Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 186 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

PHÙNG GIANG HẢI

LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN
TÔM THƯƠNG PHẨM Ở TỈNH CÀ MAU

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã so:

62 62 01 15

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Bảo Dương
2. TS. Nguyễn Thị Dương Nga

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa từng dùng bảo
vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận án đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày

tháng



năm 2015

Tác giả luận án

Phùng Giang Hải

i


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình và lời chỉ bảo chân tình của tập thể và cá nhân, các cơ quan trong và ngoài Học
viện Nông nghiệp Việt Nam.
Trước tiên, tôi xin được cảm ơn sâu sắc PGS.TS. Phạm Bảo Dương và TS.
Nguyễn Thị Dương Nga là những thầy, cô giáo đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi về
mọi mặt để hoàn thành luận án tiến sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Ban
Chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, tập thể giáo viên và cán bộ Khoa Kinh
tế và Phát triển nông thôn, các thầy, cô giáo thuộc Bộ môn Kinh tế Nông nghiệp và Chính
sách đã giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành quá trình học tập và thực hiện luận án.
Tôi trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và những đồng nghiệp thuộc Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Cà Mau đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu và những thông tin
cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp của tôi đã
phối hợp, cộng tác, cùng động viên, chia sẻ những khó khăn về tinh thần, vật chất với
tôi trong thời gian qua. Chính những điều đó đã tạo cho tôi niềm tin và sức mạnh vượt
qua mọi khó khăn hoàn thành tốt luận án tiến sĩ như hiện nay.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Phùng Giang Hải

ii

năm 2015


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt


vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình

viii

Danh mục hộp

ix

Trích yếu luận án

x

Thesis abstract

xii

Phần 1. Mở đầu

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài


1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

3

1.3

Phạm vi nghiên cứu

4

1.4

Những đóng góp mới của đề tài

4

1.5

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

5

Phần 2. Tổng quan tài liệu

6


2.1

Cơ sở lí luận về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm

6

2.1.1

Khái niệm, bản chất, hình thức và vai trò

6

2.1.2

Tính hiệu quả, hiệu lực và bền vững

21

2.2

Cơ sở thực tiễn về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm

24

2.2.1

Tổng quan các bài học kinh nghiệm về phát triển liên kết trong sản xuất

2.2.2


và chế biến tôm

24

Bài học rút ra

31

Tóm tắt phần 2

33

Phần 3. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

34

3.1

Địa điểm nghiên cứu

34

3.2

Thời gian nghiên cứu

36

3.3


Đối tượng nghiên cứu

37

iii


3.4

Nội dung nghiên cứu

37

3.4.1

Thực trạng liên kết ngang

37

3.4.2

Thực trạng liên kết dọc

37

3.4.3

Hiệu quả của liên kết

38


3.4.4

Yếu tố ảnh hưởng đến liên kết

38

3.5

Phương pháp nghiên cứu

45

3.5.1

Phương pháp tiếp cận

45

3.5.2

Phương pháp thu thập số liệu

47

3.5.3

Phương pháp phân tích thông tin, số liệu

49


3.5.4

Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu

53

Tóm tắt phần 3

58

Phần 4. Kết quả và thảo luận

59

4.1

Trình bày kết quả

59

4.1.1

Đặc điểm về liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm
ở Cà Mau

4.1.2

Quyền lợi và nghĩa vụ trong liên kết ngang trong sản xuất và chế biến
tôm thương phẩm ở Cà Mau


4.1.3

68

Kết quả liên của kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở
Cà Mau

4.1.7

67

Quyền lợi và nghĩa vụ trong liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm
thương phẩm ở Cà Mau

4.1.6

64

Đặc điểm về liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở
Cà Mau

4.1.5

61

Hiệu quả của liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm
ở Cà Mau

4.1.4


59

69

Mức độ thực thi của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm
ở Cà Mau

70

4.1.8

Hiệu quả của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau

73

4.1.9

Ảnh hưởng của yếu tố cơ chế chính sách đến phát triển liên kết trong sản
xuất và chế biến tôm

4.1.10

Ảnh hưởng của yếu tố đầu tư công đến phát triển liên kết trong sản xuất
và chế biến tôm

iv

75
80



4.1.11

Ảnh hưởng của yếu tố dịch vụ công đến phát triển liên kết trong sản xuất
và chế biến tôm

4.1.12

Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết ngang giữa những người nuôi tôm ở
Cà Mau

4.1.13

86

Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết dọc giữa người nuôi tôm và doanh
nghiệp chế biến tôm ở Cà Mau

