Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tư tưởng triết học của lê hữu trác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

LÊ THỊ HOÀNG YẾN

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

LÊ THỊ HOÀNG YẾN

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, có kế thừa một số kết quả nghiên
cứu liên quan đã được công bố. Các tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm
bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Lê Thị Hồng Yến


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
em được học tập, nghiên cứu tại trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo khoa Triết học và khoa Giáo dục chính trị đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn em trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Hà, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ
và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Lê Thị Hoàng Yến



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 3
5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 3
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
8. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
9. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 4
10. Tóm tắt cơ đọng các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn.............. 4
Chương 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC .............................................................. 6

1.1. Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII............ 6
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội................................................................. 6
1.1.2. Tiền đề văn hóa - tư tưởng ............................................................. 13
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Hữu Trác ............................................. 22
1.2.1. Cuộc đời của Lê Hữu Trác ............................................................ 22
1.2.2. Sự nghiệp của Lê Hữu Trác ........................................................... 26
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
LÊ HỮU TRÁC ............................................................................. 30


2.1. Tư tưởng về bản thể của Lê Hữu Trác ................................................ 30
2.1.1. Tư tưởng về vũ trụ ......................................................................... 30
2.1.2. Tư tưởng về tự nhiên ..................................................................... 37


2.2. Tư tưởng về nhân sinh của Lê Hữu Trác ............................................ 44
2.2.1. Tư tưởng triết học về con người .................................................... 44
2.2.2. Tư tưởng về chính trị - xã hội ........................................................ 53
2.3. Giá trị và hạn chế về tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác ................ 59
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 68
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 72


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình dựng nước, giữ nước hàng ngàn năm, dân tộc Việt
Nam đã sáng tạo nên một nền văn hóa vơ cùng phong phú và đặc sắc. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng
tinh thần của xã hội” [9, tr.213].
Tư tưởng triết học Việt Nam là một bộ phận của văn hóa dân tộc.
Trong tiến trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Việt Nam, giai
đoạn thế kỷ XVII - XVIII là một giai đoạn đặc biệt, bởi đây là thời kỳ bất ổn
về tình hình chính trị xã hội (cuộc khủng hoảng Nam - Bắc triều đến Trịnh Nguyễn phân tranh), sự bất ổn đó đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải
quyết. Tùy theo những chí hướng khác nhau nhưng những nhà cầm quyền, sĩ

phu yêu nước, các nhà tư tưởng đều đồng lịng góp sức tìm những phương thức
khác nhau để giúp dân, giúp nước. Đầu tiên là việc xác định con đường thống
nhất đất nước, thứ hai là phát triển học thuật, văn hóa, tư tưởng. Nếu Nguyễn
Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hồng Cơng Chất, Quang Trung là những
nhân vật mà sự nghiệp đã tạo điều kiện cho dân tộc sống cịn và phát triển, thì
Hương Hải thiền sư, Chân Ngun thiền sư, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngơ Thì
Nhậm, Lê Quý Đôn và cả Lê Hữu Trác chọn con đường học thuật để xây dựng
đất nước, góp phần phát triển con người cả hai mặt thể chất và tinh thần.
Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ là một danh y với những tác phẩm
đồ sộ, mà còn là một trong số những nhà tư tưởng tiêu biểu đã để lại dấu ấn đặc
biệt trong việc phát triển tư tưởng triết học và y học dân tộc thế kỷ XVIII.


2
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII, Lê Hữu Trác
có ảnh hưởng đến văn hóa của dân tộc đương thời và cả trong xã hội hiện nay.
Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác là một trong vốn tri thức quý báu trong kho
tàng tri thức của nước nhà cần được nghiên cứu, lưu giữ và phát huy.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng triết học của Lê
Hữu Trác” làm luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Lê Hữu Trác không chỉ là một đại danh y mà còn là một nhà tư tưởng
lớn ở thế kỷ XVII - XVIII. Tư tưởng của ông đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu ở những góc độ khác nhau (chủ yếu khai thác trên lĩnh vực y học).
Về lĩnh vực tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác, số lượng các cơng trình
nghiên cứu cịn ít. Có thể khái qt các cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài bao gồm các tác phẩm tiêu biểu như sau:
Tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam do nhà nghiên cứu Nguyễn Tài
Thư làm chủ biên. Cơng trình đã dành một chương với tiêu đề “Lê Hữu Trác Nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y” để phân tích, đánh giá những tư
tưởng của Lê Hữu Trác. Trong đó các tác giả viết: “Lê Hữu Trác là một hiện

tượng đặc biệt ở thế kỷ XVIII. Tự mình đi con đường riêng, tự mình ý thức
được đầy đủ việc làm của mình. Khơng sợ người khác, khơng sợ khó khăn vất
vả, nói lên tiếng nói từ tận đáy lịng. Chính vì vậy mà cả thế giới quan và
nhân sinh quan đều đạt đến đỉnh cao của tư tưởng” [33, tr.459].
Ở cơng trình Đại cương lịch sử tư tưởng Việt Nam, tác giả Nguyễn
Hùng Hậu cũng trình bày một cách khái quát tư tưởng của Lê Hữu Trác. Theo
ơng, tư tưởng của Lê Hữu Trác có những yếu tố duy vật và biện chứng nhưng
vẫn còn đơn giản.
Trong tác phẩm Lê Hữu Trác - nhà tư tưởng thời Hậu Lê trên Tạp chí Triết
học, tác giả Nguyễn Thị Hồng Mai đã đề cập đến những tư tưởng y đức, văn học


