Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Sửa lỗi câu về mặt cấu tạo ngữ pháp cho HS L4 qua Phân môn LTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.79 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

AN THANH NGỮ

SỬA LỖI CÂU VỀ MẶT CẤU TẠO NGỮ PHÁP
CHO HỌC SINH LỚP 4 QUA PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học
TS. KHUẤT THỊ LAN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu khóa luận này, tôi gặp rất nhiều
khó khăn và bỡ ngỡ. Nhưng với sự giúp tận tình của TS.Khuất Thị Lan tôi
đã từng bước tiến hành và hoàn thành khóa luận này.Tôi xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô!
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô trong khoa
Giáo dục Tiểu học và các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
cùng các thầy cô, tập thể lớp 4A, 4B, 4C, 4D trường Tiểu học Minh Lương,
xã Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày


tháng 4

SINH VIÊN

An Thanh Ngữ

năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài: “Sửa lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp cho
học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu ” là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi không trùng với đề tài của một tác giả nào. Các số liệu của kết quả
hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2017
SINH VIÊN

An Thanh Ngữ


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
C–V

: Chủ - vị

SGK

: Sách giáo khoa

QHT


: Quan hệ từ

DT

: Danh từ

SL

: Số lượng

TL%

: Tỉ lệ phần trăm

CN

: Chủ ngữ

VN

: Vị ngữ

TN

: Trạng ngữ

TN1

: Trạng ngữ 1


TN2

: Trạng ngữ 2


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt có 7 phân môn như: Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập
đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện giúp học sinh hình thành và
phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết)
trong học tập và trong giao tiếp mọi lứa tuổi. Giáo viên dạy phân môn Luyện
từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh,
cung cấp cho học sinh nhữngkiến thức sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh
kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình
cảm của mình, đồng thời giúp cho học sinh có khả năng hiểu các câu nói của
người khác.
Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói,
đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em. Câu là đơn vị nhỏ nhất
thực hiện chức năng giao tiếp, trong giao tiếp việc việc sử dụng câu được coi
là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Do vậy, việc rèn luyện kỹ năng viết câu và
sử dụng câu cho học sinh là hết sức quan trọng nhưng học sinh phải viết đúng
cấu trúc ngữ pháp mới là điều quan trọng.
Trong dạy học tiểu học, ngữ pháp có vai trò quan trọng trong việc tổ
chức hoạt động tạo lập và lĩnh hội ngôn bản, hướng dẫn học sinh nghe, nói,
đọc, viết. Bên cạnh đó, ngữ pháp là một yếu tố quan trọng góp phần phát triển
năng lực trí tuệ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh tiểu học. Vai

trò của ngữ pháp trong hệ thống ngôn ngữ đã quy định tầm quan trọng của
dạy ngữ pháp ở tiểu học. Ngữ pháp trang bị cho học sinh một hệ thống khái
niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và quy luật hành chức của nó. Vì vậy,
ngay từ khi bắt đầu học tiểu học, học sinh đã làm quen với ngữ pháp. Ở tiểu
học, ngữ pháp được dạy trong tất cả các phân môn tiếng Việt, ở đâu có dạy
tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó có dạy ngữ pháp. Ngoài ra, ngữ pháp còn
được dạy trực tiếp, độc lập ở phân môn Luyện từ và câu.

6


Chương trình ngữ pháp ở tiểu học đã lấy câu làm trung tâm dạy học.
Học sinh tiểu học được cung cấp những kiến thức ngữ pháp cơ bản, cần thiết,
vừa sức với các em như: Khái niệm về câu, kiến thức về cấu tạo ngữ pháp của
câu, các thành phần câu, kỹ năng phân tích thành phần câu, kiến thức và kỹ
năng phân loại, viết các kiểu câu theo cấu tạo; Kiến thức về dấu câu, kỹ năng
dùng dấu câu... trên cơ sở ngữ pháp, học sinh nắm được các quy tắc chính tả,
dấu câu, liên kết câu, nắm chuẩn văn hoá lời nói.
Như vậy, dạy ngữ pháp ở tiểu học là giúp cho học sinh nhận diện, phân
loại các đơn vị ngữ pháp, nắm các quy tắc cấu tạo và sử dụng các đơn vị này
trong hoạt động giao tiếp của mình. Tuy nhiên hiện nay có nhiều nguyên
nhân, học sinh tiểu học nắm kiến thức ngữ pháp còn chưa chắc nên trong quá
trình nói, viết còn mắc nhiều lỗi về ngữ pháp như: Các lỗi về dùng từ, các lỗi
về câu, các lỗi về liên kết câu và các lỗi về phong cách... nếu không nói đúng,
viết đúng thì không thể nói hay viết hay. Do vậy, việc phát hiện và chữa các
lỗi về ngữ pháp cho học sinh là vô cùng cần thiết.
Vậy việc học sinh tiểu học mắc các lỗi về cấu tạo ngữ pháp là do đâu?
Do hạn chế của chương trình và sách giáo khoa, do trình độ của giáo viên hay
do những khó khăn đặc trưng khi dạy ngữ pháp? Đây là câu hỏi đặt ra khiến
các nhà chuyên môn cũng như các giáo viên trực tiếp đứng lớp luôn phải trăn

trở tìm câu trả lời.

