VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGẦN VĂN TUẤN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGẦN VĂN TUẤN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN DANH SƠN
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám
hiệu nhà trường, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội
đã tân tình và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Danh Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn
đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo Phòng Lao động
– Thương binh và Xã hội huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, cùng bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Chính sách công “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Ngần Văn Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ..........................................................5
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................................5
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ............................9
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững .....13
1.4. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
...................................................................................................................................16
1.5. Chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam ..................................................17
1.6. Kinh nghiệm thực hiện giảm nghèo ở một số địa phương ở Việt Nam .............23
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG Ở HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH ...........................................29
2.1. Chủ trương và chính sách giảm nghèo bền vững ...............................................29
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình thời qua .....................................................................................................32
2.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới ............................................................54
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG THỜI GIAN TỚI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN MAI
CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH .....................................................................................57
3.1. Bối cảnh phát triển .............................................................................................57
3.2. Quan điểm và mục tiêu giảm nghèo bền vững của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình ...........................................................................................................................60
3.3. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững .............61
KẾT LUẬN..............................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 70
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 76
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp các hộ nghèo theo thành phần của huyện ..........................
Mai Châu số liệu kết quả điều tra giai đoạn 2011 - 2015. .............................. 34
Bảng 2.2. Tổng hợp các hộ theo nguyên nhân nghèo tại huyện Mai Châu qua
số liệu nghiên cứu từ kết quả tổng điều tra theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 –
2015 ................................................................................................................. 35
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giảm nghèo là một mục tiêu chiến lược phát triển của các quốc gia, trong đó
có Việt Nam. Ở nước ta giảm nghèo luôn là một mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong các quyết sách phát triển theo hướng bền vững của Đảng
và nhà nước. Trong những năm qua nhà nước đã ban hành và tổ chức triển khai
thực hiện nhiều chính sách giảm nghèo nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời
thể hiện quyết tâm trong việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc
mà Việt Nam đã cam kết.
Những năm qua, việc tập trung thực hiện thành công Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và các chương trình giảm nghèo, đã tạo điều kiện để người nghèo
tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; cơ sở hạ tầng của các huyện, xã nghèo
được tăng cường; đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo cả
nước đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010 và đến năm 2015 chỉ
còn dưới 4,5%. Thành tựu giảm nghèo của nước ta thời gian qua được cộng đồng
quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, số hộ đã thoát nghèo
nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo còn lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn
cao; chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư vẫn còn khá lớn, đời sống
người nghèo nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là ở khu vực miền núi, vùng
cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó tỉnh Hòa Bình thuộc vùng Tây Bắc
hiện là vùng nghèo nhất trong số 8 vùng của cả nước.
Tình hình trên trước hết do điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nên mặc
dù nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu; bên cạnh đó, một số chương trình, chính sách giảm nghèo chưa đồng
bộ, còn mang tính ngắn hạn, thiếu sự gắn kết chặt chẽ; cơ chế quản lý, chỉ đạo điều
hành, phân công phân cấp còn chưa hợp lý, việc tổ chức thực hiện mục tiêu giảm
1
nghèo ở một số nơi chưa sâu sát. Ngoài ra, một bộ phận người nghèo còn tâm lý ỷ
lại, chưa tích cực, chủ động vươn lên thoát nghèo.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của vấn đề giảm nghèo trong quản lý quá
trình phát triển bền vững là những đặc thù trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở
vùng miền núi có đông người dân tộc thiểu số, cụ thể là ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình, tôi lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ
thực tiễn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học
chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam vấn đề nghèo luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu, trong đó có
thể kể đến:
- Sách chuyên khảo “Chính sách xóa đói giảm nghèo- Thực trạng và giải
pháp” của PGS.TS. Lê Quốc Lý chủ biên, xuất bản năm 2012.
- Báo cáo Giảm nghèo ở Việt Nam- Thành tựu và thách thức (2011) do nhóm
nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) thực hiện.
- Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về giảm nghèo ở Việt Nam được thực
hiện bởi nhóm chuyên gia của Viện Nghiên cứu và Tư vấn phát triển (RCD) do Bộ
Lao động Thương và Xã hội chủ trì (2015).
- Đề tài luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện KHXH (2012) “Giải pháp xóa đói
giảm nghèo nhằm phát triển kinh tế- xã hội ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam” của
Nguyễn Thị Nhung.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế phát triển, Học viện KHXH
(2011)“Chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kon Tum” của Nguyễn
Minh Định.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện KHXH (2011) “Giải pháp xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” của Đỗ Thị Dung.
- Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện KHXH (2015)“Chính sách
giảm nghèo bền vững từ thực tiễn Quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng” của Mai
Tấn Tuân.
2
- Luận văn Thạc sĩ quản lý kinh tế, Học viện KHXH (2015) “Giảm nghèo
bền vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang” của Phạm Ngọc Dũng.
- Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện KHXH (2015) “Thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện An Lão, tỉnh Bình Định” của
Châu Văn Hiếu.
Các nghiên cứu trên đã có những luận giải về xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam ở các địa phương nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập về thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn (Việt Nam, địa phương
khác) về nghèo đói và chính sách giảm nghèo trong phát triển bền vững.
- Đánh giá chính sách và thực hiện chính sách giảm nghèo tại huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình và từ đó xác định các vấn đề đặt ra mà chính sách giảm nghèo
cần hướng tới giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện chính sách giảm nghèo theo
tiếp cận và tiêu chí giảm nghèo đa chiều ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, trong
đó có xét đến giảm nghèo đơn chiều trong thực hiện chính sách giảm nghèo giai
đoạn trước 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu: các chính sách giảm nghèo được ban hành trong
giai đoạn từ năm 2006 đến nay (2016).
- Về địa bàn nghiên cứu: huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận trong
nghiên cứu khoa học và các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong nghiên cứu chính
sách. Cụ thể là:
- Tiếp cận đa ngành, liên ngành, trong đó trọng tâm là tiếp cận nghiên cứu
3
chính sách công.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai thác thông
tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài
liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa
phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền,
ban ngành đoàn thể, tổ chức.
- Phương pháp thống kê để khái quát, diễn giải diến biến của sự kiện trong
đánh giá thực hiện chính sách.
- Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp chuyên gia thông qua tham vấn,
lấy ý kiến của một số cán bộ quản lý nhà nước có liên quan đến tổ chức thực hiện
chính sách giảm nghèo ở địa bàn nghiên cứu cùng với phương pháp quan sát tại chỗ
trong quá trình công tác của bản thân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo và
chính sách giảm nghèo; trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách
giảm nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2015 đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Giải pháp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững thời gian tới
từ thực tiễn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4
Chương 1
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
- Nghèo và nghèo đa chiều
Đói (hunger), nghèo (poverty) là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính
toàn cầu. Nó không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó
còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tùy thuộc vào
điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà
tính chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Nhìn chung mỗi quốc
gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo và đưa ra các chỉ số
nghèo để xác định giới hạn nghèo. Giới hạn nghèo của các quốc gia thường được
xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức
thu nhập mà một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ
cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
Mặc dù trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan niệm về nghèo đói được các
thiết chế kinh tế quốc tế, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ đưa ra. Mỗi một
quan niệm đưa ra đều dựa trên những nguyên tắc và cách tiếp cận riêng về nghèo
đói, song nhìn chung có thể chú ý vào một số quan niệm chủ yếu sau:
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen
(Đan Mạch) năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa về nghèo đói như sau: “Người
nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho
mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” - đây
được coi là quan niệm đói nghèo tuyệt đối. Tuy vậy, cũng có quan niệm khác về
nghèo đói mang tính kinh điển hơn, triết lý hơn của chuyên gia hàng đầu của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) - ông AbapiSen, người được giải thưởng Nobel về
kinh tế năm 1998 cho rằng: “Nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào
quá trình phát triển của cộng đồng”.
Nghèo được định nghĩa như là “sự thiếu hụt, hay là sự bất lực trong việc tiếp
cận đến một mức sống mà xã hội chấp nhận” (Ngân hàng thế giới, 2001).
5
Còn có các định nghĩa khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
chỉ số được một bộ các chỉ báo đại diện. Tổng hòa các chỉ báo này phản ánh chất
lượng cuộc sống. Rõ ràng là có sự quan hệ qua lại giữa các chỉ báo đói nghèo đa
chiều chứ không chỉ đơn giản là quan hệ nhân quả giữa tình trạng nghèo về tiền bạc
và các nhân tố khác. Các mối quan hệ qua lại này giữa các chỉ báo nghèo đa chiều
làm cho việc đo lường nghèo trở nên phức tạp hơn so với quan hệ nhân quả đơn
giản thường được áp dụng trong nghiên cứu nghèo, khi mà tình trạng nghèo đơn
chiều được coi như là kết quả của nhiều nhân tố khác. Hiện nay, các tổ chức quốc tế
đã áp dụng khái niệm nghèo đa chiều và xây dựng các chỉ số đo lường nghèo đa
chiều. Các chỉ số đa chiều phổ biến nhất là Chỉ số nghèo con người (Human
Poverty Index - HPI) do Anand và Sen đề xuất (1997), Chỉ số phát triển con người
(Human Development Index - HDI) được Liên Hiệp Quốc sử dụng, và Chỉ số nghèo
đa chiều (Multidimensional Poverty Index -MPI) do Đại học Oxford và UNDP áp
dụng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007).
