Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

SỰ ẢNH HƯỞNG của tư TƯỞNG TRIẾT học của PHẬT GIÁO đến đời SỐNG văn hóa TINH THẦN của NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.61 KB, 42 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

…………………...

..

…..……………….

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:

TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ SỰ
ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT

: TS. Bùi Văn Mƣa
SINH VIÊN TH

: Cao Đình Bền
: Cao Học Đêm 1- Khóa 19

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 03 NĂM 2010

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 0

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19



LỜI CẢM ƠN
***
Trong thời gian học tập năm đầu tiên tại Lớp Cao Học Đêm 1, Khóa 19 - Trƣờng
Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh, được sự giảng dạy của Quý Thầy Cô - Tiểu Ban
Triết Học, Khoa Lý Luận Chính Trị, đặc biệt là Thầy Bùi Văn Mƣa cùng sự giúp đỡ
của ban lãnh đạo nhà trường đã giúp em phần nào có được những kiến thức thật quý báo.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Bùi Văn Mƣa, Giảng Viên hướng dẫn đề tài Triết
học của em. Thầy đã tận tình hướng dẫn em hồn thành tốt đề tài Triết học. Nhờ những bài
giảng sáng tỏ của Thầy đã giúp em có niềm tin, ý chí và nghị lực để học tốt và hoàn thành
tốt đề tài Triết học.
Với kiến thức có hạn nên đề tài của em sẽ khơng tránh khỏi những thiết sót. Em
mong Thầy đóng góp ý kiến để đề tài của em được tốt hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và gởi lời chúc sức khỏe đến Quý Thầy Cô
của Tiểu Ban Triết Học, Khoa Lý Luận Chính Trị, Trƣờng Đại Học Kinh Tế TP. Hồ
Chí Minh.

TP. Hồ Chí Minh, Ngày 25 tháng 03 năm 2010
SVTH
Cao Đình Bền

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 0

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


NHẬN XÉT CỦA
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

***
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................
..............................................................................................................

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 0

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO ............. 1
1.1. Nguồn gốc ra đời....................................................................................................... 1

1.2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Triết học Phật giáo ............................................... 4
1.3. Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới ...................................................................... 10
1.4. Tình hình phát triển của Phật giáo........................................................................ 10
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON NGƢỜI VIỆT NAM ..... 13

2.1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý................................................... 13
2.1.1 Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng .................................................................. 13
2.1.2 Ảnh hưởng Phật giáo về mặt đạo lý ...................................................................... 14
2.2. Ảnh hưởng Phật giáo trong quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam .................... 15
2.2.1 Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hịa với các tín ngưỡng truyền thống ............. 15
2.2.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác .............................. 16
2.2.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hịa với các tơng phái Phật giáo .................... 16
2.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua gốc độ nhân văn và xã hội.......................................... 17
2.3.1 Ảnh hưởng Phật giáo qua ngôn ngữ ...................................................................... 17
2.3.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca .......................................................... 18
2.3.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học .................................................. 20
2.3.4 Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán ...................................................... 20
2.3.4.1 Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí .. 21
2.4. Ảnh hưởng Phật giáo đến thế hệ trẻ ...................................................................... 22
CHƢƠNG 3: KẾT LUẬN .................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC (10 TRANG):
1. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các quan hệ chính trị xã hội ............... 1
2. Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức ..................... 2
3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua các phong tục tập quán khác ................................... 3
3.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa ....................... 3
3.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi ......................................... 4
3.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục đốt vàng mã ...................................................... 5
3.4. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục coi ngày giờ ...................................................... 6
3.5. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng sao hạn..................................................... 6

3.6. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục xin xăm, bói quẻ ............................................... 7
4. Ảnh hưởng Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu (Hát bội, hát chèo, cải
lương và kịch nói) .................................................................................................................... 7
5. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình ........................................................ 9
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 0

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáng sinh cứu người trong bể khổ
Pháp ra đời cứu những kẻ lầm mê.
Không làm các điều ác
Gắng làm các việc lành
Ln tu tâm, tịnh ý:
Đó là lời Phật dạy
(Kinh Pháp Cú)

Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới,
tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân
bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công ngun và đã
nhanh chóng trở thành một tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con
người Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tùy từng giai đoạn lịch sử
dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tơn giáo nắm vai trị chủ đạo, có tác
động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ
thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của
thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên, những học thuyết này không được ở vị trí độc tơn mà
song song tồn tại với nó vẫn có các học thuyết, tơn giáo khác tác động vào các khu vực khác

nhau của đời sống xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đạo. Ngày nay