3
và triết học của Lê Hữu Trác. Về tư tưởng triết học, tác giả đi sâu vào phân tích
bản thể luận, nhận thức luận và triết lý nhân sinh trong tư tưởng của ơng.
Cơng trình Quan điểm duy vật về tự nhiên của Lê Hữu Trác trong
bộ “Hải thượng y tông tâm lĩnh” của tác giả Trần Văn Thụy cho thấy rõ
hơn quan điểm duy vật của Lê Hữu Trác trong cách nhìn nhận về thế giới.
Theo đánh giá của tác giả, Lê Hữu Trác Mặc dù vẫn còn những hạn chế
lịch sử nhưng có những đóng góp vơ cùng quan trọng. và cịn nhiều cơng
trình khác.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã góp phần giúp chúng ta hiểu rõ
thêm về con người - sự nghiệp và tư tưởng của Lê Hữu Trác. Tuy nhiên chưa
có một cơng trình nào nghiên cứu tư tưởng triết học của ông thật đầy đủ. Trên
cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các cơng trình đi trước, luận văn này sẽ
hệ thống lại những tư tưởng của Lê Hữu Trác qua các tác phẩm của ơng.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày một cách có hệ thống nội dung tư tưởng triết học của
Lê Hữu Trác, đồng thời làm rõ thêm những giá trị và hạn chế tư tưởng triết học
của ông.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: các tác phẩm của Lê Hữu Trác
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác
5. Giả thuyết khoa học
- Câu hỏi nghiên cứu: Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác là gì?
- Giả thuyết khoa học: Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác là những tư
tưởng về bản thể và nhân sinh, về chính trị - xã hội
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát điều kiện và tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Lê
Hữu Trác.


4
- Làm rõ tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác về bản thể và nhân sinh,
về chính trị - xã hội.
- Phân tích một số giá trị và hạn chế trong tư tưởng triết học của Lê
Hữu Trác.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong các tác
phẩm thuộc tập 1 của bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, bao gồm: Nội kinh
yếu chỉ, Y gia quan niệm, Y hải cầu nguyện, Huyền tẫn phát vi, Khơn hóa thái
chân, Đạo lưu dư vận và tác phẩm Thượng Kinh ký sự.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về con người.
- Phương pháp nghiên cứu: Cùng với các nguyên tắc có ý nghĩa
phương pháp luận trong nghiên cứu lịch sử triết học, luận văn chủ yếu sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với
các phương pháp: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống

hóa… nhằm làm rõ tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác về bản thể và nhân
sinh, về chính trị - xã hội; từ đó phân tích một số giá trị và hạn chế trong tư
tưởng triết học của ơng.
9. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội
dung của luận văn gồm 2 chương và 5 tiết.
10. Tóm tắt cơ đọng các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của
luận văn
- Các luận điểm cơ bản: Lê Hữu Trác là nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt
Nam thế kỷ XVIII, tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đến tiến trình lịch sử


5
tư tưởng dân tộc. Tư tưởng triết học Lê Hữu Trác có cả giá trị và hạn chế đối
với sự phát triển lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Đóng góp mới: luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nội dung tư tưởng
triết học Lê Hữu Trác, vai trò của ông đối với tiến trình hình thành lịch sử tư
tưởng Việt Nam.


6

Chương 1
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC
1.1. Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII
C.Mác đã nói: “Các triết gia khơng mọc lên như nấm từ trái đất, họ là
sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế nhất, q
giá và vơ hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [18, tr.156],
“chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất

của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản
phẩm tư duy của mình. Khơng phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời
sống quyết định ý thức” [19, tr.37-38]. Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng triết
học của Lê Hữu Trác trong các tác phẩm của ơng thì cần tìm hiểu điều kiện
lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành nên tư tưởng triết học đó.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Ở Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII, thời kỳ nhà Hậu Lê (1533-1802), chế
độ phong kiến rơi vào tình trạng suy tàn và chia cắt đất nước. Đầu thế kỷ
XVI, sau khi vua Lê Hiến Tơng mất, cuộc khủng hoảng chính trị xảy ra, kinh
tế sa sút. Đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị, các thế lực phong
kiến tranh giành quyền lực. Sự suy nhược của nhà Lê, cùng với các cuộc nổi
dậy của nông dân liên tiếp xảy ra đã làm cho khủng hoảng xã hội thêm trầm
trọng, làm lung lay nền thống trị của chế độ phong kiến nhà Lê. Các vị vua
nhà Lê lúc này xao nhãng việc triều chính, lo say mê tửu sắc, giết cơng thần.
Điều này dẫn đến chỗ, triều đình sa vào sự suy thối, quốc khố cạn kiệt, qn
dân đói nghèo, bệnh tật. Lợi dụng tình cảnh đó, bọn quan lại địa phương mặc
sức tung hoành và tranh chấp. Giữa thế kỷ XVI, nhà Lê thực sự suy tàn, nhân
cơ hội đó, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Nhà Lê rút vào Thanh Hóa, sử gọi là


