Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội lim ở bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI LIM
Ở BẮC NINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI LIM
Ở BẮC NINH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VĂN THỊ THANH MAI



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trìng nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Văn Thị Thanh Mai, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu
liên quan đã được đề cập trong luận văn. Các tài liệu trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hằng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau Đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
tôi học tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến
TS. Văn Thị Thanh Mai, Phó Tổng biên tập Tạp chí Tuyên Giáo, Ban Tuyên
giáo Trung ương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan
tâm giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017

Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hằng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .......................................................... 7
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................... 8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 8
7. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn .......................... 8
10. Kết cấu của luận văn................................................................................ 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC
NINH HIỆN NAY ............................................................................ 10

1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt............................................... 10
1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền ................................................10
1.1.2. Giá trị văn hóa của lễ hội ....................................................................15

1.1.3. Đặc trưng của lễ hội cổ truyền............................................................17
1.2. Nguồn gốc lễ hội Lim.......................................................................... 21
1.2.1. Một số yếu tố có ảnh hưởng đến lễ hội Lim ở huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh .......................................................................... 21
1.2.2. Lịch sử chùa Lim và sự ra đời của lễ hội Lim ..................................27
1.2.3. Quá trình diễn ra lễ hội Lim................................................................32


Chương 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC
NINH HIỆN NAY ................................................................................62

2.1. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim ............................... 62
2.1.1. Giá trị văn hóa của lễ hội Lim ............................................................62
2.1.2. Quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội
Lim hiện nay ........................................................................................69
2.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Lim ........... 79

2.2.1. Kết quả đạt được ................................................................... 75
2.2.2. Hạn chế .................................................................................................88
2.3. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa lễ hội Lim .................................................................. 92
2.3.1. Phương hướng ......................................................................................92
2.3.2. Giải pháp ...............................................................................................93
2.3.3. Kiến nghị ...............................................................................................97
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 100
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 103
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI LIM ............................................................ 111



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội truyền thống xuất hiện từ rất lâu đời trong lịch sử nhân loại, bắt
nguồn và phát triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội; từ sự giao lưu, tiếp
biến văn hóa của cộng đồng. Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào, vùng miền nào
cũng có lễ hội, tuy hình thức và nội dung có thể không giống nhau. Lễ hội truyền
thống là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, chứa đựng những khát vọng,
những ước muốn tâm linh vừa linh thiêng, vừa trần tục của cộng đồng dân cư
trong những hoàn cảnh cụ thể. Đây là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân
tộc, được lưu giữ suốt chiều dài lịch sử của mỗi quốc gia dân tộc.
Cha ông ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để lại cho
các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau những di sản truyền thống vô cùng
quý giá, trong đó có hệ thống lễ hội văn hóa đặc sắc. Lễ hội, một di sản văn
hóa quý báu đã đồng hành, tồn tại và tạo nên ký ức văn hóa của dân tộc. Vượt
qua thời gian, lễ hội đã lan tỏa và có sức sống lâu bền trong đời sống nhân
dân. Những năm qua, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và
tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao. Do đó, lễ hội và việc tham
gia các lễ hội truyền thống càng trở thành một nhu cầu, một món ăn tinh thần
không thể thiếu của người dân. Nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng,
phong phú và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân, vấn đề bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của các lễ hội truyền thống ở các địa phương;
trong đó, một mặt, khai thác, phát huy những giá trị đặc sắc của mỗi lễ hội,
mặt khác khắc phục được những hạn chế, tiêu cực từ công tác tổ chức và các
hoạt động của lễ hội đã trở thành yêu cầu bức thiết.
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2015, cả nước hàng năm có
hơn 8.000 lễ hội, trong đó, tại Bắc Ninh có gần 600 lễ hội với quy mô lớn nhỏ