4.1.14

84

94

Giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương
phẩm ở tỉnh Cà Mau

104


4.2

Thảo luận

129

4.2.1

Các phát hiện chính của đề tài

129

4.2.2

So sánh với kết quả nghiên cứu đã công bố

130

4.2.3

Kết quả và ý nghĩa của đề tài

130

4.2.4

Hạn chế của đề tài

131


Tóm tắt phần 4

133

Phần 5. Kết luận và kiến nghị

134

5.1

Kết luận

134

5.2

Kiến nghị

136

Danh mục các công trình đã công bố liên quan đến luận án

137

Tài liệu tham khảo

138

Phụ lục


142

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

vi

Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

ADB

Ngân hàng Phát triển Châu Á

CASEP

Hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Cà Mau

CSHT

Cơ sở hạ tầng

GTSX

Giá trị sản xuất

KHCN


Khoa học công nghệ

HTX

Hợp tác xã

NHTM

Ngân hàng thương mại

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

TBKT

Tiến bộ kĩ thuật

UBND

Ủy ban nhân dân

VSATTP

Vệ sinh an toàn thực phẩm

VASEP

Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam


WCED

Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới


DANH MỤC BẢNG

STT

Tên bảng

Trang

3.1

Sản lượng và công suất chế biến tôm ở Cà Mau

34

3.2

Diện tích và sản lượng nuôi tôm các huyện thị tại Cà Mau 2012

36

3.3

Phân bố mẫu khảo sát


48

4.1

Thông tin chung về các hợp tác xã và tổ hợp tác nuôi tôm

61

4.2

Hiện trạng các HTX nuôi tôm tại Cà Mau

63

4.3

Hiệu quả sử dụng giống và thức ăn của HTX so với sản xuất cá thể

64

4.4

Hiệu quả sử dụng thuốc và hóa chất của các HTX so với nuôi tôm cá thể

65

4.5

Hiệu quả về sử dụng lao động của các HTX so với sản xuất cá thể


65

4.6

Hiệu quả về sử dụng CSHT, quản lí dịch bệnh và tiêu thụ sản phẩm của
các HTX so với sản xuất cá thể

66

4.7

Các loại hình liên kết dọc

67

4.8

Các nội dung liên kết dọc

68

4.9

Lợi ích đạt được khi tham gia liên kết

69

4.10

Tình hình thực hiện hợp đồng liên kết trong nuôi tôm ở Cà Mau


70

4.11

Hình thức thể hiện liên kết

71

4.12

So sánh hiệu quả giữa nuôi tôm có và không có liên kết

73

4.13

Vốn đầu tư của tỉnh Cà Mau giai đoạn 2010-2012

81

4.14

Khối lượng đầu tư cho thủy lợi ở Cà Mau giai đoạn 2005-2010

82

4.15

Hiệu quả sản xuất theo liên kết ngang so với sản xuất cá thể


90

4.16

Các yếu tố khác có tác động đến hiệu quả của liên kết ngang

91

4.17

Hiện trạng các cơ sở hạ tầng chính

95

4.18

Chi phí sản xuất bình quân/ha

97

4.19

Quy mô sản xuất

99

vii



DANH MỤC HÌNH

STT

Tên hình

Trang

2.1

Liên kết ngang giữa những người nuôi tôm

9

2.2

Liên kết ngang giữa các doanh nghiệp chế biến

10

2.3

Liên kết nội bộ giữa các công đoạn trong doanh nghiệp chế biến

13

2.4

Liên kết trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm


14

2.5

Liên kết gián tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm

15

3.1

Bản đồ tỉnh Cà Mau

34

3.2

Khung phân tích về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm
ở Cà Mau