7
Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc. Đất nước bị chia cắt, cuộc
“chiến tranh Nam - Bắc triều” làm cho đất nước bị kiệt quệ, gây ra bao đau
thương, chết chóc. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều chấm dứt chưa được bao
lâu thì một cuộc chiến tranh mới lại bùng nổ giữa chính quyền Lê - Trịnh ở
Đàng ngồi và chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng trong. Đàng ngồi có chế
độ “vua Lê - chúa Trịnh”, quyền lực trên danh nghĩa nằm trong tay vua nhưng
trên thực tế nằm trong tay chúa.
Ở Đàng ngoài vào năm 1592, nhà Lê - Trịnh chiếm được Thăng Long,
tình hình tạm n. Chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng ngoài với và bộ máy nhà

nước dần ổn định, giải quyết được nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại. Về kinh
tế, do hậu quả của quá trình phát triển tư hữu ruộng đất từ thế kỷ XVI - XVII
là nạn kiêm tính ruộng đất ngày càng gia tăng. Trên danh nghĩa chế độ quân
điền vẫn tồn tại. Nhà nước cấm biến ruộng đất công thành ruộng đất tư. Mặt
khác những người có ruộng đất khẩu phần khơng bao giờ nghĩ đấy là ruộng
đất riêng của họ, nên thường không đánh giá đúng giá trị ruộng đất. Trong
những ngày giáp hạt, thiếu đói vì thiên tai hay những khi gặp khó khăn trong
cuộc sống, họ buộc phải cầm cố hoặc gán nợ ruộng đất với giá rẻ mạt. Đó
chính là điều kiện thuận lợi để những kẻ hào cường ức hiếp, chiếm đoạt ruộng
đất của họ. Vào những năm đầu thế kỷ XVIII, ở đồng bằng Bắc Bộ đã xuất
hiện hàng loạt địa chủ có hàng trăm mẫu ruộng. Bên cạnh đó, bộ máy làng xã
ngày càng biến chất, trở thành công cụ trong tay bọn hào cường, tạo thêm một
tầng áp bức bóc lột nặng nề lên người nơng dân. Chính quyền Lê - Trịnh phần
nào đã nhận ra tính nguy cấp của tình hình, đã có những biện pháp nhằm hạn
chế sự lộng hành của bộ máy lý dịch và nạn hào cường ở nông thôn. Dưới
thời Trịnh Cương (1709 - 1729), một số chính sách đã được ban hành nhưng
ít có hiệu quả vì chính bộ máy quan lại cấp trên và triều đình cũng đã mục
nát. Đến thời Trịnh Quang (1729 - 1740), hoạn quan được trọng dụng, nhưng


8
quan lại có tài, thẳng thắn thì bị sát hại, việc mua quan bán tước được mở
rộng, chốn quan trường trở thành nơi đầu cơ trục lợi, chức tước trở thành món
hàng hóa, tham nhũng hồnh hành, tệ quan liêu, ức hiếp dân chúng tràn lan.
Điều đó làm cho nhà nước trung ương càng suy yếu, nền sản xuất nông
nghiệp vẫn kém phát triển, các mâu thuẫn xã hội xảy ra ngày càng gay gắt.
Một hình thức phản kháng tiêu cực ngày càng trở nên phổ biến thời bấy
giờ của người nông dân là bỏ làng đi. Ruộng đất vốn đã ít ỏi lại bị bỏ hoang.
Thêm vào đó, thiên tai ập đến liên tiếp, điều này dẫn đến nạn đói hồnh
hành… Từ giữa thế kỷ XVIII, Đàng Ngồi lâm vào tình trạng khủng hoảng

trầm trọng. Mâu thuẫn tích chứa lâu ngày bùng phát thành những cuộc khởi
nghĩa nông dân mà những người dân nghèo đói là một lực lượng quan trọng.
Mặc dù các cuộc khởi nghĩa của nông dân hầu như bị dập tắt nhưng với sự
phát triển rầm rộ của phong trào đã làm rung chuyển cả Đàng Ngoài. Cơ đồ
thống trị của Lê - Trịnh bị lung lay đến tận gốc. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa
thuộc nhiều thành phần khác nhau, có người là nơng dân thuần túy, có người
là Nho sĩ bất mãn, lại có người là tơn thất nhà Lê. Điều đó chứng tỏ xã hội đã
bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng.
Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh và sau đó là giai đoạn đất
nước bị chia cắt, kinh tế Đàng Trong phát triển có phần mạnh mẽ hơn Đàng
Ngồi. Với ưu thế đó, những dấu hiệu suy thối kinh tế ở vùng đất phía Nam
cũng đến chậm hơn. Do ruộng đất Đàng trong mầu mỡ, nhân dân giỏi trồng
trọt (lúa nước, ngô, kê, đậu,…) cho nên nông nghiệp phát triển. Khi phong
trào nơng dân Đàng Ngồi bị thất bại thì nông dân Đàng Trong bắt đầu nổi lên
mạnh mẽ. Từ năm 1770, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và
nhiều người khác tập hợp nông dân, những người buôn bán nhỏ… nổi lên, lật
đổ chính quyền chúa Nguyễn. Thừa thắng xơng lên, sau khi lật đổ chính
quyền họ Nguyễn, phong trào Tây Sơn lại tiến quân ra Bắc, lật đổ chính


9
quyền chúa Trịnh, thống nhất đất nước. Lập lên vương triều Tây Sơn. Tuy
nhiên, thế lực nhà Lê đã cầu viện nhà Thanh. Tháng 11 năm 1788, quân
Thanh do sự cầu viện của vua tôi Lê Chiêu Thống đã ồ ạt tiến vào nước ta.
Năm 1789, Quang Trung đại thắng. Tuy nhiên, sự bất hoà của anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ đã ảnh hưởng đến cục diện đất nước.
Vào cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung (1788 - 1792) xây dựng một triều
đại mới. Tháng 9 năm 1792, Quang Trung đột ngột mất, điều đó kéo theo sự
suy tàn của vương triều Tây Sơn. Cuối năm 1802, Nguyễn Ánh vào Thăng
Long, chính thức xưng vương, lập ra nhà Nguyễn, đổi quốc hiệu là Việt Nam.