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 0

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


dù đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng trong hệ ý thức, tình hình
vẫn như vậy.
Trong cơng cuộc xây dựng đất nước q độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư
tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng
tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào
tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xố bỏ hồn tồn ảnh
hưởng của nó là khơng thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để
góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu
lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con
người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như
tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được
một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính chắn, chuẩn mực. Theo đạo để
làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ khơng trở nên mê
tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng
nhân dân..
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc nghiên
cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Sử
học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học đã
trở thành một trong những khoa học tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước mắt
có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Hơn nữa, quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình

hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử, tư
tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác
động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người Việt
Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát
triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 1

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


CHƢƠNG I: KHÁI LUẬN VỀ TƢ TƢỞNG
TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay Buddha). Đạo phật chính là giáo lý mà
Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước
Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Châu Á, Châu
Phi, gần đây được truyền tới các nước Châu Âu, Châu Mỹ. Trong quá trình truyền bá của
minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hố bản địa để hình thành
rất nhiều tơng phái và học phái, có tác động vơ cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn
hoá của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai của Tịnh Phạn
Vương (Suđhodana) vua nước Tịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất
NêPan) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước cơng ngun. Cuộc đời của Phật Thích Ca
được kể lại ở trong truyền thuyết như sau:
“Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người Saia mơ thấy
mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà

ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đố hoa sen ở vịi bước tới và chui
vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được mời đến để giải mơ của Hồng hậu.
Các nhà thơng thái cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ được
một Hồng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy
của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hồng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con.
Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đơ Capilavastu của người Sakia khơng xa,
Hồng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hồng tử tí hon đã đứng ngay
dậy, đi bảy bước và nói: “Thiên địa thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Đây là kiếp cuối cùng của
ta, từ nay ta không phải luôn hồi một kiếp nào nữa!).
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên là
Siđhartha (Sĩ Đạt Ta). Để ngăn cản Hồng tử khơng nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã
tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả. Hồng tử được
học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước Ấn
Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm.
Nhưng cuộc đời vương giả không cám dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần
tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi
trong vườn, Hồng tử thấy một ơng già gầy cịm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 1

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


người rồi ai cũng phải già yếu như thế, ít lâu sau Hoàng tử lại được chứng kiến người ốm và
người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn
cứu con người khỏi những trầm luân đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử. Chính
sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hy vọng và an ủi. Lần đó, Hồng tử nhìn thấy
một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất
Hồng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.

Được tin, đức vua Suddhơđana tìm mọi cách ngăn cản Hồng tử. Thế nhưng Hồng
tử khơng thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến lịng dạ của Hồng
tử khơng lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng
một Hồng nam cũng khơng làm cho Hồng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời,
khi mọi người ngủ say, Hồng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối, rồi đánh thức người
đánh xe dậy cùng mình cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đã rời khỏi đơ
thành Hồng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hồng tử
dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao
lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ơng chủ của nó nên đã
lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà
tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, ngài vào
rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định và những triết lý
của Upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của Upanishad khơng hấp dẫn
Hồng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép
xác Hồng tử gần như chỉ cịn bộ xương khơ mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát.
Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hồng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại
vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước Magadha. Cho đến một hơm
có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu
bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định
và nguyện sẽ không đứng dậy nếu khơng tìm ra sự giải thốt về điều bí ẩn của sự đau khổ.
Và Hồng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi
ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách làm
chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa
đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm nàng
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 2


SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó khơng làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho
gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hồng tử vẫn ngồi
bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của Hoàng tử, rắn thần Naga
dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hồng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện
pháp quyết liệt và tinh tế hơn để cơng phá vào thành trì kiên định của Hồng tử Sidhartha.
Nó cho gọi ba cơ con gái xinh đẹp của mình là các nàng Khát vọng, Khối lạc và Dục vọng
tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara
cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm
ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra
được cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở thành
Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ
đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân khơng biết có
nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới khơng, vì sự huyền diệu q khó hiểu đối với
mọi người. Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo
pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vườn
Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh
của mình. Sự kiện này được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo Phật và
được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp (chuyển Pháp Luân). Giáo pháp mới của Đạo Phật
đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn đồ đầu tiên
của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60 người, theo thời gian số môn
đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng già đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ trở về chân
núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã chuẩn bị mọi thứ cho các
mơn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngài viên tịch. Và ở tại một nơi thuộc ngoại vi
thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng của Phật là:
“Hỡi này các vị tỳ khưu
Những lời tối hậu lo ưu phận mình