2

khác nhau. Miền đất Kinh Bắc xưa là nơi địa linh nhân kiệt, quê hương của
Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa nghệ thuật
đặc sắc với những làn điệu Quan họ trữ tình đằm thắm đã được UNESCO
công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Con người Bắc Ninh
mang trong mình truyền thống văn hóa Kinh Bắc, mang đậm nét dân gian của
vùng trăm nghề như; tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ tranh
dân gian... Bắc Ninh cũng là vùng đất có nền văn hóa lâu đời, với nhiều lễ hội
truyền thống, đặc sắc nhất là lễ hội Lim - cơ sở, điều kiện để văn hóa Quan họ
ra đời và phát triển. Lễ hội Lim đã khơi dậy truyền thống tốt đẹp của quê
hương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tâm linh và văn hóa tinh
thần của đông đảo tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, nên sự
độc đáo, ý nghĩa nhân văn của lễ hội Lim; trong đó hát Quan họ, đấu võ, đấu
vật đầu cờ... đã có những biến tướng, gây phản cảm với du khách tham gia lễ
hội. Hát Quan họ với cảnh ngửa nón xin tiền gây bức xúc, cảnh đấu võ dẫn
đến đấu lộn tại lễ hội, các hiện tượng tiêu cực, mê tín dị đoan, thương mại hóa
trong lễ hội… là nỗi trăn trở của các cơ quan chức năng, quản lý và cả du
khách. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu về lễ hội Lim, thông qua đó góp phần
làm sâu sắc hơn giá trị văn hóa của lễ hội Lim, nâng cao chất lượng việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội là một việc làm hết sức cần thiết,
thiết thực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu
cầu phát triển bền vững của đất nước. Trên tinh thần đó, tác giả chọn đề tài:
“Bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ rất sớm, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu và khảo

sát về lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội Lim nói riêng, với nhiều góc độ


3

nhìn nhận khác nhau nhằm tìm kiếm, giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lễ hội
Trước Cách mạng Tháng Tám, các công trình nghiên cứu về lễ hội ít
được chú ý. Một số học giả thời kỳ này đã đề cập đến lễ hội trong các công
trình nghiên cứu văn hóa như: “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính;
“Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Góp phần nghiên cứu văn
hóa Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên. Sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến năm 1954, do hoàn cảnh cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, nên hầu như lễ hội ít được quan tâm, nghiên cứu, sưu tầm.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt, các công
trình nghiên cứu về lễ hội ở hai miền Nam - Bắc cũng khác nhau. Miền Bắc
có các công trình nghiên cứu: “Một số tục cổ và trò chơi Việt Nam trong tết
nguyên đán và xuân” của Nguyễn Đổng Chi; "Thời Đại Hùng Vương” của Lê
Văn Lan; "Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng... Miền Nam có một số
công trình nghiên cứu như: "Lễ tế xuân hay Đám rước thần nông” của
Nguyễn Bửu Kế; "Nhớ lại hội hè đình đám” của Nguyễn Toại; "Mùa xuân với
đời sống tình cảm Việt Nam”, "Trẩy hội hành hương” của Nguyễn Đăng
Thục; "Nếp cũ hội hè đình đám quyển thượng” của Toan Ánh.
Từ 1975 đến nay đã có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lễ
hội như “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh; "Lễ hội truyền thống và hiện đại"
của Thu Linh - Đặng Văn Lung; “60 lễ hội truyền thống Việt Nam" của Thạch
Phương - Lê Trung Vũ; “Lễ hội Việt Nam” của Lê Trung Vũ - Lê Hồng Lý;
"Lễ hội cổ truyền" do Lê Trung Vũ chủ biên; "Lễ hội truyền thống trong đời
sống xã hội hiện đại" do Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng chủ biên; “Ý nghĩa

xã hội và văn hóa của hội lễ dân gian và văn hóa dân gian Việt Nam với sự
phát triển của xã hội Việt” của Đinh Gia Khánh; “Lễ hội cổ truyền của người