Có thể thấy, thế kỷ XVIII là thế kỷ có nhiều sự kiện lớn trong lịch sử
Việt Nam, là thế kỷ vươn lên của nông dân và dân tộc.
Những biến diễn và phát triển của nơng nghiệp trong các thế kỷ XVIXVII đã có tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế hàng hố bấy
giờ ở cả Đàng Ngồi và Đàng Trong.
Về công thương nghiệp, giai đoạn này đã chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới bao gồm những lĩnh vực mới như thủ công nghiệp, hoạt động
hầm mỏ cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Sự phát triển thương nghiệp đã
giúp cho việc buôn bán trong nước và ngoại thương thêm nhộn nhịp. Tuy
nhiên, do còn nhiều hạn chế nên nền kinh tế Đại Việt đương thời đã không tạo
cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của công thương nghiệp, chưa tạo
được một thế đứng chủ động trong giao thương với bên ngoài.
Sự tăng cường bn bán với các thương nhân nước ngồi và việc tiếp
xúc với luồng thương mại tư bản chủ nghĩa phương Tây càng kích thích thêm
sự phát triển của kinh tế hàng hố. Thủ cơng nghiệp phát triển thêm một
bước, bn bán phồn vinh, những thành thị hưng khởi, những mầm mống của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có điều kiện nảy sinh. Trong nhân dân, các
nghề thủ công truyền thống tiếp tục phát triển và trở nên phổ biến rộng khắp ở


10
nhiều làng xã. Nghề làm gốm được cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật và mỹ
thuật, đã xuất hiện các lò gồm lớn nổi tiếng như Chu Đậu, Hợp Lễ (Hải
Dương), Bát Tràng nay thuộc Gia Lâm - Hà Nội. Nhiều làng, nghề thủ công
chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời như làng Mỹ Thiện (Quảng Ngãi),
Phú Trạch (Thừa Thiên) làm nồi đất nung, dệt chiếu, lụa hoa, làng Thổ Hà
(Bắc Ninh), Hương Canh (Phú Thọ) chuyên sản xuất chum vại, vò, chĩnh,
làng Yên Thái (Hà Nội) chuyên làm giấy... Nổi tiếng nhất là nghề dệt vải,
lụa. Hầu như các làng xã Đàng Ngồi đều làm nghề trồng bơng dệt vải, chăn
tằm dệt lụa. Người nước ngoài đến Đàng Ngoài vào các thế kỷ XVII - XVIII
đều có nhận xét rất giống nhau về sự phát triển của nghề dệt vải, tơ lụa. Tơ trở

thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng bậc nhất. Có nhiều làng, phường
lụa nổi tiếng như La Cả, La Khê, Cương Thôn, An Thái, Nghi Tàm.
Thủ công nghiệp khai mỏ rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Để
kiểm soát việc khai mỏ, chúa Trịnh đặt các chức giám tương trông coi và thường
xuyên cử quan lại đến kiểm tra. Nhưng cuối cùng do chính sách lầm lẫn của các
chúa Trịnh cho rằng việc khai mỏ chẳng có lợi gì, lại phải đào bới nhiều hại đến
mạch đất nên nhà chúa đuổi hết thợ mỏ người Trung Quốc về nước, cấm tập
trung nhiều thợ trong mỗi mỏ... Do vậy, nghề này đã bị tàn lụi dần.
Thương nghiệp cũng phát triển lên một bước đáng kể, cả nội thương và
ngoại thương. Ở các làng hình thành nhiều chợ mới họp theo phiên, xuất hiện
một số chợ có quy mơ cấp huyện hay phủ nên có tên gọi là chợ huyện, chợ phủ.
Sự phát triển của công thương nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị
mới và làm hưng thịnh, phồn vinh các trung tâm kinh tế hàng hoá cũ. Kẻ Chợ
và Phố Hiến là hai đơ thị nổi tiếng bấy giờ ở Đường ngồi. Kẻ Chợ (hay Kinh
Kỳ) là đất Thăng Long nổi tiếng với 36 phố phường. Kẻ Chợ là một thành
phố vừa buôn bán vừa sản xuất hàng thủ công nghiệp, là trung tâm trao đổi
hàng hố ở Đường ngồi và bn bán hàng hoá với thương nhân


11
nước ngoài. Phố Hiến cũng là một thành thị sầm uất của Đường ngoài thời
bấy giờ. Nhiều thương nhân các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh,
Pháp đều có mặt và bn bán ở Phố Hiến.
Ở Đường trong có Hội An là thành phố cảng lớn nhất, từ thế kỷ XVI đã
có thương nhân nước ngồi đến bn bán, ngồi ra cịn có Thanh Hà ở tả
ngạn Huế. Về ngoại thương, ở Đàng trong cũng có bước phát triển mạnh từ
thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII. Nhiều lái bn nước ngồi đến bn bán.
Nhìn chung, quan hệ ngoại thương giữa Đường trong với các nước
phương Tây cũng giống như ở Đường ngoài, chỉ được phát triển khá mạnh mẽ
ở thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, sau đó thuyền bn các nước thưa thớt