Hữu vi là pháp cấu sinh
Vơ thường biến đổi, hữu hình hoại tiêu
Như Lai căn dặn một điều
Ráng lo tu học chớ nhiều dễ duôi”.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 3

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


1.2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn,
được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định cho cả năm bộ
phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của “Đại chúng
bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An
lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới dạng
các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo. Tạng
luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân sinh quan,
chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chữ Pháp) là vô thuỷ, vô
chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở q trình biến đổi liên tục (vơ thường) khơng
có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật
đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện tượng, hay một
lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay

các quá trình của thế giới là ln ln tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và quy định
lẫn nhau.
Tác phẩm “Thanh Dung Thực Luận” của kinh Phật viết rằng: “Có người cố chấp là
có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định ra chu pháp(1)
đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối bởi luật nhân quả, biến hố vơ thường,
khơng có cái bản ngã cố định, khơng có cái thực thể, khơng có hình thức nào tồn tại vĩnh
viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi khơng ngừng và chỉ có sự biến hố ấy là
thường cịn (vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại
nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận
mà thế giới, vạn vật, mn lồi, cứ sinh sinh, hố hố mãi.
Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết
học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các
1

(1) Dẫn theo Đồn Chính - Lương Minh Cừ - LSTH Ấn Độ cổ đại 1921

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 4

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


“đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và
không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động
của vũ trụ, là mn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật
nhưng nó khơng dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó mn hình vạn trạng nhưng lại tuân
hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong q trình biến đổi khơng ngừng, thành, trụ,

hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Q trình đó phổ biến khắp vạn
vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hố vơ thường của vạn vật, đã xây dựng
nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả
và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Dun khơng phải là một
cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của
vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành.
Lúa muốn thành cây lúa có bơng lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp
như đất, nước, khơng khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về ngun nhân biến hố vơ thường của nó,
từ q khứ đến hiện tại, từ hiện tại tới tương lai. Phật giáo đã trình bày thuyết “Thập Nhị
Nhân Duyên” (mười hai nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền
sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: (Là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).
+ Hành: (Là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái
nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân cho
Thức).
+ Thức: (Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và
làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: (Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do
danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: (Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và ý (tri
thức)). Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có
xúc - tiếp xúc. Ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


Trang 5

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc,
cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ
mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ Ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do Ái mà có Thủ. Do đó, Ái làm quả
cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho mình. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả
cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu
mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh.
Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng
chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn
vẫn ở trong vịng vơ minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ
ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi mãi gọ là
Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà
làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hố vơ thường.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời
gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên tồn bộ thế giới khơng tính đến cái lớn nhỏ,
khơng tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ
nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hồ hơp tạo nên nó. Cũng như nó hồ hợp tạo nên cả vũ
trụ bao la. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay
diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.

Vạn vât sinh hố vơ cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn
vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dịng biến hố vơ tận, vơ thường, vơ thực thể, vơ bản
ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự theo nhân dun là
thường cịn khơng thay đổi.
Do vậy tồn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dịng
biến hố hư ảo vơ cùng, khơng có gì là thường định, là thực, là khơng thực có sinh, có diệt,
có người, có mình, có cảnh, có vật, có khơng gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho
ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “chân như” là đạt
tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, khơng diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (lồi người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự
kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 6

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


- Cái tơi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” (địa, thuỷ, hỏa, phong) tức
là cái cảm giác được.
- Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà khơng
có hình chất gọi là “Danh”.
Trong “Sắc” gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ khơng nhìn thấy
được nếu nó nằm trong q trình biến đổi của “sắc” gọi là “vơ biến sắc” như vật chất
chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý (tinh thần) của con người là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội
thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.