7


Qua việc nghiên cứu, điều tra thực tế học ngữ pháp học sinh tiểu học
mà đối tượng là học sinh lớp 4, chúng tôi nhận thấy khả năng nắm bắt kiến
thức ngữ pháp cũng như trong thực hành luyện tập của học sinh còn thấp .Có
thể nói trong các bài của học sinh, các lỗi về cấu tạo ngữ pháp còn xuất hiện
rất nhiều và vô cùng đa dạng. Chính vì thế, chúng tôi chọn vấn đề: “Sửa lỗi
câu về mặt cấu tạo ngữ pháp cho học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và
câu”.Chúng tôi mong muốn thông qua việc nghiên cứu đề tài góp phần tìm ra
nguyên nhân và biện pháp khắc phục các lỗi câu sai về cấu tạo ngữ pháp cho
học sinh lớp 4 để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu
trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ngữ pháp tiếng Việt và các lỗi ngữ pháp đã được các nhà ngôn
ngữ học quan tâm từ rất sớm. Từ đầu thế kỷ XX đã có rất nhiều quan điểm về
nghiên cứu lỗi ngữ pháp ở các bình diện và khía cạnh khác nhau. Theo điều
tra ban đầu, hiện nay ở Việt Nam có các công trình nghiên cứu về lỗi ngữ
pháp của học sinh tiêu biểu như sau:
Nguyễn Xuân Khoa (1975), “Lỗi ngữ pháp của học sinh - nguyên nhân
và cách chữa”, Ngôn ngữ số 1 – 1975 đã đưa ra các lỗi ngữ pháp cơ bản của
học sinh và cách chữa.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết chủ biên và Nguyễn Văn Hiệp trong
cuốn “Tiếng Việt thực hành” NXB ĐH Quốc gia Hà Nội đã đưa ra một số lỗi
câu sai và chữa lại cho phù hợp với văn bản và phong cách giao tiếp. Các lỗi
đưa ra rất cơ bản chưa cụ thể và vấn đề này xem xét trên diện rộng chưa thật
phù hợp với bậc Tiểu học.


8


Tác giả Lê Phương Nga - Đặng Kim Nga trong cuốn “Phương pháp
dạy học tiếng Việt ở Tiểu học” cũng đề cập đến việc dạy cho học sinh biết
cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu phù hợp với hoàn cảnh mục
đích giao tiếp nhưng chưa đề cập đến lỗi đặt câu và cách khắc phục.
Tác giả Lê Phương Nga trong cuốn “Dạy học Ngữ pháp ở Tiểu học”
NXB Giáo dục (năm 1988) đã nêu ra các loại lỗi câu mà học sinh Tiểu học
thường mắc phải và đưa ra cách chữa. Có thể nói tác giả đã viết rất chi tiết và
đầy đủ về lỗi câu mà học sinh mắc phải. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào
một phân môn cụ thể ở Tiểu học.
Trong cuốn “Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục” năm 2002 NXB Khoa
học xã hội do tác giả Cao Xuân Hạo (Chủ biên) đã viết rất rõ các lỗi về câu và
cách khắc phục. Tuy nhiên, tác giả chỉ khảo sát các lỗi câu trên phương tiện
truyền thông ở thành phố Hồ Chí Minh chưa thật phù hợp với bậc Tiểu học.
Vấn đề về lỗi câu ở Tiểu học cũng được đưa ra trong các bài tập nghiên
cứu khoa học và khóa luận tốt nghiệp.
Trong khóa luận “Tìm hiểu kỹ năng viết câu của học sinh lớp 4” của
Đặng Thị Thu Hà đã nêu ra các loại lỗi câu mà học sinh mắc phải và cách
chữa. Các loại lỗi này tập trung nghiên cứu trong phạm vi lớp 4.
Trong khóa luận “Khảo sát lỗi câu của học sinh Tiểu học” của Nguyễn
Thị Kim Huệ đã khảo sát, phân loại các lỗi câu và cách chữa. Tuy nhiên
những lỗi này còn chung chung chưa ở một phân môn cụ thể.
Trong khóa luận “Các biện pháp sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong bài
Tập làm văn của học sinh lớp 4,5” của Đào Thị Thanh đã đưa ra các loại lỗi
câu rất cụ thể nhưng chỉ ở phân môn tập làm văn.