dần và chấm dứt hẳn.
Văn hoá Đại Việt thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là sự chuyển biến về ý
thức hệ Nho, Phật, Lão. Ở thời kỳ này, cả Đàng ngoài cũng như Đàng trong
đều xem Nho giáo là nền tảng tư tưởng của mọi thiết chế chính trị, xã hội và
Nho giáo vẫn được nhà nước phong kiến bảo vệ, duy trì để làm nền tảng cho
các tổ chức chính trị, kinh tế của chính quyền, làm kỷ cương của xã hội. Tuy
vậy, Nho giáo thời kỳ này bước vào thời kỳ suy đốn dần, khơng cịn được độc
tơn như trước. Thực trạng này được biểu hiện ở lĩnh vực giáo dục, thi cử. Các
chính quyền phong kiến vẫn duy trì và mở rộng chế độ giáo dục, thi cử làm
phương tiện đào tạo quan lại, đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy ngày một đơng
đảo, nhưng khơng cịn được nghiêm túc như trước. Lối học từ chương, phù
phiếm vẫn duy trì khơng cịn thích hợp. Những ngun tắc đạo đức và lễ
giáo phong kiến chỉ cịn là những hình thức suông. Nội dung học tập thi cử
nông cạn, khuôn sáo, khơng cịn tính sáng tạo. Trong khi Nho giáo bước vào
thời kỳ suy thối dần thì Phật giáo lại được phục hưng. Các vua, chúa, quý
tộc, quan lại cả hai Đàng (ngồi và trong) đua nhau tơn thờ đạo Phật, bỏ nhiều
tiền của để trùng tu chùa cũ, xây cất nhiều chùa, tháp mới.


12
Đạo giáo cũng có bước phát triển, được vua, chúa tôn trọng. Việc tu
tiên đắc đạo, luyện đan khá thịnh hành ở Đàng ngoài.
Từ thế kỷ XVI, đạo Thiên Chúa đã du nhập vào nước ta, các giáo sĩ
theo thuyền buôn phương Tây bắt đầu đến truyền đạo ở nước ta và đạo Thiên
chúa trở thành một tôn giáo mới ở Việt Nam.
Về chế độ học tập và thi cử, thời kỳ này, ở Đàng ngoài cũng như
Đàng trong thời Lê - Trịnh, Nguyễn vẫn thực hiện giống như thể lệ đã định từ
thời Hồng Đức. Ở Đàng ngoài, theo quy định cứ ba năm mở một kỳ thi, năm
trước thi Hương thì năm sau thi Hội. Nội dung đề thi hỏi về Ngũ Kinh, Tứ
thư... Ở Đàng trong, chế độ học tập thi cử cũng được đẩy mạnh để phục vụ

cho nhu cầu củng cố bộ máy thống trị. Nhìn chung, thời bấy giờ việc thi cử ở
Đường trong khơng phát triển bằng Đường ngồi và việc thi cử có phần đơn
giản và dễ dãi hơn vì nhu cầu xây dựng chính quyền mới cần nhiều người có
văn học. Điều dễ thấy là dưới thời các chúa Nguyễn chưa tổ chức một cách
chính quy các kỳ thi Hội, thi Đình nào như ở Đường ngồi.
Sự suy thối của chính quyền kéo theo sự suy sụp nhiều mặt. Các nhà
Nho yêu nước bất mãn với chính quyền đành từ bỏ con đường công danh đi
vào con đường học thuật để góp cơng xây dựng đất nước. Do đó, nhiều nhà
thơ, nhà văn, nhà y học xuất hiện để đấu tranh cho cuộc sống tự do và phát
triển khoa học. Những nhà Nho nổi tiếng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Dữ, Ngô Thế Lân, Lê
Quý Đôn... Những tác phẩm danh tiếng phản ánh đời sống nhân dân và niềm
khao khát được tự do như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị
Điểm, Truyện Kiều của Nguyễn Du. Triết học, y học cũng có những bước
phát triển, đặc biệt y học đã phát triển lên một bước mới với sự xuất hiện của
các danh y, tiêu biểu nhất là danh y Lê Hữu Trác. Chính tinh thần yêu nước


13
thương dân, thân dân và tinh thần dung thông tam giáo, nhân tố của thời đại là
tiền đề cho sự ra đời của các tác phẩm của Lê Hữu Trác, đặc biệt là Hải
Thượng y tơng tâm lĩnh.
Qua phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII
trên tất cả các mặt, phương diện, chúng ta nhận thấy rằng có nhiều vấn đề xã
hội cấp bách buộc các nhà chính trị, các nhà tư tưởng phải giải đáp. Và chính
điều kiện ấy là cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác.
1.1.2. Tiền đề văn hóa - tư tưởng
Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác không chỉ phản ánh đặc điểm, nhu
cầu của xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII như đã trình bày ở trên, mà cịn là sự