+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ thể có
danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình hợp
tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng ln ln biến hố theo quy luật nhân hố khơng
ngừng khơng nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt cịn. Khơng có sự vật riêng
biệt, cố định, khơng có cái tơi, cái tơi hơm qua khơng cịn là cái tơi hơm nay. Kinh Phật có
đoạn viết “Sắc chẳng khác khơng, khơng chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ,
Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vơ thường, vơ định. Chỉ có những cái đó mới là chân
thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con người sẽ lầm tưởng ta
tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái,
tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt,
có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên khơng bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do quy định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta khơng thấy được cái
luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật Nhân Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp ln hồi, ln chuyển tuần hồn khơng ngừng,
khơng dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà
có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm
của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”, cịn hậu quả của những lời
nói của ta, phát ngơn của ta thì được gọi là “ khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta,
do tâm tính của ta gây nên được gọi là “ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 7

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19



nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở
dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là ln ln
biến đổi, khơng có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống
trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng
với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho rằng,
sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai vào
một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, lồi vật thậm chí cỏ cây).
Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý
giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân duyên” làm
cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con
đường giải thốt đó khơng những địi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành
động, phải thấm nhuần Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu
hiểu và thực hiện nó. Tứ Diệu Đế gồm:
1. Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết là
khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là
khổ mà được cũng là khổ. .... Những nỗi khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại mà tạo ra
nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lịng tham, sân (giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê muội) và
dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người không nắm được
nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh không biết rằng mọi
cái là ảo ảnh, sắc sắc, khơng khơng. Cái tơi tưởng là có nhưng thực là khơng. Vì khơng hiểu
được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn nguyên
của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp

chướng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế giới
nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành Thiền Định để đạt
tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới
chừng đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm
thường, tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 8

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập trung
thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc (Bát Chánh Đạo),
buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chánh kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để cho những cái
sai che lấp sự sáng suốt.
- Chánh tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chánh nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chánh ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chánh mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không được bỏ điều
nhân nghĩa.
- Chánh tinh tấn: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân lý.
- Chánh niệm: Phải ln ln hướng về đạo lý chân chính, khơng nghĩ đến những
điều bạo ngược gian ác.
- Chánh định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, khơng bị thối chí,
lay chuyển trước mọi cám dỗ.
Muốn thực hiện được “Bát Chánh Đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm
ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi

ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “Ngũ giới” (năm
điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát:

Không sát sinh

+ Bất đạo:

Không làm điều phi nghĩa, trộm cắp.

+ Bất dâm:

Không dâm dục.

+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, khơng vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
khơng nói dối.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đem cơng sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ
không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trì giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.

+ Tinh tấn: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính khơng để cho cái
xấu che lắp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát Chánh Đạo”,
“Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thốt mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


Trang 9

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


khơng chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt
chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm của Bàlamơn giáo. Đó là một trong
những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của
chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực.
Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vơ tạo
giả) và có tư tưởng biện chứng (vơ thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học
Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi xem thế giới hiện thực là ảo giả và do cái
tâm vô minh của con người tạo ra.
1.3. Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới
Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ yếu ở miền
Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực thành phố lớn mới nổi lên. Sau
khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài đã đem Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sông
Hằng về phía Đơng, phía Nam đến bờ sơng Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc
tới khu vực Thaiysiro. ở thời kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đạo
Phật bắt đầu phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Myanma, Nam tới
Xrilanca, Tây tới Xyri, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tơn giáo mang tính thế giới. Sau
khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền tới Iran, các nơi ở trung tâm Châu Á,
rồi qua con đường tơ lụa truyền vào Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ sỹ, thuỵ Điển, Tiệp
Khắc (cũ).... Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng nên khơng ít cơ sở
nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học. Ví dụ sở nghiên cứu Trung Đơng,
Viễn Đơng Italia, dưới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã biên tập và xuất bản “ Tư sách La mã với
Đông Phương” (Đến năm 1977 đã xuất bản được 51 loại) trong đó bao gồm rất nhiều trước
tác phẩm Phật giáo.

Nhưng ở trong các quốc gia này số tín đồ khơng nhiều lắm chỉ chiếm số ít phần trăm
trong tổng số dân. Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế giới ngày nay cũng chọn Phật
giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ bóng đá Rơbettơ Bagiơ, Erie Cantơna, siêu sao
màn bạc Richard Gere.
1.4. Tình hình phát triển của Phật giáo

Mƣời quốc gia có tỉ lệ tín
đồ Phật giáo cao nhất trên thế giới
Quốc gia

Phần trăm (%)

Thái Lan (Thailand)

95

Campuchia (Cambodia)

90

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 10

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


Quốc gia

Phần trăm (%)


Miến Điện (Myanmar)

88

Trung Quốc

80

Tích Lan (Sri Lanka)

70

Tây Tạng (Tibet)

65

Lào (Laos)

60

Việt Nam (Vietnam)