9



Như vậy, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu chỉ riêng lỗi về cấu
tạo ngữ pháp của học sinh tiểu học. Đây cũng chính là một trong những lí do
cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài“Sửa lỗi câu về mặt cấu tạo ngữ pháp cho
học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu”. Trên cở sở tìm và phân loại
được các lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp, nguyên nhân và biện pháp khắc phục
cho học sinh cho học sinh lớp 4, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
phân môn Luyện từ và câu trong môn tiếng Việt ở Tiểu học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài “Sửa lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp cho học sinh lớp 4 qua phân
môn Luyện từ và câu”, chúng tôi tập trung nghiên cứu đối tượng học sinh lớp
4, bởi ở giai đoạn này học sinh mới được trang bị những kiến thức ngữ pháp
cơ bản. Do vậy, chúng tôi mới có cơ sở để tìm hiểu, đánh giá lỗi về cấu tạo
ngữ pháp của học sinh khối lớp 4.
Công việc điều tra sẽ được tiến hành tại trường Tiểu học Minh Lương
xã Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai đây là một trường miền núi
đặc biệt khó khăn của huyện Văn Bàn. Việc điều tra như thế này sẽ cho kết
quả toàn diện hơn về tình hình học tập của học sinh khi học phân môn Luyện
từ và câu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu “Sửa lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp của học sinh lớp 4 qua
phân môn Luyện từ và câu” là một vấn đề tương đối phức tạp. Với khuôn khổ
của một khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các loại lỗi
về cấu tạo ngữ pháp (không đề cập tới các loại lỗi về nghĩa, lỗi dấu câu).
Việc khảo sát tình hình mắc lỗi về cấu tạo ngữ pháp của học sinh được
chỉ được tiến hành ở trường Tiểu học Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào
Cai , không tiến hành ở các trường,huyện, tỉnh khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


10


4.1. Mục đích
Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hai mục đích sau:
- Phát hiện các loại lỗi về cấu tạo ngữ pháp của học sinh tiểu học đặc
biệt là học sinh lớp 4.
- Đề xuất các biện pháp khắc phục các lỗi về cấu tạo ngữ pháp cho
học sinh.
Trên cơ sở đó, chúng tôi hy vọng góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Trình bày khái quát những vấn đề lí luận liên quan đến cấu tạo ngữ
pháp tiếng Việt được dạy ở tiểu học, đặc biệt là những phần kiến thức ngữ
pháp học sinh hay mắc lỗi.
- Hệ thống lại những kiến thức ngữ pháp được dạy và học ở tiểu học
trong chương trình, SGK tiếng Việt lớp 4.
- Khảo sát tình hình thực tế việc nắm kiến thức ngữ pháp của học sinh
thuộc trường tiểu học Minh Lương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai để làm cơ
sở cho việc nghiên cứu.
- Phát hiện và hệ thống hoá các lỗi về cấu tạo ngữ pháp mà học sinh lớp
4 thường hay mắc hiện nay.
- Đề xuất những biện pháp khắc phục lỗi về cấu tạo ngữ pháp cho học
sinh lớp 4 nói riêng nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ngữ pháp ở tiểu học nói
chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề của đề tài một cách có cơ sở, chúng tôi đã vận
dụng các phương pháp sau:

5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tổng hợp lí luận
11


Nghiên cứu tài liệu, giáo trình, công trình nghiên cứu, sách báo về ngữ
pháp tiếng Việt và phương pháp dạy học tiếng Việt, chương trình, SGK tiếng
Việt lớp 4, sách giáo viên tiếng Việt lớp 4 , lí luận dạy học tiểu học...
5.2. Phương pháp phân tích
Từ những tài liệu đã thu thập được, chúng tôi vận dụng phương pháp
phân tích nhằm làm rõ các lỗi về cấu tạo ngữ pháp của học sinh lớp 4 để đề ra
những biện pháp khắc phục hợp lí.
5.3. Phương pháp khảo sát, thống kê
- Khảo sát việc nắm kiến thức ngữ pháp cũng như kỹ năng thực hành
ngữ pháp học sinh.
- Thống kê, phân loại, nhận xét kết quả, trên cơ sở đó xây dựng các
biện pháp nhằm khắc phục lỗi về cấu ngữ pháp của học sinh.
- Tiếp xúc trao đổi với những giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy để
tìm hiểu các biện pháp, giải pháp mà họ đã sử dụng trong quá trình dạy học
nhằm giúp học sinh khắc phục lỗi về cấu tạo ngữ pháp.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của khóa luận bao
gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Thực trạng sửa lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp cho học sinh lớp
4 qua phân môn Luyện từ và câu
Chương 3: Biện pháp khắc phục sửa lỗi câu về cấu tạo ngữ pháp cho
học sinh lớp 4 qua phân môn Luyện từ và câu.

12



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái quát về câu tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm câu tiếng Việt
Có rất nhiều quan điểm về câu trong tiếng Việt. Sau đây là một vài
định nghĩa câu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ:
Từ thế kỷ III trước công nguyên, học phái ngữ pháp Alêcxangđria đã
nêu định nghĩa:“Câu là sự tổng hợp của các từ, biểu thị một tư tưởng tương
đối trọn vẹn” [ 9, 9].
Tác giả Nguyễn Thị Hiền Lương cũng đưa ra định nghĩa về câu:
“Câu là một đơn vị ngôn ngữ không có sẵn, dùng để biểu thị sự tình, được
tạo nên từ các đơn vị nhỏ hơn theo những quy tắc ngữ pháp nhất định, có
dấu hiệu hình thức riêng, được sử dụng trong giao tiếp nhằm thực hiện một
hành động nói” [ 9, 16].
Tác giả Hoàng Trọng Phiến cũng đưa ra định nghĩa về câu: “Câu là
đơn vị ngữ pháp có cấu tạo ngữ pháp (bên trong, bên ngoài) tự lập và có ngữ
điệu kết thúc, mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm theo thái độ của
người nói giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm với tư
cách là đơn vị thông báo ngôn ngữ nhỏ nhất” [8].
Tác giả Diệp Quang Ban đưa ra định nghĩa về câu như sau: “Câu là
đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ có câu tạo ngữ pháp ( bên trong và bên
ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay
thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt
tư tưởng tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn
ngữ” [5, 107].