kế thừa những tư tưởng trước đó. Lê Hữu Trác đã tiếp thu, kế thừa sáng tạo
những thành tựu y học cổ truyền của dân tộc, kế thừa và phát triển tư tưởng
triết học trong học thuyết Âm dương - Ngũ hành, học thuyết Thiên nhân hợp
nhất của Nho gia.
Về y học, người Việt Nam từ khi dựng nước đã có một nền y học dân
tộc, biết dùng dược liệu có sẵn trong nước, những phong tục dân gian để trị
bệnh. Tuy lúc này, trình độ nhận thức cịn thấp, nhưng con người cũng biết
đấu tranh với tự nhiên để sinh tồn. Từ thời thượng cổ đến họ Hồng Bàng, y
học Việt Nam đã tiến bộ, người dân đã biết nhuộm răng đen, ăn trầu, nấu
bánh chưng. Tuy nhiên y học thời kỳ nguyên thủy mang tính thần bí, mê tín,
kinh nghiệm tự phát và truyền khẩu. Người chữa bệnh là những ơng thầy
pháp, thầy bói, bùa chú, phù thủy, vì con người đặt niềm tin vào năng lực vơ
hình thần thánh. Có con người là có bệnh tật, vì mắc bệnh nên con người tìm
cách chữa trị, từ đó phát sinh nền y dược.
Sang thời kỳ tiếp theo, nước ta chịu sự đô hộ hơn 1000 năm của giặc
phương Bắc. Các triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tề, Lương, Tùy,
Đường, Tống kế tiếp nhau đô hộ và xâm chiếm Việt Nam, biến Âu Lạc thành


14
quận huyện, đồng hóa dân tộc Việt Nam trở thành thuộc địa của Trung Quốc.
Dân tộc Việt Nam thời kỳ này đã có một nền y học dân tộc phù hợp với khí
hậu vùng đất của Việt Nam, mang sắc thái độc đáo Việt Nam. Thuốc nam đã
phổ biến, người Việt biết dùng cây cỏ để trị bệnh. Người Việt cũng dùng
phương pháp luận trị theo kinh nghiệm mang tính dân gian. Đến khi Việt
Nam có cơ hội tiếp xúc với nền y học của Trung Quốc, nền y học truyền
thống Việt Nam đã tiếp thu nền y học Trung Quốc. Những thành tựu về y học
truyền thống Trung Quốc đều được người Việt Nam tiếp thu, đó là hệ thống
luận trị, y học truyền thống Trung Quốc, đó là những học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên nhân hợp nhất, thuyết Tạng tượng, thuyết Kinh lạc và thuyết
Vận khí... Tuy nhiên, thành tựu về y học truyền thống Trung Quốc cũng được

biến đổi để phù hợp với con người và vùng đất Việt Nam.
Sau chiến thắng của Ngô Quyền, nước ta thốt khỏi ách đơ hộ, bước
vào con đường tự trị. Các vị vua đầu tiên phải đối đầu với nhiều thách thức
trong việc cải cách đất nước trên mọi phương diện. Mặc dù lúc này các mặt
như hành chính, văn học, tơn giáo, triết học, y học chưa phát triển bao nhiêu,
nhưng đây là giai đoạn đánh dấu sự mở đầu cho thời kỳ tự chủ. Dân Việt Nam
đã tạo được nền văn tự riêng biệt, đó là chữ nôm. Nhiều tác phẩm nổi tiếng ra
đời, những thành tựu về y học cũng được ghi chép đầy đủ hơn xưa. Ở các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, các phương thức định bệnh (như lý luận, chẩn
đoán, điều trị, dụng dược) đều dựa vào y học Trung Quốc mà thực hiện. Các
phương pháp chữa bệnh tầm thường, thô sơ, mê tín dị đoan vẫn tồn tại trong
xã hội. Giai đoạn này, Việt Nam không ngừng tiếp thu văn học, triết học, văn
hóa và y học. Tại Việt Nam vào thời nhà Lý (1010-1224) năm 1136, đã có
những danh y kiêm pháp sư như Nguyễn Minh Không, một trong những
người phát triển y học truyền thống Việt Nam ở thời kỳ đầu.
Đến thời nhà Trần (1225-1399), y thuật vào thời kỳ này tiến bộ về nội
khoa cũng như ngoại khoa. Các lương y tuy có những bài thuốc gia truyền,


15
nhưng lý luận và điều trị vẫn dựa trên cơ sở triết học Trung Quốc. Trong đó,
thời nhà Trần (1225- 1399) y học Việt Nam bước sang một giai đoạn phát
triển mới với sự xuất hiện của nhà y học Tuệ Tĩnh. Tuệ Tĩnh sinh ở làng
Nghĩa Phú, Tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải
Dương. Ông đậu đệ nhị giáp Tiến sĩ. Hoàng Giáp Tuệ Tĩnh là một nhà sư
thông minh lỗi lạc, nghiên cứu rộng bí quyết âm dương, tìm hiểu sâu rộng
thuật Hiên Kỳ. Tuệ Tĩnh xây dựng thêm nền móng hệ thống luận trị của y học
truyền thống Việt Nam. Tuệ Tĩnh đã khái quát hóa các tư tưởng về y lý, y
thuật, phát huy nền y học nước nhà. Về sau, Lê Hữu Trác đã kế thừa Tuệ Tĩnh
trong việc biên soạn quyển Lĩnh Nam bản thảo. Các danh y đã vận dụng các

học thuyết triết học để luận giải y lý, y thuật của họ. Các tác phẩm của họ đã
phát triển nền y học truyền thống Việt Nam đến đỉnh cao của học thuật.
Nhà Hồ (1400-1406) đẩy mạnh việc phát triển xã hội, xây dựng các sở
chữa bệnh cho nhân dân, tại trung ương có thái y viện. Từ đó sách thuốc ngày
càng nhiều, sự học thuốc ngày càng sâu rộng. Việt Nam thời lập quốc đã có
cách chữa bệnh bằng nhiều phương pháp khác nhau như bùa chú, dưỡng sinh,
châm cứu, thuốc thang,… Triều đình đã có thái y viện, nền y học Việt Nam
có những bước phát triển mới. Tuy nhiên, nền móng y học Việt Nam chưa
đắp bồi được bao nhiêu thì y dược Việt Nam bị tổn thất và bị đẩy lùi vì nhà
Minh xâm lược.
Thời nhà Hậu Lê 1428-1788), vua Lê Thánh Tông (1480-1497) xây
dựng một bộ luật nổi tiếng, đó là bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này quy định về
pháp y và các phương pháp phòng chống dịch bệnh.
Từ trước cho đến thế kỷ XVIII, nền y học Việt Nam cơ bản vẫn mang
tính cổ truyền, được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm dân gian. Đến Lê Hữu
Trác, nền y học cổ truyền Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới. Với học
vấn uyên bác, óc sáng tạo, độc lập nghiên cứu, ông luôn coi trọng kinh