Ở nước ta, khái niệm nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn
những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện (theo Thư viện Học liệu Mở Việt
Nam (VOER)).
Như vậy, theo quan niệm hiện đại, nghèo (đa chiều) gồm những khía cạnh cơ
bản như sau:
- Đầu tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một
tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
- Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục
và y tế.
- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình
hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hay sức khỏe.
- Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói, không được tham gia và không
có quyền lực của người nghèo.
Đây cũng là khái niệm nghèo được sử dụng trong nghiên cứu này.
6
- Người nghèo, hộ nghèo
Ở nước ta, trong các chính sách về giảm nghèo có những khái niệm sau:
- Người nghèo: Những người có mức thu nhập hay mức chi tiêu dưới mức tối
thiểu là những người nghèo trong xã hội.
- Hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu
không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác đó là
một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu
khả năng trả nợ.
- Hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn một
phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hộ nghèo được xác định thông qua các chuẩn nghèo, chuẩn nghèo khác nhau
theo các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế.
Sinh kế (livehood) của người nghèo
Chambers & Conway định nghĩa “Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự trữ,
nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo đảm phương tiện
sinh sống: sinh kế chỉ bền vững khi nó có thể đương đầu với và phục hồi sau các cú
sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản, và cung cấp các cơ hội sinh kế bền
vững cho các thế hệ kế tiếp; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp độ
địa phương hoặc toàn cầu, trong ngắn hạn và dài hạn” (Chambers & Conway,
1991, p.6). Khung phân tích sinh kế xác định 5 nhóm tài sản, hay còn được hiểu là
“vốn” mà sinh kế dựa vào. Các tài sản này bao gồm tài sản (hoặc là vốn) con người,
tự nhiên, vật chất, tài chính và xã hội. Gia tăng khả năng tiếp cận đến các tài sản
sinh kế này bằng cách sở hữu hay sử dụng được hiểu là hỗ trợ cho sinh kế và giảm
nghèo.
Đặc trưng của người nghèo gắn rất chặt với sự thiếu hụt các tài sản sinh kế.
Các nghiên cứu xác định rằng thiếu hụt đất canh tác (tài sản tự nhiên), thiếu hỗ trợ
tín dụng, rơi vào hoàn cảnh nợ nần, vay mượn lương thực để ăn (tài sản tài chính),
nhà cửa và đồ dùng tạm bợ (tài sản vật chất), gia đình trẻ, thiếu kinh nghiệm làm
7
việc, thiếu kiến thức, rời bỏ trường học sớm, mù chữ, chủ hộ lớn tuổi, đau ốm, thiểu
năng (tài sản con người) là các đặc trưng quan trọng của người nghèo.
- Giảm nghèo
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tình trạng phần trăm và số lượng người
nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân
cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn
sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của
mỗi người.
Ở góc độ người nghèo: giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người
có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ
sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo.
- Chính sách và chính sách giảm nghèo bền vững
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính
sách được thể hiện khác nhau, ví dụ: “Chính sách là những sách lược và kế hoạch
cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính sách chung và
tình hình thực tế mà đề ra” (Từ điển tiếng Việt, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 1988,
Tr.157); hoặc “Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái,
một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội” (Nguyễn Như Y, Đại từ điển
tiếng Việt, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1999, tr.369).
Chính sách là một công cụ quản lý của Nhà nước được thể chế hóa ra bằng các
cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm tác động vào các đối tượng nhất định, điều chỉnh
các đối tượng theo mục tiêu cụ thể và trong một thời gian xác định.
Võ Khánh Vinh định nghĩa chính sách “là những đường hướng hành động
(ứng xử) cơ bản của chủ thể và các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động
nhằm đạt được mục tiêu nhất định” và “chính sách công là những đường hướng ứng
xử cơ bản của Nhà nước với những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng bằng
nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã hội” (Võ
8
Khánh Vinh, Giáo trình giảng dạy chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công
2013).