47

4.1

Sơ đồ liên kết ngang giữa các doanh nghiệp chế biến ở Cà Mau

59

4.2

Sơ đồ liên kết ngang thành các hợp tác xã nuôi tôm ở Cà Mau


60

4.3

Đất đai và quy hoạch

87

4.4

Quyền lợi khi tham gia các liên kết ngang của người nuôi tôm

88

4.5

Nghĩa vụ khi tham gia các liên kết ngang của người nuôi tôm

89

4.6

Mức độ thực thi của liên kết ngang

93

4.7

Vi phạm và xử lí vi phạm trong liên kết ngang


94

4.8

Hình thức thể hiện các hợp đồng liên kết

101

4.9

Cách thức giải quyết các vi phạm hợp đồng liên kết

101

viii


DANH MỤC HỘP

STT

Tên hộp

Trang

4.1

Liên kết ngang giữa các doanh nghiệp lỏng lẻo


59

4.2

Thiếu khung pháp lí về liên kết

62

4.3

Thiếu minh bạch nên liên kết thiếu bền vững

62

4.4

Thiếu khung pháp lí về liên kết

75

4.5

Thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện quy hoạch

76

4.6

Quy hoạch còn nhiều bất cập


78

4.7

CSHT có ảnh hưởng lớn đến phát triển liên kết

80

4.8

Cần có vai trò của Nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng

81

4.9

Thủy lợi có tác động lớn đối với hiệu quả sản xuất tôm

83

4.10

Chuyển giao TBKT còn hạn chế

84

ix


TRÍCH YẾU LUẬN ÁN

1. Tóm tắt
- Tên tác giả: Phùng Giang Hải
- Tên Luận án: Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở
tỉnh Cà Mau
- Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
- Mã số: 62 62 01 15
- Tên cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2. Nội dung bản trích yếu
- Mục đích nghiên cứu của Luận án: Nhằm đề xuất các giải pháp tăng
cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau.
- Các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng:
+ Nghiên cứu tiếp cận theo loại liên kết (dọc và ngang) nhằm nghiên cứu
các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm.
+ Nghiên cứu tiếp cận theo kinh tế thể chế nhằm phân tích rõ quan hệ lợi
ích và nghĩa vụ của các bên trong liên kết.
+ Số liệu đã công bố và số liệu mới được thu thập từ các cơ quan quản lí
Nhà nước, các cơ quan nghiên cứu và khảo sát thực địa tại địa bàn tỉnh Cà Mau.
+ Các phương pháp phân tích thống kê mô tả, phân tổ so sánh, kiểm
định và ước lượng mô hình toán đã được sử dụng để phân tích các số liệu thu
thập được.
- Các kết quả, phát hiện chính và kết luận:
+ Về lí luận, bản chất của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm không
khác nhiều so với các liên kết khác trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, do các
đặc trưng về kinh tế kĩ thuật của “con tôm” với giá trị cao, mức độ nhạy cảm với
dịch bệnh lớn, yêu cầu về mặt bằng sản xuất phức tạp… nên liên kết trong sản
xuất và chế biến tôm bao gồm thêm một số điều kiện đặc thù. Cụ thể:
Diện tích nuôi tôm phải đủ lớn;
Vị trí của các ao nuôi tôm cần ở gần nhau;

x



Hình thức thể hiện các liên kết này cần được pháp lí hóa ở mức độ cao;
Doanh nghiệp chế biến phải đóng vai trò trung tâm trong liên kết;
Quyền lợi và trách nhiệm cần được cân đối một cách hợp lí;
Vai trò của Nhà nước cần được duy trì một cách thường xuyên và hiệu quả.
+ Về thực tiễn, luận án đã xác định diện tích nhỏ lẻ, manh mún là một
trong những yếu tố quan trọng cản trở sự phát triển của các liên kết và do vậy
ảnh hưởng của quy hoạch đối với sự phát triển của các liên kết cũng đáng kể hơn.
Về CSHT, giao thông mặc dù không có ý nghĩa thống kê nhưng vẫn cho thấy tác
động thuận chiều đối với khả năng tăng cường liên kết trong nuôi và chế biến
tôm. Khung pháp lí có tác động lớn nhưng theo xu hướng tiêu cực đối với sự
hình thành và phát triển của các loại hình liên kết do sự lỏng lẻo trong các quy
định và hiệu quả xử lí vi phạm thấp. Người nuôi tôm không liên kết có mức chi
phí cao hơn đáng kể so với chi phí của những người nuôi tôm có liên kết. Kích
cỡ tôm bình quân thu hoạch từ khu vực nuôi có liên kết lớn hơn so với khu vực
nuôi không liên kết. Tóm lại, các yếu tố chi phí thấp hơn, chất lượng tôm thu
hoạch cao hơn và giá bán tốt hơn là những yếu tố chủ chốt thu hút sự tham gia
vào các liên kết đối với những người nuôi tôm thương phẩm ở Cà Mau.
Về giải pháp tăng cường liên kết, tập trung vào i) giải pháp về chính sách;
ii) giải pháp về đầu tư công và dịch vụ công; iii) giải pháp riêng cho tăng cường
liên kết ngang; iv) giải pháp riêng cho tăng cường liên kết dọc và v) giải pháp
khác (phòng chống rủi ro, đẩy mạnh áp dụng TBKT…) để hỗ trợ tăng cường liên
kết trong sản xuất và chế biến tôm ở Cà Mau.

xi


THESIS ABSTRACT
1. Summary

- Author: Phung Giang Hai
- Thesis title: Linkages in commercial shrimp production and processing
in Ca Mau province
- Speciality: Agricultural economics
- Code: 62 62 01 15
- Name of education institution: Vietnam National University of Agriculture
2. Contents
- Objectives of Thesis: To propose solutions for strengthening linkages
between production and processing stages of commercial shrimp in Ca Mau
province.
- Methodology:
+ Type of linkage (vertical and horizontal linkages) approach to analyse
the details of linkages between shrimp processing enterprises and farmer.
+ Institutional economics approach to analyze the relationships of benefits
and duties inside inkages.
+ Data is collected from gorvernmental offices, research bodies and field
survey at Ca Mau province.
+ Description analysis and quatitative analysis are all used in the thesis.
- Key findings:
+ On theoretical side, the shrimp production areas have to be large enough
(average areas of aquaculture in linkages with enterprises are all 3ha, at least) to
directly link to the processing enterprises. In the horizontal linkage, the position
of ponds has to be closed to facilitate the seasonal calendar and infrastructure
development. The formulation of linkage should be a contract which is ensured
by the Authority to confirm its effectiveness. In the structure of vertical linkage,
enterprises are always a key factor to ensure the right direction for the whole
linkage.
+ On practical side, analysis results show that the small scale and scattered