16

nghiệm chữa bệnh trong nhân gian, kết hợp với nghiên cứu về khí hậu, thời
tiết… Ơng có những quan điểm đúng đắn, phù hợp để chữa bệnh. Lê Hữu
Trác đã có cơng sưu tầm, thu thập những phương thuốc, kinh nghiệm trong
dân gian, đã phát hiện, bổ sung thêm nhiều vị thuốc Nam mới. Sau bao nhiêu
năm tìm tịi, nghiên cứu, ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một tác phẩm
y học vơ cùng có giá trị, đó là bộ Hải Thượng Y tơng tâm lĩnh.
Học thuyết Âm dương - Ngũ hành cũng góp phần hình thành tư tưởng
triết học của Lê Hữu Trác. Thuyết Âm dương - Ngũ hành là thuyết thể hiện
quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên, ở đó cũng thể hiện tư tưởng biện

chứng sơ khai về tự nhiên, con người và xã hội của người Trung Quốc cổ đại.
Lý luận Âm dương - Ngũ hành có ảnh hưởng rất sâu sắc đến các trường phái
cũng như cá nhân các nhà tư tưởng Trung Quốc. Học thuyết này không những
là khởi điểm của tư duy triết học Trung Quốc cổ đại, mà còn là tiền đề tư
tưởng chỉ đạo của y học truyền thống. Các nhà nghiên cứu xác định: “Thuyết
Âm dương - Ngũ hành có tác dụng nhất định với các môn học tự nhiên như
thiên văn, lịch pháp, y học, hóa học” [24, tr.314].
Theo thuyết Âm dương - Ngũ hành thì trong thế giới sự vật - hiện
tượng có hai yếu tố luôn luôn đối chọi với nhau nhưng lại thống nhất với nhau
và là khởi nguyên của mọi q trình hình thành và biến hóa, hai yếu tố đó là
âm và dương.
Ở đây âm, dương khơng phải là hủy thể của nhau mà là điều kiện tồn
tại của nhau, điều kiện tồn tại của sự vật, là động lực của vận động và phát
triển. Biểu hiện cụ thể của âm dương là các cặp đối lập. Ví dụ: sáng - tối, cao
- thấp, dài - ngắn, nhanh - chậm, nóng - lạnh, lẻ - chẵn, nam - nữ, quân tử tiểu nhân, cha - mẹ, chồng - vợ, thịnh - suy, đẹp - xấu… Trong đó, mặt thứ
nhất thuộc dương, mặt thứ hai thuộc âm, khơng có cái gì thuần âm hoặc thuần
dương mà trong mỗi sự vật bao giờ cũng có mặt đối lập (trong âm có dương,


17
trong dương có âm, ln ln tương tác, chuyển hóa cho nhau). Trong Thái
dương (dương lớn) có Thiếu âm (âm nhỏ), “dương nhỏ” trong “âm lớn” phát
triển đến cùng thì có sự chuyển hóa “âm lớn” thành “dương lớn” và ngược lại.
Quá trình diễn ra ở mặt kia (Thái dương) cũng như vậy. Và cứ như thế sự vật
vận động, phát triển không ngừng.
Trong thuyết Ngũ hành, năm yếu tố là năm đại nguyên tố nguyên thủy
của tự nhiên: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Chúng được xem là các dạng khác
nhau của vận động, là các hình thức tồn tại khác nhau của hai khí âm - dương.
Thuyết Ngũ hành cho rằng: các yếu tố vật chất nguyên thủy nói trên ln ln
vận động, có quan hệ mật thiết và chuyển hóa lẫn nhau tạo sự thay đổi. Các

nhà Âm dương đã chia sự tác động lẫn nhau của Ngũ hành là tương sinh và
tương khắc, theo chu trình lặp đi lặp lại có tính chất tuần hồn. Thổ sinh Kim,
Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa tiếp tục sinh Kim. Thổ
khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
Quá trình tương sinh là q trình bồi đắp, ni dưỡng; q trình tương khắc là
ước chế. Đây là quá trình sinh - diệt của vạn vật và thực chất quá trình tồn tại
của vật chất chính là dịng sinh - diệt liên tục, bất tận đó. Như vậy, thuyết Âm
dương - Ngũ hành thừa nhận tính vật chất của thế giới.
Quan điểm ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc là một cống
hiến quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. Tuy cịn mang tính chất
phác, tự phát, miêu tả sự biến đổi bề ngoài và quan niệm sự vận động là tuần
hồn khép kín song thuyết ngũ hành đã vẽ nên bức tranh sống động về hiện
thực, trong đó vạn vật tương tác, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau và biến đổi
khơng ngừng.
Theo thuyết này có các quy luật trong ngũ hành. Trong ngũ hành có
quy luật tương sinh, tương khắc, song đó là mối quan hệ thuận chiều. Sự khắc
chế chỉ được thực hiện khi chủ thể gây ra sự khắc chế đủ mạnh. Ví dụ, tuy thổ