Chính sách có thể phân loại theo lĩnh vực tác động: Chính sách kinh tế, chính
sách xã hội, chính sách văn hóa, chính sách công nghệ, chính sách môi trường, ...
- Chính sách giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội của Nhà
nước, được ban hành tác động vào mối quan hệ của những người nghèo, những
nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, qua đó tạo điều kiện cho họ vươn lên thoát nghèo.
Mục tiêu của chính sách giảm nghèo là tạo cơ hội, hỗ trợ để các hộ nghèo có điều
kiện tiếp cận với các nguồn lực để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và tiếp cận với
các dịch vụ xã hội cơ bản để cải thiện cuộc sống và vươn lên thoát nghèo.
- Chính sách giảm nghèo bền vững: Trần Đình Thiên - Viện trưởng viện
Kinh tế Việt Nam cho rằng “không thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng
phương tiện sống... Đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời,
không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ quan
chức năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ
không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu
tố rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ
giảm nghèo này được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng,
điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận”.
- Giám nghèo bền vững “là một hệ thống các giải pháp và công cụ đồng bộ
xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức trong xã hội trong việc phân phối
hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người dân nghèo, tạo cho
họ những cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản
thân họ, vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo đói, không làm ảnh hưởng đến môi trường
xung quanh, không bị nguy cơ tái nghèo đe dọa, không rời vào cảnh tái nghèo đói”
(Đặng Thị Hoài, Luận văn thạc sĩ ngành Kinh tế, năm 2010).
Tác giả luận văn cũng đồng ý với quan niệm trên về giảm nghèo bền vững.
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững
9
Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững vào thực tiễn đời sống là quá trình
phức tạp, diễn ra trong thời gian dài, vì thế chúng ta cần xây dựng kế hoạch, chương
trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
một cách chủ động hoàn toàn.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cần xây dựng
kế hoạch thời gian cụ thể triển khai thực hiện, mỗi bước cần có mục tiêu cần đạt
được và thời gian dự kiến cho thực hiện mục tiêu. Có thể dự kiến mỗi bước cho phù
hợp với chương trình cụ thể của chính sách. Cùng với đó là xây dựng dự kiến nội
dung nhữn nội quy, quy chế trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững bao gồm nội quy, quy chế tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều
hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ
chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách giảm nghèo bền vững
Sau khi xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai tổ chức thực hiện
theo kế hoạch. Việc làm tiếp theo để chính sách đến được với người nghèo là phổ
biến, tuyên truyền và vận động nhân dân tham gia thực hiện. Các đơn vị như Mặt
trận và các hội đoàn thể cùng nhân dân sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện phổ biến, tuyên truyền bởi đây là hoạt động giúp cho đối tượng thụ hưởng
chính sách giảm nghèo bền vững; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện
hoàn cảnh nhất định; về tính khả thi của chính chính sách giảm nghèo bền vững để
họ tự giác thực hiện theo yêu cầu nhà nước.
Trong thực tế hiện nay, đã có không ít cơ quan, địa phương do thiếu năng lực
tuyên truyền, vận động đã làm cho chính sách giảm nghèo bền vững bị biến dạng,
làm cho lòng tin của dân chúng vào nhà nước bị giảm sút. Phổ biến, tuyên truyền
chính sách giảm nghèo bền vững cần được các đơn vị có liên quan và nhân dân thực
hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi hành, để mọi đối
tượng cần được tuyên truyền luôn củng cố niềm tin vào chính sách và tích cực thực
10
thi chính sách. Thông qua nhiều hình thức khác nhau như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi
với nhân dân; gián tiếp qua các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng,...
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Sau khi phổ biến, tuyên truyền chính sách giảm nghèo bền vững sẽ là phân
công, phân phối giữa các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách theo kế
hoạch được phê duyệt. Muốn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tốt thì cần
phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành như phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội; Tài chính - Kế hoạch; Tài nguyên và Môi trường;
Kinh tế - Hạ tầng; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng chính sách xã
hội và các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội từ cấp tỉnh triển khai xuống từng huyện,
xã theo sự chỉ đạo Ủy ban nhân dân và các đơn vị liên quan.