xii



characteristics of shrimp production areas are the key constrains with linkage
development. So, impacts of planning to the development of linkages is also
stronger. About the infrastructure, transportation is not significant but is quite fit
with the reality when showing a supported impact to possibility of linkage
development. Legal framework has big impacts but following a negative way to
the establishment and development of linkages due to the lack and
ineffectiveness of regulations. Production cost of the shrimp farmer with linkages
is quite lower than of shrimp farmer without linkages. Size of harvested shrimp
from shrimp production areas with linkages is much bigger than shrimp size of
production areas without linkages. In brief, lower production cost, size of
harvested shrimp and higher price of shrimp are main factors supporting linkage
development in shrimp production of Ca Mau province.
+ On the solutions to strengthen linkage, it is specially focus on the
measures to develop the horizontal linkage to making bases for vertical linkages’
development. Besides, the measure of legal supports should be an emphasized to
ensure legality of the linkages.

xiii



PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngành tôm của Việt Nam đã và đang tiếp tục gặt hái được nhiều thành
công đáng kể, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chung của đất nước (Tổng
cục Thủy sản, 2012). Tuy nhiên, ngành này hiện cũng đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề nghiêm trọng, trong đó vấn đề cấp thiết nhất trong trước mắt cũng
như dài hạn là phải đảm bảo khả năng cung cấp tôm nguyên liệu ổn định, có chất

lượng cao cho chế biến. Số liệu thống kê của tỉnh Cà Mau - tỉnh có nghề nuôi
tôm lớn hàng đầu Việt Nam, nguồn tôm nguyên liệu vào thời điểm chính vụ cũng
chỉ đáp ứng tối đa 60% công suất các nhà máy chế biến trong tỉnh (Hội Chế biến
và Xuất khẩu thủy sản Cà Mau - CASEP, 2013). Nguyên nhân được xác định là
do phần lớn các diện tích nuôi tôm hiện nay vẫn phát triển tự phát, manh mún với
cơ sở hạ tầng (CSHT) ít được đầu tư bài bản, quy trình nuôi không thống nhất
nên dịch bệnh nhiều, chất lượng tôm thấp.
Bên cạnh đó, sự thiếu kết nối giữa khu vực chế biến và khu vực sản xuất
nguyên liệu trong ngành tôm cũng góp phần tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọng
về cung cầu giữa 2 khu vực này. Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có 206
nhà máy chế biến thủy sản, chủ yếu là chế biến cá tra và tôm, với tổng công suất
chế biến hơn 1,1 triệu tấn/năm (Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, 2011). Tuy
nhiên, sự phát triển quá nhanh số lượng các nhà máy chế biến trong khi nguồn
nguyên liệu có hạn và ngày càng bị hạn chế do sự gia tăng các rủi ro từ thiên
nhiên, dịch bệnh… khiến cho các nhà máy chế biến ngày càng lâm vào cảnh
thiếu nguyên liệu triền miên. Tại Cà Mau, năm 2013 sản lượng chế biến của toàn
tỉnh Cà Mau là khoảng 85 ngàn tấn tương đương với 40% tổng công suất thiết kế
của các nhà máy chế biến tại Cà Mau (CASEP, 2014). Điều này cho thấy sự bất
cập trong nhiều khâu đã dẫn đến tình trạng phát triển tự phát của cả về cung cấp
nguyên liệu và chế biến, đe dọa đến tính bền vững của cả chuỗi sản phẩm với
tình trạng “khát nguyên liệu” thường xuyên. Mặt khác, thiếu liên kết còn tạo ra
khoảng trống lớn trong giám sát chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến - theo
thống kê, chỉ trong 10 tháng đầu năm 2014, các doanh nghiệp chế biến tôm của
Cà Mau đã phải bị trả lại hơn 1,1 ngàn tấn sản phẩm do vi phạm các quy định về
dư lượng kháng sinh, ước tính thiệt hại khoảng 12,3 triệu USD (UBND tỉnh Cà
Mau, 2014). Tuy nhiên, con số thiệt hại này mới chỉ là bề nổi của tảng băng vì
1


những thiệt hại về uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam cộng với những chi phí