55

Nhật Bản (Japan)

50

Ma Cao (Macau)


45

Đài Loan (Taiwan)

43

Nguồn: Phật giáo khắp thế giới (Melbourne, Úc Châu 2001) – Thích Nguyên Tạng

Dưới đây là bảng Tổng kết số lượng Phật tử trên toàn thế giới vào tháng 7/2009 (Phần trăm
(%) số Phật tử trên tổng dân số quốc gia / vùng / châu lục được ghi trong ngoặc đơn):
Quốc gia / Vùng / Châu lục

Số Phật tử

Phần trăm (%)

Trung Quốc (ước lượng “lạc quan”)

1.070.893.447

(80.00%)

Trung Quốc (ước lượng “bi quan”)

669.308.405

(50.00%)

Nhật Bản


122.022.837

(50.00%)

Thái Lan

62.626.649

(95.00%)

Ấn Độ

37.913.134

(3.25%)

Tích Lan

14.933.050

(70.00%)

Những nước Á châu khác

280.209.398

(21.00%)

Á CHÂU (ước lượng “lạc quan”)


1.588.598.515

Á CHÂU (ước lượng “bi quan”)

1.187.013.473

Hoa Kỳ

6.135.071

(2.00%)

Canada và các Quốc gia đảo Bắc Mỹ

368.447

(1.10%)

BẮC MỸ

6.503.518

Đức Quốc

905.657

(1.10%)

Pháp Quốc


773.215

(1.20%)

Anh Quốc

733.394

(1.20%)

Những nước Âu châu khác

785.700

(0.15%)

ÂU CHÂU

3.197.966

CHÂU MỸ LATINH & NAM MỸ

868.929

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 11

(0.15%)


SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


Quốc gia / Vùng / Châu lục

Số Phật tử

Phần trăm (%)

ÚC CHÂU VÀ ÚC ĐẠI LỢI

618.752

(1.80%)

PHI CHÂU

194.550

(0.02%)

TOÀN THẾ GIỚI (ước lượng “lạc quan”)

1.599.982.230

Khoảng 1.6 tỉ

TOÀN THẾ GIỚI (ước lượng “bi quan”)


1.198.397.188

Khoảng 1.2 tỉ

Nguồn : thedhamma.com
Như vậy, số lượng Phật tử hiện nay trên thế giới là khoảng từ 1.2 tỉ đến 1.6 tỉ. Số lượng nầy
thì gần bằng số lượng tín đồ của hai tơn giáo lớn nhất thế giới là Hồi giáo và Thiên Chúa
giáo (gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo và Chính Thống giáo).
Ngay cả với số lượng “bi quan” (1.2 tỉ), con số nầy cũng cao hơn rất nhiều con số “300 đến
500 triệu” thường được ghi chú trong các tài liệu trích dẫn.
Điều quan trọng khi biết được con số thực sự là để viết sử cho chính xác, và để biết rằng
chúng ta khơng “cô đơn” khi chúng ta tư duy và hành xử. Điều chúng ta phấn đấu khơng
phải là có thêm nhiều Phật tử mà là có thêm nhiều “Phật đà” (kẻ thức tỉnh) hầu nội tâm
chúng ta cũng như nhân loại được bình an.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 12

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN
XÃ HỘI VÀ CON NGƢỜI VIỆT NAM:
2.1. Ảnh hƣởng Phật giáo về mặt tƣ tƣởng triết học và đạo lý
2.1.1.Về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Ðế và Bát chánh
Ðạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, Nguyên Thủy cũng như
Ðại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Ðạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại. Duyên khởi

nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các sự kiện thuộc thế
giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện tượng về thế giới tự nhiên
như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại.
Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần
gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là
những điều kiện có tư liệu cho nhân dun ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên
cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ
tư là Ðẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh
trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể gọi là
luật nhân quả của Ðạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc khơng bao giờ có
khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trị quả, cho một nhân khác. Về
giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Ðạo Phật đã đưôĩc truyền vào nước ta rất
sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với
người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu
thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với
giới bình dân mà cịn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh
hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn
chương bình dân, trong văn học chữ nơm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho
tốt đẹp đem lại hịa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên
biết câu: "ác giả ác báo". Chúng phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối
phương, hay "chạy trời không khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là
định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống
ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 13