Mặc dù chính sách giảm nghèo bền vững đều hướng đến một mục tiêu chung
và đối tương thụ hưởng là người nghèo nhưng kết quả của chính sách giảm nghèo
bền vững lại đánh giá tác động ngược trở lại đối với quá trình thực hiện thuộc các
bộ phận khác nhau, nên rất cần thiết phải phân công, phối hợp cùng thực hiện để đạt
yêu cầu quản lý. Đây là hoạt động diễn ra liên quan đến các cấp và nhiều đơn vị liên
quan nên để tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đạt hiệu lực, hiệu
quả cao trên phạm vi rộng, sáng tạo để luôn có cách làm ăn thoát nghèo có hiệu quả.
1.2.4. Duy trì chính sách giảm nghèo bền vững
Để duy trì chính sách giảm nghèo bền vững lâu dài và phát huy tác dụng
trong điều kiện thực tế của địa phương thì nhất quán các cơ quan nhà nước, các cấp
có thẩm quyền và đơn vị liên quan phải đồng tâm, hợp lực với nhau; phải có liên hệ
mật thiết với nhân dân trong việc thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động
người nghèo và toàn dân tích cực tham gia thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cấp
có thẩm quyền có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành chính để duy trì chính sách.
Bên cạnh đó, người nghèo cùng toàn thể nhân dân trong địa bàn cần có trách nhiệm
tham gia thực hiện yêu cầu của nhà nước và vận động lẫn nhau tích cực nâng cao
tính tự giác chấp hành chính sách giảm nghèo bền vững.
11
Ngoài ra, các cấp quản lý nhà nước cùng các bên có liên quan phải thường
xuyên kiểm tra thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Bởi qua kiểm tra, mục
tiêu và biện pháp chủ yếu của chính sách giảm nghèo bền vững lại được nâng cao
tầm quan trọng hơn; để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, người thực thi chính sách
tập trung chú ý những vấn đề cần ưu tiên trong việc thực hiện giảm nghèo bền
vững. Kết hợp kiểm tra, giám sát là thường xuyên xem xét đánh giá chính sách
giảm nghèo bền vững để rút ra được những hạn chế còn kịp thời bổ sung, hoàn thiện
và chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách.
Những hoạt động đồng bộ trên sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính
sách giảm nghèo bền vững trong đời sống xã hội.
1.2.5. Điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững
Hoạt động điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững đòi hỏi cần diễn ra
thường xuyên và rất cần thiết trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Đây là hoạt động của cơ quan ban hành chính sách và cấp có thẩm quyền nhằm điều
chỉnh sao cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực
tế. Thực tế thì các cấp có thẩm quyền chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính
sách miễn là không thay đổi mục tiêu chính sách. Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục
tiêu của chính sách giảm nghèo bền vững, nghĩa là làm sao thay đổi chính sách giảm
nghèo bền vững, thì coi như chính sách không tồn tại.
Hoạt động điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững đòi hỏi phải chính
xác, hợp lý, nếu không sẽ làm sai lệch, biến dạng chính sách giảm nghèo bền vững,
làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả, thậm chí không tồn tại được. Ủy ban nhân
dân các cấp cùng Ban Chỉ đạo giảm nghèo và các đơn vị liên quan phải theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện chính sách mới kịp thời phát hiện những
chênh lệch, sai sót để điều chỉnh, bổ sung.
1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
là hoạt động không chỉ ở các cấp, cán bộ, công chức có thẩm quyền mà còn ngay cả
từ phía người nghèo. Thực tế khi triển khai thực hiện chính sách, không phải bộ
12
phận nào cũng làm tốt và làm nhanh nên vì thế cần phải có hoạt động theo dõi, đôn
đốc để thúc đẩy người thực thi và các đơn vị liên quan đực trách nhiệm thực hiện
chính sách hoàn thành nhiệm vụ và phòng chống những hành vi sai phạm quy định.
Qua việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc giúp các nhà quản lý và ngay cả người
dân trên địa bàn nắm rõ được tình hình thực hiện chính sách, từ đó có những đánh
giá khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác giảm nghèo bền vững.