13



Trong khóa luận này chúng tôi thống nhất chọn định nghĩa về câu của
Diệp Quang Ban rất cụ thể, ngắn gọn nhưng mang tính khái quát cao: “Câu là
đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp ( bên trong và bên
ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay
thái độ, sự đánh giá của người nó, hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh giá
của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm.
Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ” [ 5, 107].
1.1.2. Các thành phần câu tiếng Việt
Câu của Tiếng Việt có thể chia ra các thành phần như sau: Thành phần
chính (hay còn gọi là thành phần nòng cốt của câu) và thành phần phụ của câu.
1.1.2.1. Thành phần chính
a. Chủ ngữ
a1. Khái niệm
Chủ ngữ là thành phần chính, thành phần quan trọng trong câu nên từ
năm 1960 trở lại đây, chủ ngữ được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên
cứu. Theo Diệp Quang Ban (2000): “Chủ ngữ là thành phần câu có quan hệ
qua lại và qui định lẫn nhau với thành phần vị ngữ, chủ ngữ nêu ra vật, hiện
tượng nằm trong mối quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với đặc trưng (động, tĩnh,
tính chất) và quan hệ sẽ được nói đến trong vị ngữ” [5, 39- 40].
Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004) khẳng định:“Chủ ngữ
là bộ phận của nòng cốt câu biểu thị chủ thể ngữ pháp của vị ngữ, tạo ra
cùng vị ngữ một kết cấu có khả năng nguyên nhân hoá” [38, 153].
a2. Những đặc trưng cơ bản của chủ ngữ
- Vai trò, quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp của chủ ngữ trong câu.

14


Hiện nay, mọi người đều thừa nhận chủ ngữ là một trong hai thành
phần chính của câu, song hành cùng vị ngữ tạo nên ṇng cốt câu. Chủ ngữ là

thành phần nêu lên chủ thể như người, vật, sự vật, sự việc,... có đặc trưng
được miêu tả hoặc nhận xét ở vị ngữ [13, 131], [28, 24]. Các tác giả Nguyễn
Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2001) đã trình bày khá đầy đủ và hoàn
chỉnh về vai trò, quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp của chủ ngữ.
- Vị trí của chủ ngữ trong câu.
Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ theo trật tự C-V (“vị trí thuận của
chủ ngữ” [32, 187]). Tuy nhiên, chủ ngữ có khả năng đứng sau vị ngữ (“vị trí
nghịch của chủ ngữ” [32, 187]) trong một số trường hợp nhất định và gắn với
những điều kịên nhất định. Đó là những trường hợp người nói muốn nhấn
mạnh vị ngữ để người nghe chú ý [22, 26]; là khi câu mang rõ màu sắc biểu
cảm [19, 60]; chủ ngữ trong các câu có hệ từ là chuyển theo qui tắc riêng: chỉ ở
những câu đồng nhất tuyệt đối, chủ ngữ mới có thể chuyển ra sau vị ngữ, còn
trong các câu không có hệ từ, bất cứ một chủ ngữ thể từ nào cũng có thể chuyển
ra sau vị ngữ nhờ có chỉ tố phân đoạn thực từ thực tại “là” [19, 187-188].
- Cấu tạo của chủ ngữ.
+ Về mặt từ loại: Chủ ngữ thường được biểu hiện bằng danh từ và đại
từ nhân xưng. Ngoài ra, động từ, tính từ, số từ cũng có thể làm chủ ngữ .
+ Về cấu tạo: Chủ ngữ thường được cấu tạo từ một từ, một cụm từ
chính phụ, một cụm từ đẳng lập hoặc một cụm chủ vị. Ngoài ra, nó còn có
một số kiểu cấu trúc khác.
Ví dụ: Trước mặt là một con đường.
Trong ví dụ trên, chủ ngữ được cấu tạo từ QHT + DT. Đây là một giới ngữ.
Tóm lại, sau khi tổng kết các quan điểm của các nhà ngữ pháp học,
theo chúng tôi, chủ ngữ có thể được hiểu như sau:

15


- Về khái niệm: Chủ ngữ là thành phần chính của câu thể hiện đối tượng
được thông báo trong câu, cùng với vị ngữ tạo thành nòng cốt câu.