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19



đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu
tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong truyện Kiều rằng:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Hoặc:
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển
nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là đến được
trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác
từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý của chính mỗi cá nhân. Chứ khơng ngồi một chỗ tưởng tượng
đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mìn. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác,
dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
2.1.2.Về đạo lý
Ðạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật giáo đã ảnh
hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Ðều này ta thấy rõ qua con
người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng
việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị
nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Ơng nói điều đó trong
Bình Ngơ Ðại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Ðem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta khơng những

khơng giết hại mà cịn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.
Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 14

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến
trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Ðó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm nhuần và
thuộc nằm lịng, nói lên lịng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là
đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Ðạo lý này được
xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc
Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan
dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất
nước và mở rộng đến quê hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Ðặc
biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm
và đạo lý của người Việt. Vì đạo Phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Ðức Phật đã
thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai
Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Ðại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan... nhắc đến công lao dưỡng
dục của cha mẹ, Phật dạy: "mn việc ở thế gian, khơng gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao
của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện khơng gì hơn
hiếu, cùng tốt điều ác khơng gì hơn bất hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu

như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực hiện là nhắm
vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sanh, vũ trụ, đó là môi trường sống của
chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Ðạo lý Tứ Ân cịn có chung cái động cơ thúc đẩy là
Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc
chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo
Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần
làm phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2. Ảnh hƣởng Phật Giáo qua q trình hội nhập văn hóa Việt Nam
2.2.1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống:
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa, do
vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ Pháp thực ra vẫn chỉ là
những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Ðá. Lối
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 15

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các
vị thần, các vị thánh, các vị thành hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc... Chính vì tinh thần
khai phóng này mà về sau phát sinh những hậu quả mê tín dị đoan bên trong Phật Giáo như
xin xăm, bói quẻ, cầu đồng.. các nhà nghiên cứu nước ngoài rất ngạc nhiên khi thấy Phật
Giáo Việt Nam dung nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa thần của bản địa trong khi các quốc gia
trong vùng thì khơng có. Có nên gạt bỏ loại hình tín ngưỡng truyền thống này ra khỏi Phật
Giáo không? Vẫn là một vấn đề rất tế nhị, tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng tinh thần dung
hịa và khai phóng của Phật Giáo Việt Nam là một trong những nét đặc trưng đáng chú ý.
2.2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các tơn giáo khác:
Ðó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Ðạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được các

nhà vua thời Lý cơng khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hịa và điều hợp này
mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưởng truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng
phải Phật giáo Ấn Ðộ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, mà nó là tất cả những
khuynh hướng tâm linh của người dân Việt. Nó thực ra là cái "Ðồng Qui Nhi Thù Ðồ", cùng
về một đích mà đường lối khác nhau, chính tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam
đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy
bằng con đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Ðạo
giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất
quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ
để đạt tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Ðó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam
Giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão
Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
2.2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa giữa các tơng phái Phật Giáo
Ðây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia Phật
Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia chỉ có Phật Giáo
Nam Tông, ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ thuần túy chỉ có Phật Giáo Bắc
Tơng. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hịa và điều hợp cả Nam Tơng và Bắc Tơng. Chính vì
tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt
Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy thiền tông chủ trương bất lập văn tự, song ở Việt
Nam chính các vị thiền sư xưa lẫn nay đã để lại rất nhiều trước tác có giá trị, đặc biệt các
thiền viện ở Việt nam điều tụng kinh gõ mõ như các tự viện Tông Tịnh Ðộ. Dịng thiền Tỳ
Ni Ða Lưu Chi thì kết hợp với Mật Giáo, có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ
Ðạo Hạnh, Nguyễn Minh Không điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 16