Thực tế đó là chính chính sách giảm nghèo bền vững diễn ra trên địa bàn rộng do
nhiều cơ quan, tổ chức và các nhân tham gia; điều kiện về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương không giống nhau, cũng như
trình độ năng lực tổ chức điều hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà
nước không đồng đều, do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành
theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính sách
Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính sách là khâu quan trọng nhằm
rút ra những cái được và chưa được trong triển khai thực hiện chính sách. Công việc
này thường được tổ chức thực hiện từ cơ sở xã, phường trở lên, có sự tham gia của
người dân với nội dung đánh giá tổng thể bao gồm: Đánh giá thực hiện các chính
sách giảm nghèo; đánh giá thực hiện các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững; đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo và đánh
giá hiệu quả tác động tới đối tượng thụ hưởng. Qua đánh giá giữa kỳ, rút ra những
kiến nghị, đề xuất thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững cũng như hướng tiếp
cận giảm nghèo phù hợp và hiệu quả hơn trong giai đoạn 2016 – 2020.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.3.1. Nhân tố khách quan
Tác động của tăng trưởng kinh tế đến đói nghèo
Trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo có mỗi
quan hệ biện chứng với nhau: Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề, điều kiện vật chất để
giảm nghèo. Tuy vậy, kết quả tăng trưởng kinh tế cần được phân phối và phân phối
lại một cách công bằng, hợp lý, trong đó người nghèo, nhóm nghèo trong xã hội
13
được trợ giúp, được tạo cơ hội để vươn lên thoát nghèo thì đó mới thực sự là tăng
trưởng kinh tế là nhà nhân tố tích cực giảm nghèo bền vững.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ảnh hưởng đến đói nghèo
Công nghiệp hóa và đo thị hóa là quá trình tất yếu trong phát triển nhưng
thường đi kèm với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi (hoặc mua lại)
đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ và công trình công cộng. Thực tế này khiến
cho người lao động mà sinh kế của hộ gắn liền với đất không kịp chuyển đổi sang
sinh kế khác hoặc phải di cư ra thành thị hoặc những vùng ven đô để tìm kiếm việc
làm hoặc tuy chuyển đổi sinh kế tại chỗ nhưng vùng ven đô để tìm kiếm việc làm
hoặc tuy chuyển đổi sinh kế tại chỗ nhưng cũng đều là với mức thu nhập ổn định,
chắc chắn và nhiều rủi ro về kinh tế (thu nhập bếp bênh, không ổn đinh,...) và xã hội
(sức khỏe, tệ nạn xã hội,...).
Môi trường bị suy thoái, ô nhiễm và thiên tai cũng là một nguyên nhân của
đói nghèo
Ở quốc gia nông nghiệp, một số bộ phận lớn dân cư sống dựa vào sản xuất
nông nghiệp và môi trường tự nhiên (đất đai, nguồn nước, rừng,...) là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp tới năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi và do đó ảnh hưởng tới
thu nhập. Môi trường suy thoái, ô nhiễm làm giảm năng suất, sản lượng cây trồng,
vật nuôi và do vậy làm giảm thu nhập, thậm chí nếu mức độ suy thoái, ô nhiễm môi
trường vượt quá ngưỡng sinh thái tự nhiên thì còn không có năng suất, sản lượng
cây trồng, vật nuôi cùng thu thập. Hệ quả tất yếu là nghèo đói. Thiên tai (báo, lũ,
mưa đá, giá rét, hạn hán,...) cũng là nguyên nhân gây nên hoặc làm trầm trọng thêm
tình trạng nghèo đói bởi tác động ảnh hưởng làm mất, giảm năng suất, sản lượng,
thậm chí phá hủy hoàn toàn thành quả sản xuất chưa kịp thu hoạch hay tài sản gom
góp, tích lũy được. Diễn biến ngày càng rõ nét và nhiều biến đổi khí hậu tác động
ngày càng nhiều, càng lớn và trên diện rộng càng trầm trọng thêm các diễn biến
phức tạp về thiên tai, sự cố môi trường (sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, sa mạc hóa,...).
Sự hạn chế về nguồn lực, nhất là vốn tài chính, hỗ trợ người nghèo
Trong quá trình phát triển kinh tế, vốn đầu tư tăng nhanh, hiệu quả đầu tư lớn
thì nguồn lực cho giải quyết các vấn đề xã hội tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng và
14
phát triển thì thu nhập bình quân đầu người tăng lên, chất lượng cuộc sống được cải
thiện nhiều mặt. Từ đó, Nhà nước cần xác định lại chuẩn nghèo được nâng lên, tỷ lệ
hộ nghèo cũng tăng lên và chính sách giảm nghèo phải được mở rộng. Do đó, việc
cân đối, huy động nguồn lực để đáp ứng yêu cầu cũng trở nên khó khăn hơn. Chuẩn
nghèo được nâng lên thì nhiều hộ vừa thoát nghèo có khả năng tái nghèo, có thể rơi
vào tình trạng nghèo theo chuẩn mới. Như vậy, diện hộ nghèo theo chuẩn mới tăng
lên, người nghèo tăng lên đòi hỏi nguồn lực để giải quyết đói nghèo tăng lên trong
điều kiện nguồn vật chất, tài chính của Nhà nước và của xã hội còn hạn hẹp, chưa
ổn định.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Sự hạn chế, bất cập trong chính sách phát triển và năng lực tổ chức thực
hiện chính chính sách là một nguyên nhân quan trọng, có tác động ảnh hưởng trực
tiếp đến đói nghèo.