18
khắc thủy, nhưng đất vách tường thì sẽ bị nước lớn cuốn trơi (trong trường
hợp này thì thủy khống chế thổ). Tuy kim khắc mộc nhưng khi mộc vượng thì
kim suy; tuy mộc khắc thổ nhưng khi thổ vượng thì mộc suy; tuy hỏa khắc
kim nhưng khi kim vượng thì hỏa suy. Cứ như vậy, vòng phản ngược của ngũ
hành cũng giống như quy luật tương sinh - tương khắc. Như vậy, trong thịnh
đã tiềm ẩn mầm suy vong. Ngũ hành tương sinh - tương khắc là kế tiếp lý
thuyết âm dương, làm lý thuyết âm dương thêm sáng tỏ. Lý thuyết âm dương
được xem làm gốc để các quy tắc ngũ hành được vận dụng trong các lĩnh vực
có hiệu quả.
Quan điểm về Âm dương cũng thể hiện qua tác phẩm Dịch truyện. Đây

là cơng trình của nhiều tác giả qua nhiều thế hệ tham gia. Dịch truyện là một
tác phẩm triết học trong đó có nhiều yếu tố duy vật, có tư tưởng biện chứng
trong quan niệm về tự nhiên và xã hội, dù cịn ở trình độ chất phác, thơ sơ.
Trong Chu dịch có hai bộ phận là Kinh (Dịch Kinh) và Truyện (Dịch truyện).
Trong Dịch Kinh có tám quẻ (khái niệm) bao quát tất cả các hiện tượng tự
nhiên, xã hội và tư duy: Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Tốn, Đoài, Khảm, Ly. Tám
quẻ này kết hợp với nhau thành 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép có sáu hào (có hào
âm và hào dương, hào âm là chẵn biểu thị bằng hai nét đứt - -, hào dương là lẻ
biểu thị bằng một nét liền - ), tất cả có 384 hào. Trong mỗi quẻ kép, các hào
tương tác “sinh” “khắc” với nhau, tạo nên muôn sự biến hóa của quẻ.
Về bản thể luận, Dịch truyện cho rằng khởi nguyên của thế giới là do
hai khí âm dương, hai khí đó giao cảm với nhau mà thành vạn vật, mà có sự
hóa sinh của vạn vật. Mở đầu của Dịch truyện (Hạ kinh) bằng quẻ Hàm. Quẻ
Hàm có Cấn (Thiếu nam, Dương) ở dưới, quẻ Đồi (Thiếu nữ, Âm) ở trên.
Cấn - Đoài giao cảm với nhau mà thành vạn vật. Biểu hiện tối cao của hai khí
âm dương (dưới dạng hình thể) là Đất - Trời. Đất - Trời giao cảm là cội nguồn
của mọi hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.


19

Các tác giả của Dịch truyện cho rằng, mọi vật luôn trong trạng thái
động, tương tác lẫn nhau, luôn luôn có sự mất đi của vật này và sự xuất hiện
của vật kia, tất cả trong một dòng chảy bất tận, khơng có vật nào đứng n. Họ
cũng cho rằng, mỗi vật trong bản thân nó bao giờ cũng có các mặt đối lập, mỗi
sự vật là sự thống nhất của các mặt đối lập đó. Một âm một dương gọi là
“Đạo”. Trong các cặp đối lập, ví dụ như Thiên dương - địa âm, Thiên cao - Địa
thấp, mặt thứ nhất là chủ động, định hướng, mặt thứ hai là bị động, phụ thuộc.
Tóm lại, vạn vật trong vũ trụ luôn tồn tại trong sự tương tác, tác động
qua lại lẫn nhau. Các quy luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành tạo cho sự

cân bằng vũ trụ. Các quy luật của Ngũ hành được diễn giải rõ trong y lý cổ
truyền phương Đông và đặc biệt trong các sáng tác của Lê Hữu Trác. Ông
khẳng định: “Nghề làm thuốc đâu có thể vượt ra ngồi ngun lý âm dương
ngũ hành mà cứu chữa được những bệnh tật nguy nan” [43, tr.217].
Tư tưởng của Nho giáo đã góp phần hình thành tư tưởng triết học của
Lê Hữu Trác. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ nở rộ xuất hiện các nhà
tư tưởng, các trào lưu triết học. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử”,
“Bách gia tranh minh”. Trong q trình đó đã sinh ra Nho giáo. Người sáng lập
ra Nho giáo chính là Khổng Tử, ông được người đời tôn vinh là Vạn thế sư
biểu. Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của người Trung
Quốc, nó ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa - xã hội, tinh thần của
người dân và đường lối trị quốc của các triều đại phong kiến. Cùng với sự phát
triển của xã hội, Nho giáo cũng có những thay đổi qua các thời kỳ: sau thời kỳ
Nho giáo tiên tần (tư tưởng của Khổng - Mạnh) là đến Hán Nho, Tống Nho…
Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời Bắc thuộc, do tầng lớp thống trị
Trung Quốc áp đặt. Nho giáo thời kỳ này khơng cịn là Nho giáo tiên Tần
ngun thủy mà là Hán Nho.
Đến thế kỷ XVIII Nho giáo vẫn là cơng cụ chính của các tập đồn
phong kiến để xây dựng chính quyền và củng cố trật tự xã hội. Chính sự rối


×