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19



Ðiều đặc sắc ở đây là trong khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư Việt Nam đã
không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Ðộ và Trung Hoa mà mở lấy một con đường
riêng, phù hợp với dân tộc. Và trong khi tiếp nhận với hai luồng ảnh hưởng ấy, các thiền sư
Việt Nam đã khéo léo điều chỉnh tính hai cực, Ấn Ðộ-Trung Hoa: một bên thì q ham
chuộng sự bay bổng, thần bí, một bên quá thực tiễn duy lý. Khi Phật Giáo vào Trung Hoa đã
gây cho các nhà Phật học những cuộc tranh luận sôi nổi về giáo pháp. Rồi suốt cả q trình
lịch sử của nó là sự phái sinh ra những tôn giáo, là những cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội,
điển hình là cuộc đấu tranh giữa phái Thiền Nam Phương của Huệ Năng với Thiền Phái
Miền Bắc của Thần Tú vào thời kỳ sơ đường. Còn ở Việt Nam thì khác, trên pháp đàn tư
tưởng thời Lý cũng như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam và các thời kỳ
sau này khơng có những mâu thuẩn đối lập mà tất cả điều quy về một mục đích chính là tu
hành giải thốt. Phải chăng sự thống nhất về ý thức tư tưởng, dung hịa giữa các tơng phái
và đồn kết dân tộc đã uốn nắn Phật Giáo Việt Nam theo con đường dung hịa thống nhất đó?
2.3. Ảnh hƣởng Phật Giáo qua gốc độ nhân văn và xã hội
2.3.1. Ảnh hưởng qua ngôn ngữ
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều từ ngữ chịu
ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả những người ít học. Tuy
nhiên khơng phải ai cũng biết những từ ngữ này được phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn
như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lịng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá".
Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của Phật Giáo. Theo Ðạo Phật tội nghiệp là tội của
nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật
thì khơng có một hiện tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ
là kết quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên đó (theo đạo Phật
gọi đó là nhân dun) khi chín mùi, thì đem lại kết quả. Mọi người điều nói tội nghiệp
nhưng khơng phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn
bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu vào nhận thức dân gian với
những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão" hay là câu thơ bình dân:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
Hoặc khi muốn diễn tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu

hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều, bởi
khi xưa Ðức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Ðộ, cho nên khi
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 17

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


cần mơ tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sơng Hằng. Hoặc khi có những tiếng
ồn náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa vào những ngày sám hối, chùa
thưởng chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Lại có những
người rày đây mai đó, ít khi dừng chân ở một chổ, khi người ta hỏi anh đi dâu mãi, họ trả lời
tôi đi "ta bà thế giới". Ta bà thế giới là thế giới của Ðức Phật Thích Ca giáo hóa, theo thế
giới quan của phật giáo thì thế giới ta bà to gấp mấy lần quả địa cầu này, hoặc khi các bà nẹ
Việt Nam la mắng các con hay quậy phá, các bà nói: "chúng bay là đồ lục tặc", tuy nhiên họ
không biết từ lục tăc này phát xuất từ đâu? Ðó là từ nhà Phật, chỉ cho sáu thằng giặc: sắc,
thanh, hương, vị, xúc và pháp của ngoại cảnh lng ln quấy nhiễu ta. Một từ ngữ có sâu
xa như vậy, nhưng khi Phật Giáo truyền bá vào Việt Nam đã bị Việt Nam hóa trở thành lời
mắng của các bà mẹ Việt Nam. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn trong cuốn Tam Giáo
Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng:
Và như sáu giặc trong mình,
Chẳng nên để nó tung hồnh khuấy ta
Cịn nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam
quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh hưởng phật giáo
không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó cịn lan rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ
ca của người dân Việt Nam nữa.
2.3.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca
Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo
lý của Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài

này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc
sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Về sự ảnh hưởng quan niệm hiếu hạnh:
Là người Việt Nam không thể khơng hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở
thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao
đẹp này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục,
một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc
Việt. Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh hưởng
của đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc từ buổi đầu của công
nguyên, mà đạo phật là đạo hiếu, lời dạy của phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 18

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


cảm giác suy tư in đậm trong lòng của người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên
ngang qua ca dao dân ca, mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con
Hay:
Núi cao biển rộng mênh mơng
Cù lao chín chử ghi lịng con ơi
Mến cảnh chùa chiền, Phật tượng, nhưng hiếu hạnh của người con vẫn đặt lên trên vì cơng
ơn trời biển của cha mẹ trong suốt quá trình dưỡng dục sinh thành, biết bao nhọ nhằn, gian
khổ đối với con. Do đó:

Vơ chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ cơng phu chưa đành.
Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người con luôn luôn cầu nguyện Phật, Trời gia hộ cho hai
đấng từ thân:
Ðêm đêm khấn nguyện Phật Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Thực ra, hiếu tâm tức thị phật tâm, hiếu hạnh vô phi phật hạnh, làm trịn bổn phận cùa người
con đối với cha mẹ chính là một trong những pháp tu của nhà phật:
Tu đâu mà bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Về sự ảnh hưởng quan niệm nhân quả:
Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi
chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và
hạnh phúc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Trang 19

SVTH: Cao Đình Bền, Lớp Cao Học Đêm 1 – Khóa 19


×