phát sinh do tỷ lệ tôm Việt Nam bị đưa vào kiểm nghiệm trước khi nhập khẩu
tăng lên (có thời gian 100% sản phẩm tôm Việt Nam phải bị kiểm soát về dư
lượng kháng sinh khi nhập khẩu vào Nhật Bản) sẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD.
Trong khi thiếu liên kết giữa khâu chế biến với khâu nuôi tôm là một
trong những nguyên nhân chính gây mất cân đối cung cầu thì thiếu liên kết giữa
những người nuôi tôm cũng làm mất đi khả năng tạo ra được một lượng cung
tôm đủ lớn và ổn định, đủ tiêu chuẩn chất lượng. Tính đến hết năm 2013, toàn
tỉnh Cà Mau có hơn 266 ngàn ha nuôi tôm, chủ yếu theo hình thức quảng canh và
mô hình tổ chức sản xuất chính là các hộ gia đình cá thể (Sở NN&PTNT Cà
Mau, 2013). Chính hình thức sản xuất này đã tạo nên tính manh mún, nhỏ lẻ và
phân tán của hoạt động sản xuất, dẫn đến khả năng phát triển CSHT đồng bộ và
hiệu quả là rất thấp ảnh hưởng lớn đến sản lượng tôm nuôi do năng suất thấp và
rủi ro cao - năng suất bình quân tôm nuôi của vùng Cà Mau năm 2013 chỉ đạt
khoảng 500 kg/ha (UBND tỉnh Cà Mau, 2013).
Thời gian gần đây, nhiều nỗ lực của Chính phủ nhằm khuyến khích, thúc
đẩy tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến, tiêu thụ nông sản vẫn chưa
thực sự đi vào cuộc sống. Một trong những nguyên nhân chính làm cho liên kết
chưa phát triển được là do thiếu sự rõ ràng trong việc xác định “quyền lợi và
trách nhiệm của người tham gia liên kết - tức là phải có lợi mới làm, có quyền
mới làm được và phải gắn với trách nhiệm mới thành công” (Hà Xuân Thông,
2010). Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 06 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ là bước đột phá theo hướng hình thành liên kết 4 nhà, tuy nhiên
Quyết định này lại chỉ “khuyến khích” các doanh nghiệp kí hợp đồng tiêu thụ sản
phẩm với người sản xuất chứ không yêu cầu bắt buộc nên đã dẫn tới nhiều sai
lệch trong quá trình thực hiện, làm giảm tác dụng của Quyết định. Báo cáo tổng
kết 5 năm thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Bộ NN&PTNT đã chỉ
ra rằng nhiều địa phương mặc dù đã triển khai mô hình liên kết 4 nhà nhưng thực
chất chỉ là những mối quan hệ lỏng lẻo giữa doanh nghiệp và nông dân và chính
việc ký kết hợp đồng chỉ là khuyến khích, không bắt buộc nên trách
nhiệm giữa các bên không có sự ràng buộc chặt chẽ làm nảy sinh một số bất cập

và khó khăn trong việc triển khai việc liên kết, mặc dù ai cũng biết việc kí kết
hợp đồng là có lợi cho cả các bên.
2


Đã có nhiều nghiên cứu về phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến
nông sản bao gồm cả ngành sản xuất và chế biến tôm. Trong đó, đặc biệt phải kể
đến nghiên cứu “Phân tích chuỗi giá trị tôm sú ở đồng bằng sông Cửu Long” của
tác giả Lê Xuân Sinh và cộng sự năm 2010 đã đề xuất một số giải pháp liên quan
đến tăng cường năng lực và vai trò cho từng tác nhân trong chuỗi để hỗ trợ phát
triển liên kết chuỗi. Nghiên cứu “Liên kết nông dân trong ngành tôm ở đồng
bằng sông Cửu Long” của tác giả Hồ Thị Minh Hợp năm 2012 đã kiến nghị một
số giải pháp liên quan đến quy hoạch, dự báo, phát triển tổ chức nông dân…
nhằm hỗ trợ phát triển liên kết trong ngành này. Nghiên cứu “Phân tích chuỗi giá
trị trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ cá tra, tôm sú” của tác giả Lê Văn Gia Nhỏ
và cộng sự năm 2012 cũng tiếp cận sâu về các vấn đề liên kết trong ngành tôm ở
đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, đến nay chưa có một nghiên cứu nào cụ
thể và toàn diện về phát triển liên kết theo cả chiều ngang và dọc trong sản xuất
và chế biến tôm ở Cà Mau - địa bàn cung cấp đến hơn 30% cả về sản lượng và
diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước. Các kết quả nghiên cứu trước đây chưa
chỉ rõ và phân tích được về các yếu tố ảnh hưởng để có thể xây dựng các giải
pháp tăng cường liên kết trong lĩnh vực này một cách hiệu quả và bền vững.
Trong bối cảnh như vậy, đề tài luận án là rất cần thiết và cấp bách nhằm
đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm ở
tỉnh Cà Mau và góp phần xây dựng cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp,
chính sách hỗ trợ phát triển bền vững cả ngành sản xuất, chế biến và xuất
khẩu tôm Việt Nam.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất

và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa và phát triển hệ thống lý luận và thực tiễn về liên kết
trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm;
Đánh giá được thực trạng liên kết trong sản xuất và chế biến tôm
thương phẩm ở Cà Mau;
Đề xuất giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm
thương phẩm ở Cà Mau.