- Về vị trí: Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ theo trật tự C - V nhưng
khi cần nhấn mạnh nội dung thông báo hay biểu thị tình cảm, cảm xúc,...
người ta có thể đặt vị ngữ trước chủ ngữ.
- Về cách xác định chủ ngữ: Chủ ngữ có thể được xác định bằng cách
xác định nòng cốt câu, xác định thành phần chính của câu( sử dụng phép lược
câu, tìm thành phần cấu tạo tối thiểu của câu), cuối cùng tìm những từ, ngữ
nêu đối tượng thông báo của câu.
- Về cấu tạo của chủ ngữ: Chủ ngữ có thể được làm từ một từ, một cụm
từ (cụm từ chính phụ, cụm từ đẳng lập, cụm từ cố định), một cụm C - V hay
một giới ngữ.
b. Vị ngữ
b1. Khái niệm
Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004) khẳng định vị ngữ là
thành phần chính thứ hai của câu, cùng với chủ ngữ tạo thành nòng cốt câu.
Vị ngữ là phần tường thuật về chủ ngữ [28, 154].
Vị ngữ là bộ phận chỉ tình trạng hoặc hành động của chủ thể; vị ngữ là
thành phần câu có quan hệ qua lại và qui định lẫn nhau với chủ ngữ, vị ngữ
nêu nên đặc trưng hoặc quan hệ (động, tĩnh) vốn có của vật nói ở chủ ngữ
hoặc có thể áp đặt chúng một cách có lý do cho vật đó; vị ngữ biểu thị thuộc
tính P (có thể là hành động, quá trình, trạng thái, đặc điểm, tính chất hoặc
quan hệ) của đối tượng nhận thức. [31, 69].
Vị ngữ là bộ phận nòng cốt của câu có thể chen thêm phó từ chỉ thời thể vào phía trước, và trong trường hợp bộ phận này gồm hơn một từ thì vị
ngữ là từ chính của bộ phận ấy. [32, 188] ...
b2. Những đặc trưng cơ bản của vị ngữ
- Vai trò, quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp của vị ngữ trong câu.
16


Vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, cùng với chủ ngữ tạo
nên nòng cốt câu. Vị ngữ là thành phần câu có mối quan hệ qua lại và qui

định lẫn nhau với thành phần chủ ngữ; nó thường báo rõ hành động, trạng
thái, tính chất của đối tượng được đề cập tới trong chủ ngữ. Vị ngữ thường trả
lời câu hỏi Làm gì? Thế nào? Là gì? [22, 27], [24, 150].
Vị ngữ có tác dụng đến toàn câu [23, 115]; vị ngữ biểu thị tính vị thể,
miêu tả đặc trưng của sự vật được nói đến ở chủ ngữ [12, 148].
Về mặt ngữ pháp, vị ngữ là thành phần chịu sự chi phối của chủ ngữ;
về mặt thông báo, vị ngữ là thành phần thông báo về chủ ngữ, tính thông báo
thể hiện chủ yếu ở vị ngữ; trong tương quan với chủ ngữ, vị ngữ thường là
“cái mới” - cái chưa biết - do đó phần này ít khi bị rút gọn. [28, 185].
Vị ngữ có quan hệ chặt chẽ, trực tiếp và phù hợp với chủ ngữ, kết hợp
với chủ ngữ để tạo thành cấu trúc ngữ pháp cơ bản biểu thị nội dung mệnh đề
[30, 69]; vị ngữ là thành phần dùng một thứ từ ngữ khác để thuật thuyết cái
“thế nào” của chủ ngữ [17, 178].
Vị ngữ là bộ phận quan trọng nhất trong câu song phần, nó là trung tâm
tổ chức của câu, không thể lược bỏ khi câu tách khỏi ngữ cảnh [29, 181], [23,
115], [31, 69]. Vị ngữ đóng vai trò chủ yếu và là hạt nhân của câu [32, 190].
- Vị trí của vị ngữ trong câu.
Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ theo trật tự C - V. Tuy nhiên, vị ngữ
cũng có thể đứng trước chủ ngữ (trường hợp ngoại lệ) thuộc mặt dụng pháp
[38,185]. Việc đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ sẽ tạo nên một trật tự không bình
thường nhằm đạt hiệu quả tu từ, biểu cảm [31, 70].
- Cấu tạo của vị ngữ
Về mặt từ loại: Phần lớn các nhà nghiên cứu ngữ pháp cho rằng động
từ, tính từ (vị từ) thường làm vị ngữ, ngoài ra danh từ, đại từ, số từ cũng có
thể làm vị ngữ.

17


Về mặt cấu trúc: Vị ngữ có thể được tạo nên bởi một từ, một cụm từ,

một cụm từ chính phụ, một cụm từ đẳng lập, một giới ngữ, một kết cấu C-V
và những đơn vị đặc biệt như :
+ Từ “đang” + danh từ chỉ thời gian. Ví dụ: “Nó đang tuổi ăn tuổi ngủ”.
+ Các từ sao, vậy, thế nào. Ví dụ: “Anh sao thế ?” [22, 30].
+ Là sự lặp lại một tổ hợp từ về mặt ý nghĩa vốn là trọng tâm của nội
dung thông báo ở câu trước.
Ví dụ:
-“Vài bữa nữa bố đưa con đi thăm bà nội”.
-“Con không vài bữa nữa”.
+ Là một tổ hợp quan hệ từ + danh từ, ví dụ: “Mẹ tôi ngoài vườn”
[12,150].
Về mặt nối kết với chủ ngữ: Vị ngữ có thể kết hợp trực tiếp với chủ ngữ
(không cần đến hệ từ là), có thể kết hợp gián tiếp với chủ ngữ (nhờ hệ từ là).
Tóm lại theo chúng tôi, vị ngữ có thể được hiểu như sau:
- Về khái niệm: Vị ngữ là thành phần chính của câu thể hiện nội dung
thông báo ( hoạt động, trạng thái, tính chất, đặc điểm, quan hệ, nhận xét,...)
của đối tượng được nêu ở chủ ngữ, cùng với chủ ngữ tạo nên nòng cốt câu.
- Về vị trí: Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ theo trật tự C-V, nhưng vị
ngữ cũng có thể đứng trước chủ ngữ nhằm nhấn mạnh nội dung thông báo
hoặc mang màu sắc tu từ.
- Về cách xác định vị ngữ: Muốn tìm vị ngữ của một câu, phải thực
hiện các bước phân tích cấu trúc câu: Xác định nòng cốt câu (tối giản), xác
định chủ ngữ, phần còn lại là vị ngữ của câu (phần nêu lên thông báo về đối
tượng được nói đến ở chủ ngữ).