Trong thực tế quản lý phát triển người ta lưu ý tới những hạn chế, bất cập,
thậm chí cả những sai lầm trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phát
triển (thí dụ bỏ qua, bỏ rơi, không/ít quan tâm chú ý đầu tư cho khu vực, địa bàn
hay nhóm người nào đó hay trong phân phối, phân phối lại các kết quả phát triển lại
bỏ qua hoặc không/ít quan tâm chú ý tới họ) trong thời gian dài dẫn đấn một số bộ
phận dân cư, địa bàn, khu vực bị tụt hậu, không theo kịp đà phát triển chung và rời
vào tình trạng đói nghèo. Thêm vào đó, tệ nạn tham nhũng trọng thực hiện chính
sách, nhất là liên quan tới vật chất, tiền bạc, càng làm trầm trọng và phức tạp thêm
cuộc chống đói nghèo.
Sự hạn chế về năng lực của bản thân người nghèo, hộ nghèo cũng là nguyên
nhân quan trọng khác của nghèo đói và giảm nghèo.
Như đã biết, tình trạng nghèo đói và việc giảm nghèo phụ thuộc trước hết
vào bản thân mỗi người. Những người nghèo thường là những người không hay ít
có khả năng lao động (già yếu, bệnh tật, thương tật, neo người,...), năng lực lao
động (trình độ học vấn, tay nghề, khả năng giao tiếp, áp dụng kỹ thuật tốt,...). Khả
năng và năng lực thấp, yếu làm cho thu nhập trở nên thấp, không/ít khả năng tích
lũy để đối phó với các sự cố trong cuộc sống (bênh tật, thiên tai,...).
15
Ngoài ra, tâm lý thụ động, an phận, trông chờ của bản thân người nghèo và
của cả chính quyền sở tại cũng coi là nguyên nhân của tình trạng nghèo đói và giảm
nghèo. Ở Việt Nam còn tồn tại thực tế có nơi thậm chí người nghèo còn muốn
chứng tỏ, chứng minh tình trạng mình để được ở lại nhóm hộ nghèo càng lâu càng
tốt để hưởng chính sách trợ cấp, ưu đãi của Nhà nước đối với đối tượng nghèo.
1.4. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
Chủ thể tham gia vào thực hiện chính sách giảm nghèo, có ba chủ thể:
môt là cơ quan nhà nước; hai là người nghèo; ba là các tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội.
Ở nước ta chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo là một chương trình
mục tiêu quốc gia nên cơ quan nhà nước các cấp tham gia với tư cách tổ chức điều
hành.
Hình thức tổ chức: Ủy ban nhân dân các cấp quyết định thành lập Ban chỉ
đạo giảm nghèo các cấp, thành viên tham gia gồm các ngành chức năng của Nhà
nước như: Lao động – Thương binh và Xã hội, Tài Chính – Kế hoạch, Văn hóa –
Thông tin, Tài nguyên – Môi trường, Kinh tế hạ tầng, Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội; ngoài ra các thành phần trên Ban chỉ đạo
còn mời Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thành niên, Hội nông dân cùng cấp,...
tham gia giám sát, tuyên truyền vận động để thực hiện các chính sách giảm nghèo.
Người nghèo có thể tham gia thực hiện chính sách với vai trò là người cung
cấp thông tin xác định mức đói nghèo, đối tượng đói nghèo, thông tin và kết quả
chính sách, thông tin về tác động của công cụ chính sách,... Thông tin do người
nghèo cung cấp có ý nghĩa quan trọng hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách
xóa đói, giảm nghèo bởi đây là các thông tin gốc, phản ảnh trung thực tình hình
thực tế.
Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có thể tham gia chính sách giảm nghèo
với tư cách là nhà tài trợ hoặc tư cách phối hợp hành động. Đa số các doanh nghiệp
có điều kiện về tài chính, quỹ phúc lợi thường tham gia và các hoạt động tài trợ hơn
vì họ không có thời gian và không có khả năng tham gia trực tiếp vào các hoạt động
16
thực hiện chính sách,... Các tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội
(Hội phụ nữ, Đoàn thành niên, Hội nông dân,...) là các tổ chức chính trị xã hội, có
bộ máy tổ chức hoàn chỉnh, lãnh đạo thống nhất, đồng bộ từ trung ướng đến tận cơ
sở nên dễ dàng tiếp cận và hỗ trợ người nghèo, người nghèo đa số là các hội viên,
đoàn viên của các tổ chức đoàn thể cho nên công tác tuyên truyền vận động, tạo
điều kiện hỗ trợ các hội viên gặp nhiều thuận lợi. Tuy nhiên các ngành đoàn thể gặp
khó khăn về tài chính, thường phải vận đông, tài trợ của các tổ chức khác.