3


1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các chính sách về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm;
Các vấn đề lý luận và thực tiễn trong liên kết trong sản xuất và chế
biến tôm thương phẩm;
Các tác nhân tham gia liên kết trong ngành tôm thương phẩm.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu chỉ tập trung trong địa bàn tỉnh Cà Mau - tỉnh
đứng đầu về nuôi tôm của cả nước.
Về thời gian: Các số liệu thống kê thứ cấp được thu thập trong khoảng
thời gian 5 năm từ 2008-2013 và thu thập số liệu sơ cấp tại thời điểm năm 2014.
Về đối tượng: Nghiên cứu chỉ tập trung vào tôm thương phẩm (tôm làm nguyên
liệu chế biến hoặc tiêu dùng), tôm giống không thuộc phạm vi nghiên cứu này.
Về nội dung: Nghiên cứu sẽ chỉ tập trung phân tích, đánh giá về các liên kết
theo chiều ngang giữa những người nuôi tôm, giữa các doanh nghiệp chế biến và
liên kết theo chiều dọc giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến tôm ở Cà Mau.
Nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau. Các giải pháp

nhằm phát triển ngành hàng tôm nói chung không thuộc phạm vi nghiên cứu này.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Về lí luận, luận án đã xác định bản chất của liên kết trong sản xuất và chế
biến tôm thương phẩm không khác nhiều so với các liên kết khác trong nông
nghiệp. Tuy nhiên, do đặc trưng của “con tôm” là đối tượng sản xuất có giá trị
cao, độ nhạy cảm với dịch bệnh lớn, yêu cầu về mặt bằng sản xuất phức tạp…
nên liên kết trong sản xuất và chế biến cần có thêm một số điều kiện: i) Diện tích
nuôi tôm phải đủ lớn để tham gia liên kết dọc trực tiếp với các doanh nghiệp chế
biến; ii) Vị trí các ao nuôi tôm phải gần nhau để có thể tham gia liên kết ngang;
iii) Nhà nước phải có vai trò thường xuyên và quan trọng (chứng thực, trọng tài,
hỗ trợ…) để đảm bảo các hợp đồng liên kết luôn có hiệu lực và hỗ trợ kịp thời
cho các liên kết trong trường hợp cần thiết.
Về thực tiễn, luận án đã xác định diện tích nhỏ lẻ, manh mún là một trong
những yếu tố quan trọng cản trở sự phát triển của các liên kết và do vậy ảnh
hưởng của quy hoạch đối với sự phát triển của các liên kết cũng đáng kể hơn. Về
4


CSHT, giao thông mặc dù không có ý nghĩa thống kê nhưng vẫn cho thấy tác
động thuận chiều đối với khả năng tăng cường liên kết trong nuôi và chế biến
tôm. Khung pháp lí có tác động lớn nhưng theo xu hướng tiêu cực đối với sự
hình thành và phát triển của các loại hình liên kết do sự lỏng lẻo trong các quy
định và hiệu quả xử lí vi phạm thấp. Người nuôi tôm không liên kết có mức chi
phí cao hơn đáng kể so với chi phí của những người nuôi tôm có liên kết. Kích
cỡ tôm bình quân thu hoạch từ khu vực nuôi có liên kết lớn hơn so với khu vực
nuôi không liên kết. Tóm lại, các yếu tố chi phí thấp hơn, chất lượng tôm thu
hoạch cao hơn và giá bán tốt hơn là những yếu tố chủ chốt thu hút sự tham gia
vào các liên kết đối với những người nuôi tôm thương phẩm ở Cà Mau.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Các phát hiện mới của đề tài sẽ giúp bổ sung lý thuyết về tổ chức liên kết

trong ngành tôm ở Việt Nam nói chung và Cà Mau nói riêng với vai trò của điều
kiện tự nhiên, nguồn lực và yếu tố thể chế. Điều này sẽ giúp giải quyết dần tính
tự phát của các liên kết trong thời gian qua đồng thời hỗ trợ quy chuẩn hóa quá
trình hình thành và vận hành các liên kết. Các kết luận của đề tài cũng sẽ giúp đề
xuất nhiều giải pháp để tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm nói
chung, góp phần giải quyết tình trạng thiếu tôm nguyên liệu trầm trọng hiện nay
và ổn định nguồn cung tôm nguyên liệu trong dài hạn phục vụ chế biến.

5


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN
TÔM THƯƠNG PHẨM
2.1.1. Khái niệm, bản chất, hình thức và vai trò
Về tôm thương phẩm, thực tế có nhiều công đoạn để sản xuất ra được một
sản phẩm là “con tôm” đến tay người tiêu dùng cuối cùng, như sản xuất giống,
ương, nuôi tôm, chế biến… Quá trình nuôi tôm thường được chia thành 2 giai
đoạn chính là làm giống và nuôi tôm thương phẩm. Trong đó, giai đoạn nuôi tôm
thương phẩm thường được quan tâm nhiều hơn do có sự gắn kết chặt chẽ với sản
lượng, chất lượng tôm nuôi. Đây là giai đoạn người nuôi tôm sử dụng tôm giống,
thả nuôi trong một khoảng thời gian nhất định để tôm đạt được kích cỡ nhất định,
có thể tiêu thụ cho các nhà máy chế biến là nguyên liệu chế biến hoặc cho người
tiêu dùng trực tiếp.
Trong kinh tế hiện đại, càng ngày khái niệm liên kết càng được ứng dụng
nhiều hơn và trong nhiều ngành, lĩnh vực hơn nhằm mục tiêu nâng cao năng lực
sản xuất, tiêu thụ… của các chủ thể tham gia liên kết (Porter, 1985). Liên kết là
một trong những hình thức hợp tác của con người ở trình độ cao, đã được con
người vận dụng từ rất lâu đời và xã hội càng phát triển thì trình độ hợp tác của
con người trong xã hội càng được nâng cao và phát triển thành các hình thức liên