18


- Về cấu tạo của vị ngữ: Vị ngữ có thể được làm từ một từ (động từ,
tính từ, danh từ, đại từ, số từ), một cụm từ chính phụ, cụm từ đẳng lập, cụm từ

cố định, cụm C-V, hoặc một giới ngữ.
1.1.2.2. Thành phần phụ
a. Trạng ngữ
a1. Khái niệm
Các công trình nghiên cứu Việt ngữ đã dùng nhiều thuật ngữ đã dùng
nhiều thuật ngữ để gọi tên trạng ngữ. Nhưng có thể nói trạng ngữ là thành
phần câu duy nhất có sự thống nhất ý kiến cao của các nhà nghiên cứu.
Trạng ngữ là thành phần phụ của câu có tác dụng bổ sung ý nghĩa tình
huống (như thời gian, nơi chốn, phương tiện, mục đích, cách thức, nguyên
nhân,….) cho nòng cốt câu [13,51], [20,193], [17,134]...
a2. Những đặc trưng cơ bản của trạng ngữ
- Vai trò, quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp của trạng ngữ trong câu.
Xét về mặt kết cấu ngữ pháp của câu, trạng ngữ là thành phần phụ của
câu, có thể bỏ đi mà câu không sai ngữ pháp [9, 33], [5, 115],…
Xét về mặt ý nghĩa trạng ngữ có tầm quan trọng đặc biệt đối với nòng
cốt câu, là thành phần bổ sung ý nghĩa cho câu. Trạng ngữ có khi là phần
người nghe mong đợi [9, 33]. Nội dung thông báo của câu chủ yếu ở thành
phần trạng ngữ [20, 193]. Trạng ngữ xác định hoàn cảnh, điều kiện diễn ra sự
việc nêu trong câu, góp phần làm nội dung được đầy đủ chính xác, trạng ngữ
nối kết các câu, các đoạn với nhau, góp phần làm cho đoạn văn, bài văn mạch
lạc [13,12,46]. Trạng ngữ làm cho nội dung phản ánh hiện thực khách quan
được cụ thể hơn, đầy đủ hơn [16, 78]. Trạng ngữ bổ sung cho những thông tin
về tình huống, tức nó thuộc vai chủ tố của sự tình được biểu thị trong câu.
Trạng ngữ cũng có thể đảm nhận chức năng liên kết văn bản nhờ vào đặc
điểm nào đó trong nội dung ngữ nghĩa mà nó biểu thị [17, 348 -349].

19


- Vị trí của trạng ngữ trong câu.

Trạng ngữ của Tiếng Việt có thể đứng ở ba vị trí khác nhau trong cấu
trúc câu là đứng đầu câu (trước nòng cốt chủ - vị), đứng xen giữa chủ ngữ, vị
ngữ hoặc cuối câu (sau nòng cốt chủ - vị). Nhưng đặc điểm ngữ pháp
củatrạng ngữ thường đặt trước phần nòng cốt câu [13, 50]. Đồng quan điểm
trên có rất nhiều người [16, 79], [4, 168].
Vị trí thường gặp của trạng ngữ thường đứng ở đầu câu. Khi trạng ngữ
chuyển vị trí đứng sau nòng cốt câu hoặc xen giữa chủ ngữ và vị ngữ phải có
điều kiện. Theo Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), sự thay đổi
của trạng ngữ trong câu có liên quan đến vai trò của nó trong cấu trúc phân
đoạn thực tại của câu. Khi nó đứng sau nòng cốt hoặc chen vào giữa chủ ngữ,
vị ngữ, trạng ngữ có khả năng tham gia vào phần thuật đề [17,345]. Diệp
Quang Ban (2005) cho rằng trạng ngữ, khi ở cuối nòng cốt hoặc xen giữa chủ
ngữ, vị ngữ, phải được nhấn mạnh tách rời bằng điệu khi nói, dấu phẩy khi
viết và có thể kèm theo một kết từ thích hợp [4, 168].
- Cấu tạo của trạng ngữ.
Về từ loại: Hoàng Trọng Phiến (1980) xác định trạng ngữ thường được
biểu hiện bằng danh từ, tổ hợp danh từ với các từ có ý nghĩa không gian, thời
gian, tổ hợp danh từ với các giới từ, tính từ có ý nghĩa không gian; kết cấu
động từ - bổ ngữ [10, 126].
Nhóm Bùi Tất Tươm (1995) nhận định: Tất cả các kết cấu ngữ pháp có
khả năng làm vị ngữ đều đều có thể đảm nhiệm thành phần này. Ngoài ra, một
số phụ từ tình thái và các kết cấu ngữ pháp có quan hệ mở đầu cũng có thể
làm trạng ngữ [19,186].
Nhóm Lê Cận (1983) quan niệm trạng ngữ thường do danh từ (cụm
danh từ), động từ (cụm tính từ), tính từ (cụm tính từ) có quan hệ từ hoặc
không có quan hệ từ đảm nhiệm [5,155].