1.5. Chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam
1.5.1. Quan điểm, mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Việt Nam
Giảm nghèo luôn là một trọng tâm lãnh đạo và quản lý công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng (tháng 04/2006) đã xác định “Tiếp tục đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo”,
với quan điểm “Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói, giảm
nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ
giúp của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết
hợp chính sách của Nhà nước với trợ giúp trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội,
của những người khá giả cho người nghèo. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc
biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo, hộ nghèo, nhất là đất sản xuất; trợ
giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo; có chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, trên hết là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cácc hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn,
nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc xóa đói, giảm nghèo”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011)
tiếp tục quan điểm về giảm nghèo nhanh và bền vững, là “Thực hiện có hiệu quả
hơn chính sách giảm nghèo phù hợp từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và
phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và
các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số
17
hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và giải pháp pháp phù hợp
nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và
thành thị”.
Trong nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 – 2015), Đảng cũng đã đưa
ra quan điểm về bảo đảm an sinh xã hội, với nội dung: “Tập trung triển khai có hiệu
quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát
triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm
để xóa đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát
nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo”.
Trên quan điểm tại Đại hội XI của Đảng về giảm nghèo, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 và phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 – 2015.
Quan điểm về giảm nghèo bền vững của Đảng và Nhà nước ta là giúp cho
người nghèo được thoát nghèo, đảm bảo cuộc sống ổn định không có nguy cơ rơi
xuống hộ nghèo. Giảm bền vững theo hướng đa chiều là y tế, giáo dục, tiếp cận
thông tin, điều kiện sống, bảo hiểm và trợ giúp xã hội. Việc áp dụng các chỉ số
nghèo đa chiều sẽ phân chia cụ thể các đối tượng nghèo, các hộ nghèo theo vùng ,
theo dân tôc,...
Giảm nghèo là một chủ trương, mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước ta trong
phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ công bằng
văn minh”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Nghị quyết số
80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng giảm nghèo
bền vững từ năm 2011 đến năm 2020, đó là “Giảm nghèo bền vững là một trọng
tâm của chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng
bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là khu vực miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng
nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn giữa các vùng,
các dân tộc và các nhóm dân cư”.
18
Trong giai đoạn 2016 – 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII (tháng
1/2016) vẫn tiếp tục coi giảm nghèo nhanh và bền vững là một nội dung, nhiệm vụ
quan trọng trong lãnh đạo và quản lý đất nước, trong đó xác định “Tập trung làm tốt
công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền
vững, bảo đảm an sinh xã hội”.
1.5.2. Chuẩn nghèo và tiêu chí xác định nghèo ở Việt Nam
a) Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày
30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011 – 2015
Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (4,8 triệu/năm) trở xuống; ở thành thị có mức thu nhập bình quân
từ 500.000 đồng/người/tháng (6 triệu/năm) trở xuống. Như vậy so với mức thu nhập
để xác định chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006 – 2010 (200.000 đồng/người/tháng ở
nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng ở thành thị) thì mức thu nhập để xác định
chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015 được chỉnh lên gấp 2 lần.
Cũng theo Quyết định thì hộ cận nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình
quân từ 401.000 đồng/người/tháng đến 520.000 đồng/người/tháng; ở thành thị có
mức
thu
nhập
bình
quân
từ
501.000
đồng/người/tháng
đến
650.000
đồng/người/tháng.
b) Thời điểm hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1641/QĐTTg ngày 15/9/2015 phê duyệt Đề an tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận
đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020” và
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 về việc ban hành chuẩn nghèo
tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020
Theo đó, chuẩn nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 700.000
đồng/người/tháng trở xuống; ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 900.000
đồng/người/tháng trở xuống. Chuẩn cận nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình
quân từ 1.000.000 đồng/người/tháng; ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ
1.300.000 đồng/người/tháng. Tiêu chí về mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ cơ bản
gồm 5 lĩnh vực là y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; thông tin.
19