kết đa dạng hơn (Kaplinsky and Morris, 2002). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, đẩy mạnh liên kết là một trong những phương thức tất yếu để tăng cường
nội lực cho các chủ thể kinh tế với đặc điểm chung là dù theo hình thức nào, ở
mức độ nào thì các liên kết cũng đều nhằm mang lại vị thế lớn hơn, năng lực lớn
hơn và lợi nhuận lớn hơn cho các chủ thể tham gia liên kết (Pearce, 2001).
Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học, liên kết kinh tế là hình thức hợp tác
phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của
Nhà nước (Mai Hữu Khuê, 2001). Liên kết kinh tế chính là những phương thức
hoạt động của các hình thức hợp tác trong kinh tế và do vậy liên kết kinh tế cũng
phát triển ngày càng phong phú, đa dạng theo sự phát triển của kinh tế; tất cả các
mối quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa trên
những hợp đồng với những thoả thuận nhất định (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006).
6


Như vậy, ở một mức độ nào đó liên kết là việc thực hiện mối liên hệ giữa
các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm thực hiện mối quan hệ phân công và hợp tác
lao động để đạt tới lợi ích chung (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Liên kết giữa
doanh nghiệp chế biến tôm với người nuôi tôm là hai khâu tiếp nối nhau trong
quá trình sản xuất và chế biến nông sản: Doanh nghiệp chế biến tôm tiêu thụ sản
phẩm do người nuôi tôm sản xuất và tiếp tục sản xuất ra các sản phẩm phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của xã hội (Hồ Thị Minh Hợp, 2012). Nội dung liên kết là sự
thể hiện cụ thể mối quan hệ phân công và hợp tác lao động giữa hai chủ thể tham
gia trong liên kết (Dương Bá Phượng, 1995), quy định những trách nhiệm và
quyền lợi, chức năng và hoạt động cụ thể về kinh tế, kỹ thuật mà mỗi bên phải
thực hiện để cùng nhau hợp tác.
Tóm lại, liên kết có thể được hiểu là một cơ chế hợp tác, nó phản ánh mối
quan hệ về phân công lao động trong quá trình sản xuất giữa các vùng địa lí, các
ngành, các đơn vị, thành phần kinh tế… Liên kết là sự hợp tác, phối hợp giữa các

chủ thể trên cơ sở tự nguyện nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo hướng có
lợi nhất. Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm cũng có khái niệm chung tương
tự như vậy - là sự hợp tác, phối hợp có tính chất lâu dài giữa người nuôi tôm và
doanh nghiệp chế biến tôm nhằm nâng cao được sản lượng và chất lượng tôm
nuôi cung cấp cho doanh nghiệp chế biến, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho
sản phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
2.1.1.1. Liên kết ngang
Về khái niệm, liên kết ngang là hình thức tổ chức mà trong đó mỗi bên
tham gia là một chủ thể, đơn vị riêng biệt nhưng có mối quan hệ ngang (dạng lát
cắt ngang) với nhau trong cùng luồng hoạt động sản xuất kinh doanh (Porter,
1985). Kết quả của liên kết ngang hình thành nên những tổ chức liên kết như
HTX, liên minh, hiệp hội... và chính vì vậy có nhiều khả năng dẫn đến độc quyền
trong một thị trường cụ thể nếu không được kiểm soát. Tuy nhiên, trước khi tiến
tới độc quyền, với loại liên kết này, ngành nông nghiệp có thể hạn chế được việc
bị ép cấp, ép giá nông sản khi tiêu thụ nhờ khả năng làm chủ thị trường dựa trên
năng lực liên kết (Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Khác với liên kết dọc phát
triển theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, phân khúc sản xuất theo chuỗi thì
liên kết ngang là phát triển theo hướng tập trung hóa cả trong sản xuất và tiêu
thụ. Liên kết ngang là loại hình liên kết phù hợp với mục tiêu hỗ trợ nâng cao
khả năng cạnh tranh cho những lĩnh vực sản xuất như nông nghiệp với chủ thể
7


chính là các hộ gia đình nông dân sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ (Phạm Thị Minh
Nguyệt, 2006). Liên kết ngang cũng có thể sử dụng để giải quyết mâu thuẫn,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường lớn,
nơi tập trung nhiều doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, thị phần lớn (Porter, 1985).
Liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm cũng có khái niệm cơ bản
tương tự như các liên kết ngang nói chung trong đó nhiều người nuôi tôm hoặc
nhiều doanh nghiệp chế biến tôm có thể thiết lập các quan hệ với nhau về quyền