20



Nhóm Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004) dựa vào dấu
hiệu cấu tạo: Trạng ngữ có giới từ đứng trước (trạng ngữ được đánh dấu) hoặc
trạng ngữ không có giới từ đứng trước (trạng ngữ không được đánh dấu).
Về cấu trúc ngữ pháp: Trạng ngữ có thể được làm từ một từ, một cụm
từ, một giới ngữ, một kết cấu chủ - vị.
Tóm lại, theo chúng tôi, trạng ngữ có thể được hiểu như sau:
- Về khái niệm: Trạng ngữ là thành phần có tác dụng bổ sung ý nghĩa
cho tình huống nòng cốt câu. Ý nghĩa tình huống có thể là thời gian nơi chốn,
mục đích, phương tiện, nguyên nhân, trạng thái,…
- Về vị trí: Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, ở giữa câu, ở cuối câu
nhưng vị trí phổ biến của trạng ngữ là đứng ở đầu câu.
- Về cách xác định trạng ngữ: Trạng ngữ có thể xác định bằng cách xác
định thành phần chính của câu (nòng cốt câu) sau đó xác định thành phần phụ
của câu và dựa vào dấu phẩy tách nó với nòng cốt câu kết hợp với ý nghĩa chỉ
thời gian, nơi chốn, mục đích,… của trạng ngữ để phân biệt nó với đề ngữ.
- Về cấu tạo của trạng ngữ: Trạng ngữ có thể được làm từ một từ, một
cụm từ, một giới ngữ.
+ Trạng ngữ có thể được tạo từ một từ:
Lễ phép, mẹ con chị Dậu cúi đầu chào.
+ Trạng ngữ có thể được tạo từ một cụm từ:
Một ngày cuối thu, tôi và Trũi lên đường.
+ Trạng ngữ có thể được tạo từ một giới ngữ:
Đối với mẹ tôi, tôi vẫn có lý và đáng yêu.
Ở ngoại thành, nông dân trồng nhiều loại rau.
b. Đề ngữ
Theo chúng tôi, đề ngữ (khởi ngữ) được hiểu như sau:

21



- Về khái niệm: Đề ngữ là thành phần câu biểu thị chủ đề của câu biểu
thị chủ đề của câu biểu thị, có quan hệ chính phụ với toàn bộ nòng cốt câu và
có vị trí đặc thù là đứng đầu câu.
- Về cách xác định đề ngữ: Đề ngữ có thể được xác định bằng cách thử:
thêm vào nó các quan hệ từ như: về, đối với, với; thêm vào sau nó các từ mà,
thì, là.
- Về cấu tạo của đề ngữ: Đề ngữ có thể được cấu tạo từ một từ, một
cụm từ (chính phụ, đẳng lập), một cụm C -V hay một cụm giới ngữ.
Ví dụ:
+ Đề ngữ được cấu tạo từ một từ:
Hoa, tôi để trên bàn.
+ Đề ngữ được cấu tạo từ một cụm từ chính phụ:
Tấm áo ấy,bấy lâu nay, con thường mặc.
+ Đề ngữ được cấu tạo từ một cụm C - V:
Anh ấy hư hỏng như thế nào, tôi đã từng được nghe nói.
+ Đề ngữ được cấu tạo từ một giới ngữ:
Với tôi, tất cả như vô nghĩa.
- Về mặt nghĩa: Vai nghĩa của đề ngữ có thể trùng với bổ ngữ, trạng
ngữ, chủ ngữ, vị ngữ trong câu. Ví dụ:
+ Vai nghĩa của đề ngữ trùng với chủ ngữ:
Tôi thì tôi xin chịu.
+ Vai nghĩa của đề ngữ trùng với vị ngữ: Ăn thì tôi không ăn.
c. Phụ ngữ câu.
Phụ ngữ của câu là một bộ phận được dùng để nêu các ý nghĩa về quan
hệ có liên quan với nội dung còn lại.
Phụ ngữ của câu nhìn chung không có vị trí xác định trong câu. Có thể
chia thành 3 loại chính:

22



- Phụ ngữ câu chỉ có quan hệ khách quan với câu nói. Nó có thể là sự
khẳng định hay phủ định.
- Phụ ngữ câu chỉ quan hệ tình thái.
- Phụ ngữ câu chỉ quan hệ người nói với người nghe có thể nêu lời gọi
đáp, đưa đẩy.
d. Giải ngữ câu
Giải ngữ của câu là bộ phận để làm sáng tỏ thêm một phương diện nào
đó liên quan gián tiếp đến câu làm cho người ta hiểu câu nói rõ hơn, đúng hơn.
Thông thường nó có tác dụng bổ sung các chi thiết, bình phẩm việc nói trong
câu, làm rõ xuất xứ, làm rõ thái độ cách thức, thứ tự khi câu được diễn đạt.
Về cấu tạo giải ngữ có thể là một từ, một cụm từ, một câu, thậm chí
một chuỗi gồm nhiều câu.
e. Liên ngữ
Liên ngữ được dùng để nối ý của câu chứa nó với ý của câu đứng trước
hoặc đứng sau câu ấy, với ý cả cụm gồm nhiều câu đứng trước hoặc sau câu
ấy.
Liên ngữ đứng đầu câu, cũng có khi liên ngữ đứng sau chủ ngữ.
1.1.3. Phân loại câu tiếng Việt
Xét về mặt cấu tạo câu được chia thành câu đơn và câu phức.
1.1.3.1. Câu đơn
Câu đơn là một câu được cấu tạo từ một cụm chủ - vị duy nhất làm
thành nong cốt câu.
Ví dụ: Trời mưa.
Căn cứ vào ngữ pháp có thể chia câu đơn thành hai kiểu:
- Câu đơn hai thành phần.
- Câu đơn đặc biệt (hay câu đơn không xác định thành phần).
(1) Câu đơn hai thành phần.

23



Câu đơn hai thành phần là câu có một cụm chủ vị duy nhất làm thành
nòng cốt câu.
Câu đơn hai thành phần chiếm vị trí trung tâm và chủ yếu trong việc
miêu tả ngữ pháp về câu.
2) Câu đơn đặc biệt.
Câu đơn đặc biệt là kiểu câu có một trung tâm ngữ pháp chính , không
chứa hay không hàm ẩn một trung tâm cú pháp thứ hai có quan hệ với nó như
là quan hệ giũa chủ ngữ với vị ngữ. Ví dụ: Mưa! Tạnh!
Câu đơn đặc biệt chia ra hai loại lớn là câu đơn đặc biệt - danh từ và
câu đơn đậc biệt - vị từ.
a. Câu đơn đặc biệt - danh từ.
Câu đơn đặc biệt- danh từ là kiểu câu có trung tâm cú pháp chính là
danh từ hay cụm danh từ. Loại câu này nêu lên sự tồn tại hiển hiện của vật,
hiện tượng đang bày ra trước mắt hay xuất hiện tại thời điểm đó.
b. Câu đơn đặc biệt - vị từ.
Câu đơn đặc biệt - vị từ có trung tâm cú pháp chính là động từ, tính từ
hay cụm động từ, cụm tính từ.
Câu đơn đặc biệt - vị từ thường dùng với nghĩa khái quát.
1.3.1.2. Câu phức.
Câu phức được chia ra: Câu phức thành phần và câu ghép.
(1) Câu phức thành phần.
Câu phức thành phần là câu gồm hai cụm chủ - vị trở lên, trong đó chỉ
có một cụm chủ - vị làm nòng cốt câu, những cụm chủ - vị còn lại đều bị bao
hàm bên trong nòng cốt câu.
(2) Câu ghép.
Câu ghép là câu gồm hai cụm chủ - vị trở lên, mỗi cụm chủ - vị có tư cách
một nòng cốt câu, tức là không cm chủ - vị nào bao hàm cụm chủ - vị nào.


24


Ví dụ: Nhờ thời tiết tốt nên mùa màng bội thu.
Câu ghép được chia thành hai loại lớn như sau:
- Loại có từ liên kết (từ chỉ quan hệ) gồm có kết từ và vị từ vói tác dụng
liên kết.
- Loại không có từ liên kết( câu ghép chuỗi).
a. Câu ghép có kết từ và phụ từ.
* Câu ghép có kết từ.
Đây là kiểu câu ghép mỗi vế có một cụm chủ - vị và có kết từ nối các
vế, được coi là kiểu tiêu biểu cho câu ghép.
Có thể chia thành hai loại: Câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ.
- Câu ghép đẳng lập.
Câu ghép đẳng lập là câu ghép có các kết từ đi kèm như: và, rồi, hãy,
còn, mà, các kết từ này thường đứng đầu vế sau.
Người ta chia câu ghép đẳng lập thanh các loại sau:
+ Câu ghép có quan hệ liệt kê.
+ Câu ghép có quan hệ nối tiếp.
+ Câu ghép có quan hệ lựa chọn.
+ Câu ghép có quan hệ đối chiếu.
- Câu ghép chính phụ.
Câu ghép chính phụ là câu ghép mà các kết từ thường làm thành cặp,
mỗi kết từ đứng trước một vế.
Người ta chia câu ghép thành các tiểu loại sau:
+ Câu ghép có quan hệ nguyên nhân - kết quả.
+ Câu ghép có quan hệ điều kiện (giả thiết) - hệ quả.
+ Câu ghép có quan hệ nhượng bộ - tăng tiến.
+ Câu ghép có quan hệ mục đích - sự kiện.
* Câu ghép có phụ từ liên kết.


25


×