quản lý lại đòi hỏi nhà quản
lý phải không ngừng rèn luyện để nâng cao hiệu quả quản lý.
* Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học là một trong những nội dung quản lý chủ yếu
của quản lý nhà trường. Thực chất hoạt động dạy học là hệ thống những tác

24


động có ý thức của chủ thể quản lý trong nhà trường đến hoạt động dạy của
giáo viên và quá trình nhận thức của người học.
Từ đó có thể hiểu: Quản lý hoạt động dạy học là hệ thống các tác động
của các chủ thể quản lý đến hoạt động dạy của giáo viên và việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập, rèn luyện của người học và các điều kiện đảm bảo cho dạy
và học đạt kết quả, nhằm đạt tới mục tiêu dạy học đã xác định. Qủan lý hoạt
động dạy và học ở trường đại học không nằm ngoài quan niệm trên.

Mục đích quản lý hoạt động dạy học ở Học viện CSND, là làm cho
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học viên đạt tới kết quả
mong muốn.
Quản lý dạy học là quản lý một hoạt động với tư cách là một hệ toàn
vẹn, bao gồm các hoạt động xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học, tổ chức
chỉ đạo triển khai hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá hoạt động đó. Tất
cả các chức năng quản lý này tồn tại trong mối quan hệ qua lại và thống nhất
với môi trường của nó: môi trường xã hội - chính trị và môi trường khoa học kinh tế - công nghệ. Điều đó có nghĩa là chủ thể quản lý phải tác động vào
toàn bộ các thành tố của hoạt động dạy học theo quy luật tâm lý, giáo dục
học, lý luận về quản lý để đưa hoạt động dạy học từ trạng thái này sang trạng
thái cao hơn để dần tiến tới mục tiêu giáo dục .
Mặt khác, hoạt động dạy học vận động và phát triển là do các nhân tố
cấu thành của nó vận động và tương tác với nhau, trong đó nhất là hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học viên, nhằm thực hiện mục tiêu
của quá trình, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo nói chung. Vì vậy quản lý
hoạt động dạy học vừa phải làm sao cho mỗi nhân tố có được lực tác động đủ
mạnh, lại vừa đảm bảo sự vận động nhịp nhàng, hài hoà và thống nhất của
toàn bộ quá trình, không được để nhân tố nào vận động yếu làm ảnh hưởng
đến sự phát triển chung, trong đó cần quan tâm đến quản lý hoạt động tự học

25


của người học. Điều này đòi hỏi người quản lý phải có nghệ thuật, vận dụng
linh hoạt các biện pháp mới đạt được mục tiêu đề ra.
Từ các vấn đề trình bày trên, có thể khái quát:
Quản lý hoạt động tự học của học viên là tổng hợp các cách thức, biện
pháp tác động của chủ thể quản lý trong nhà trường lên hoạt động tự học của
học viên, nhằm giúp họ biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo,
góp phần cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

Bản chất của việc quản lý hoạt động tự học của học viên là các chủ thể
quản lý và tiến hành các biện pháp quản lý sao cho phát huy được tính tích
cực, tính tự giác của người học ở mức độ cao nhất.
Mục đích của quản lý hoạt động tự học của học viên là, giúp họ nâng cao
hiệu quả học tập, từ đó hiệu quả đào tạo của nhà trường tăng lên; để đạt mục
đích đó đòi hỏi lãnh đạo, chỉ đạo của nhà trường có biện pháp trong điều
khiển các tổ chức, lực lượng thực hiện việc quản lý, kiểm tra, đôn đốc hoạt
động tự học của học viên, phát huy vai trò tích cực chủ động học tập của họ.
Chủ thể quản lý hoạt động tự học của học viên là BGĐ, CBQL giáo dục,
giáo viên các khoa, bộ môn và bản thân mỗi học viên tự quản lý hoạt động
học tập của mình. Trong đó vai trò của giáo viên trong quản lý hoạt động tự
học của học viên là hết sức quan trọng; vì vậy để việc tự học của họ đạt hiệu
quả thì giáo viên và nhà trường phải có kế hoạch hướng dẫn cách thức, PPTH
kể cả kĩ năng cơ bản trong tự học. Phạm vi hoạt động của công tác này cần
được mở rộng, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với các khoa phòng, bộ môn và cơ
quan đoàn thể trong suốt quá trình đào tạo.
Đối tượng quản lý hoạt động tự học của học viên là quản lý việc xây
dựng và thực hiện kế hoạch học tập, tổ chức hướng dẫn hoạt động tự học nội
dung các môn học, PPTH, đảm bảo các điều kiện để hoạt động tự học diễn ra

26


thuận lợi và kiểm tra, giám sát cũng như phổ biến kinh nghiệm về hoạt động
tự học của học viên...
Phương pháp quản lý hoạt động tự học của học viên, là các chủ thể quản
lý cần sử dụng phối hợp khéo léo các phương pháp quản lý hành chính,
phương pháp tâm lý-giáo dục và phương pháp kích thích, nhằm mang tính
định hướng, gợi mở, tạo điều kiện, gây ảnh hưởng lôi cuốn học viên thực hiện
một cách tự giác, chủ động hoạt động tự học của họ.

1.2. Nội dung quản lý hoạt động tự học của học viên
Nội dung quản lý hoạt động tự học của học viên bao gồm nhiều hoạt
động như: quản lý việc bồi dưỡng động cơ tự học; xây dựng và thực hiện kế
hoạch tự học; xây dựng nội dung tự học; bồi dưỡng PPTH; xây dựng kế hoạch
kiểm tra đánh giá kết quả tự học; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự
học...cụ thể như:
1.2.1.Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học
Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung tự học theo thời gian một
cách hợp lý dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ tự học, khả năng của bản thân và các
điều kiện được đảm bảo nhằm hướng tới việc nắm vững kiến thức của từng
môn học. Nếu có kế hoạch tự học, người học sẽ biết mình phải làm gì để đạt
được mục tiêu, qua đó người học chủ động được về mặt thời gian và sẽ kiểm
soát được toàn bộ quá trình tự học của mình một cách khoa học nhằm thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập. Kế hoạch tự học của học viên càng chi
tiết, cụ thể thì càng thuận lợi cho việc kiểm tra, đánh giá kết quả tự học và
mức độ hoàn thành các mục tiêu tự học của họ.
Quản lý việc xây dựng kế hoạch tự học và thực hiện kế hoạch tự học của
học viên sẽ nâng cao chất lượng học tập của họ.
Hướng dẫn và tổ chức cho học viên xây dựng kế hoạch học tập, sau học
kỳ, năm học mỗi học viên tự kiểm điểm, tổ, lớp, giáo viên chủ nhiệm đóng
27


×