lợi và trách nhiệm theo chiều ngang nhằm tăng quy mô sản xuất cho người nuôi
tôm hướng tới hiệu quả cao hơn trong nuôi tôm hoặc nhằm tăng khả năng thu hút
nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp
chế biến tôm khi tham gia thị trường.
Về bản chất, liên kết giữa những người nuôi tôm với nhau là một liên kết
ngang dựa trên sự tự nguyện của những người nuôi tôm cùng hợp tác trong sản
xuất (Hồ Thị Minh Hợp, 2012). Các liên kết ngang này thường hình thành nên các
HTX, tổ hợp tác hoặc đơn giản là các tổ nhóm, câu lạc bộ… mang tính chất tự
phát. Sự đảm bảo của liên kết này chủ yếu dựa trên các thỏa thuận không chính
thức (không hợp đồng bằng văn bản, không có công chứng…) giữa chính những
người tham gia, ngoại trừ các HTX thường được chính quyền địa phương ra quyết
định thành lập. Điểm khác biệt lớn nhất ở đây là yêu cầu các diện tích đất sản xuất
được đưa vào hợp tác, liên kết trong nuôi tôm cần phải có vị trí gần nhau, tổ chức
sản xuất phải theo lịch thời vụ thống nhất, giải pháp kĩ thuật trong sản xuất phải
theo một hướng dẫn chung để có khả năng tạo được sản lượng đủ lớn và tập trung
trong 1 thời điểm, đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng với chi phí sản xuất thấp
nhất (Lê Văn Gia Nhỏ và cs., 2012). Nói cách khác, các nội dung liên kết này
tương đối phức tạp, gắn với nhiều lĩnh vực trong sản xuất. Mặc dù vậy, trừ trường
hợp liên kết hình thành HTX, các hình thức liên kết khác thường không được thể
hiện bằng các hợp đồng hoặc các loại hình cam kết được cơ quan có thẩm quyền
chứng thực. Do vậy, liên kết ngang giữa những người nuôi tôm dễ thành lập nhưng
cũng dễ tan rã khi gặp những cản trở hoặc bất lợi trong quá trình hoạt động.
Bản chất liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến tôm với nhau cũng là
một hình thức liên kết ngang. Khác biệt lớn nhất ở đây liên quan đến định hướng
xuất khẩu, giá trị lớn và tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế của sản phẩm
tôm và do đó các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tôm mặc dù có thể cùng là
thành viên của một Hiệp hội doanh nghiệp nhưng vẫn có thể có xu hướng cạnh
8



tranh lẫn nhau khá mạnh. Như vậy, các liên kết nếu có giữa những doanh nghiệp
chế biến tôm hiện vẫn còn mang nhiều tính hình thức với khả năng chia sẻ và
phối hợp thấp làm cho các liên kết này rất ít có hiệu quả (Nguyễn Trọng Khương
và cs., 2010). Một đặc điểm nữa đó là có thể có sự cạnh tranh rất cao ngay từ
khâu thu mua nguyên liệu (nhằm giảm chi phí, ổn định nguồn nguyên liệu cho
các nhà máy chế biến) nên khi từng doanh nghiệp đơn lẻ có đơn hàng thì khả
năng tồn tại của các liên kết đều trở nên mỏng manh (Lê Văn Gia Nhỏ và cs.,
2012). Đây là một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp chế biến
tôm ở đây khó liên kết với nhau một cách thực sự vì doanh nghiệp nào cũng
muốn tranh thủ nguồn nguyên liệu tốt, gần nhà máy trong khi nguồn nguyên liệu
này còn bị cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài.
Về hình thức, liên kết ngang giữa những người nuôi tôm là hình thức liên
kết giữa những người nuôi tôm trong cùng một địa bàn (các ao nuôi tôm có vị trí ở
gần nhau) nhằm tăng quy mô sản xuất và có thể sử dụng chung một số dịch vụ hỗ
trợ nhất là về CSHT để giảm chi phí sản xuất (Eaton and Shepherd 2001). Liên kết
nhằm tập trung sản lượng của những người nuôi tôm vào cùng một thời điểm. Việc
thống nhất lịch thời vụ cũng giúp phòng tránh dịch bệnh tốt hơn và quy mô lớn
hơn sẽ tăng khả năng tiếp cận tín dụng hay ứng trước vật tư tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho sản xuất (Andrew et al., 2008). Hình thức liên kết này thường được thể
hiện dưới tên gọi là các tổ hợp tác hay các HTX nuôi tôm. Mô hình khung liên kết
ngang giữa những người nuôi tôm có thể được thể hiện ở hình 2.1:

- Vị trí
- Diện tích
- Thời vụ
- CSHT

Hình 2.1. Liên kết ngang giữa những người nuôi tôm

9



×