4

Việt ở Bắc Bộ” của Lê Trung Vũ… cùng một số công trình khác như: Hội
thảo khoa học quốc tế “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại”;
Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông Tin về “Quản lý lễ hội cổ truyền:
thực trạng và giải pháp” (Nguyễn Thu Linh - Phan Văn Tú)... Trong đó:
Hội thảo quốc tế về Lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội và hiện đại
của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam), 1993, đã luận bàn về vai trò của lễ hội truyền thống trong xã hội
đương đại. Trong đó, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã cho rằng: Lễ hội không phải
là một hiện tượng văn hóa bất biến, mà nó có sự đổi thay qua thời gian. Sự
biến đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hòa của nó đối với không
gian và thời gian nhất định.
Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu cho
rằng: Lễ hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lui vào huyền thoại, cô lập con người.
Lễ hội cũng không phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những
cảm giác bồng bềnh, ngây ngất, nhằm mục đích thoát ly cuộc sống, mà lễ hội là
ký ức, là những giá trị văn hóa tinh thần được lưu truyền, trao truyền cho các thế
hệ sau. Bên cạnh đó, GS. Lê Hữu Tầng đã đặt câu hỏi: Lễ hội có thực sự là
nhu cầu của đa số người dân hay không? hay đó chỉ là nhu cầu do một số
người muốn lợi dụng lễ hội để tiến hành các hoạt động mê tín dị đoan, nhất là
kinh doanh lễ hội để kiếm lời khai thác? Những biến đổi kinh tế - xã hội sẽ
tác động ra sao đối với nhu cầu hội lễ của người dân và ngược lại?...
Từ những ý kiến nêu trên, nhận xét có tính khẳng định của GS. Ngô Đức
Thịnh là: Lễ hội có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói
chung và đời sống xã hội đương đại nói riêng. Trong xã hội đương đại, lễ hội

truyền thống giữ năm giá trị cơ bản là: Một là, giá trị cộng đồng, trong đó, lễ hội
chính là “sự biểu dương sức mạnh của cộng đồng” và là chất kết dính tạo nên “sự
cố kết cộng đồng”. Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm “cộng


5

mệnh” và “cộng cảm” của sức mạnh cộng đồng. Hai là, giá trị hướng về nguồn:
Lễ hội có nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng. Chính vì vậy, lễ hội thường
gắn với hành hương - du lịch. Ba là, giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Lễ hội góp
phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người. Bốn là, giá trị
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa: Lễ hội do nhân dân tự tổ chức, làm tái hiện các
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, và cũng chính bản thân họ là những người hưởng
thụ các sinh hoạt văn hóa đó. Năm là, giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc: Lễ hội truyền thống là một bảo tà`ng sống về văn hóa dân tộc,
nhờ đó, nền văn hóa ấy được hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua các thế hệ.
Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa - Thông tin “Quản lý lễ hội cổ truyền:
thực trạng và giải pháp” của nhóm nghiên cứu Nguyễn Thu Linh và Phan
Văn Tú nhấn mạnh: “Con người các thế hệ đã biết và hiểu về lịch sử - văn hóa
dân tộc/địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè. Rất nhiều trò chơi, trò
diễn dân gian có giá trị tìm lại được môi trường phục sinh và tôn tạo. Hàng loạt
các nghề thủ công - mỹ nghệ, ẩm thực truyền thống… được củng cố và phát
triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho không ít lao động, góp phần
bảo vệ di sản công nghệ dân gian đang có cơ trở thành hàng hóa có giá trị trong
xã hội hiện đại” [57, tr.15 ].
Các ý kiến nêu trên đã khẳng định rằng, lễ hội đang trở thành một sản
phẩm của ngành du lịch, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển
kinh tế- văn hóa ở nhiều địa phương nói chung, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Các
công trình trên đã giúp tôi có cái nhìn tổng quan về vị trí, vai trò của lễ hội
trong đời sống, nhất là nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Đồng thời những tư liệu

này giúp tôi thêm hiểu biết về hệ thống lễ hội truyền thống, giúp chúng tôi kế
thừa trong quá trình giải quyết yêu cầu của luận văn.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội Lim
Trong những năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, kinh tế xã
hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng


6

cao, nhu cầu tìm về với những giá trị truyền thống ngày càng lớn. Lễ hội Lim
- một lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa dân tộc của người Kinh Bắc - Bắc
Ninh thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới. Đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về lễ hội Lim như: “Hội xứ Bắc” của Sở Văn hóa thông
tin Hà Bắc; “Địa chí Hà Bắc” của Trần Linh Quý; “Hội hè đình đám” của
Toan Ánh; “Bắc Ninh thổ tạp kỹ” của Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội Hà
Nội; “Một số vấn đề về dân ca Quan họ” của Lê Thị Nhâm Tuyết; “Từ những
lề lối của hát Quan họ” của Mã Giang Lân; “Quan họ, nguồn gốc và quá trình
phát triển” của Trần Linh Quý, Đặng Văn Lung, Hồng Thao; “60 lễ hội truyền
thống của người Việt Nam” của Thạch Phương, Lê Trung Vũ; “Hội Lim truyền
thống và hiện đại” (Sở văn hóa thông tin Tỉnh Bắc Ninh); “Các di tích lịch sử
văn hóa Bắc Ninh” của Lê Viết Nga; “Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh gắn với hoạt động du lịch” của Sở Văn hóa
thể thao Bắc Ninh; “Góp phần tìm hiểu lễ hội ở Hà Bắc” của Trần Đình Luyện;
“Những yếu tố cơ bản để xây dựng lễ hội ở Hà Bắc” của Lê Hồng Lý...
Trong cuốn sách Hội xứ Bắc, Sở Văn hóa thông tin Hà Bắc, tập 2,
1989, tác giả Khổng Đức Thiêm với phần trình bày: Hội Lim, hồn nước gọi ta
về, đã nêu rõ về nguồn gốc, diễn biến của hội Lim khá chi tiết.
Cuốn sách 60 lễ hội truyền thống của người Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội của các tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ xuất bản năm
1995, có dành một phần trong sách để nói về lễ hội Lim, với những làn điệu

dân ca Quan họ từ hát trong nhà, hát ngoài đồi, đến hát trên thuyền, thi cỗ
chay, thi dệt vải, đấu vật,...
Cuốn sách Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh của tác giả Lê Viết
Nga, Nxb Bảo tàng Bắc Ninh, 2005, đã liệt kê các di tích lịch sử trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh; trong đó có dành một chương trình bày về lễ hội Lim với
những nét tiêu biểu, độc đáo.


7

Ngày 2-11-2004, Sở văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với
Ủy ban nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội thảo khoa học:
Hội Lim truyền thống và hiện đại. Với 21 tham luận trên tổng số 29 tham luận
của các nhà khoa học gửi đến, đây là lần đầu tiên, hội Lim được xem xét về
nhiều mặt góp phần làm sâu sắc hơn những giá trị tinh thần của hội Lim trong
đời sống người dân Việt Nam nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết nghiên cứu về lễ hội Lim đăng
trên báo Nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Văn học, Văn hóa - Nghệ
thuật,.... Các trang báo điện tử như: tiendu.bacninh.gov.vn, nhandan.com.vn,
daidoanket.vn, quanhobacninh.vn, dantri.com, lehoithegioi.com,... như: “Lễ
hội Lim”, “Nguồn gốc và ý nghĩa ngày hội Lim 13.1 âm lịch”, “Ghé về Bắc
Ninh tham gia lễ hội Lim đặc sắc”, “Lễ hội Việt Nam: Lễ hội Lim”... cũng đã
đề cập và tìm hiểu khá toàn diện, làm sáng tỏ những vấn đề về lễ hội Lim.
Những công trình nghiên cứu, tài liệu trên là nguồn tài liệu tham khảo
quý báu giúp tác giả tìm hiểu và kế thừa những kết quả nghiên cứu của những
người đi trước trong quá trình triển khai luận văn. Tuy nhiên, chưa có công
trình nghiên cứu chuyên sâu nào về “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay”. Vì vậy, đề tài của luận văn là mới và không
trùng lặp với các công trình nghiên cứu và luận văn, luận án đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
của lễ hội Lim ở Bắc Ninh, đề ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị, góp
phần nâng cao chất lượng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội
Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay


8

5. Giả thuyết khoa học
Nếu phân tích, làm rõ được những thực trạng của lễ hội Lim, thì từ đó
sẽ đề ra được những biện pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của
lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện được
các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nguồn gốc của lễ hội Lim, thực trạng cách thức tổ chức lễ hội
Lim xưa và nay.
- Nghiên cứu những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.
- Đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Phần lễ, phần hội trong lễ hội Lim ở tỉnh Bắc Ninh.
- Thời gian: Lễ hội Lim ngày xưa và hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lập trường thế giới quan của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa nói chung, bảo

tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống nói riêng, luận văn sử dụng
các phương pháp của phép biện chứng duy vật và lịch sử để luận giải các vấn
đề có liên quan. Đồng thời luận văn kết hợp phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp liên ngành và chuyên ngành, tổng hợp và phân tích... để giải
quyết yêu cầu của đề tài.
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
Những luận điểm cơ bản
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của lễ hội Lim.


9

- Những giá trị văn hóa của lễ hội Lim.
- Thực trạng, giải pháp, kiến nghị về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của lễ hội Lim ở Bắc Ninh hiện nay.
Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn nghiên cứu có hệ thống về lễ hội Lim, cung cấp cho người
đọc một hệ thống tư liệu phong phú, những giá trị văn hóa đích thực của lễ
hội Lim trong đời sống của người Việt.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa lễ hội Lim, luận văn sẽ đề ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị, góp
phần nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, quản lý lễ hội cổ truyền nói
chung, lễ hội Lim nói riêng.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết.


10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI LIM Ở BẮC NINH HIỆN NAY
1.1. Lễ hội trong đời sống của người Việt
1.1.1. Quan niệm về lễ hội, lễ hội cổ truyền
 Lễ hội
Việt Nam là đất nước có nền văn hóa lâu đời, nhiều cộng đồng dân tộc
cùng sinh sống trên một lãnh thổ thống nhất, cùng đóng góp phong tục tập
quán mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền, dân tộc, tôn giáo...; góp phần
làm lên một nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc. Trong đó, lễ hội là yếu
tố vừa mang nét đặc trưng cho mỗi dân tộc, vừa làm cho văn hóa của dân tộc
Việt ngày càng phong phú và đặc sắc hơn.
Cho đến hiện nay, khái niệm lễ hội vẫn còn nhiều cách hiểu và lý giải
khác nhau trong giới nghiên cứu. Thực tế đã xuất hiện một số ý kiến hoặc nói
về chung lễ hội, hoặc nói riêng về từng phần lễ hay hội trong cấu trúc lễ hội.
Các ý kiến đó dựa trên thực tế có những sinh hoạt văn hóa dân gian có lễ mà
không có hội hoặc ngược lại.
Lễ hội theo học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương thì
gọi là đại hội (vào đám hay vào hội) [1, tr.255]. Về sau, nhiều học giả đã thay
thuật ngữ này bằng các thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, trong các công
trình nghiên cứu qua tên sách, tên bài viết đã có nhiều cách gọi khác nhau.
Toan Ánh trong cuốn sách “Nếp cũ hội hè đình đám” quan niệm: hội hè
đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn xã nhân dịp vào đám và
trong dịp đám này có nhiều trò mua vui cho dân thôn giải trí [2, tr.9]. Quan
niệm trên đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của các hoạt động vui chơi, sinh
hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi thức mang tính tâm
linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.



11

Theo Bùi Thiết, “Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là các
hoạt nghi lễ đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hóa truyền
thống” [91, tr.125]. Khác với Bùi Thiết, Thu Linh cho rằng: “Lễ (cuộc lễ)
phản ánh những sự kiện đặc biệt, về mặt hình thức lệ trong các dịp này trở
thành hệ thống những nghi thức có tính chất phổ biến được quy định một cách
nghiêm ngặt nhiều khi đạt đến trình độ một “cải diễn hóa” cùng với không khí
trang nghiêm đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là điểm giao thoa giữa lễ với
hội, và có lẽ cũng vì vậy người ta thường nhập hai từ lễ hội” [52, tr. 27].
Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ
thống đan quện và giao thoa với nhau: 1) Hệ thống lễ: Bao gồm các nghi lễ
của tín ngưỡng dân gian và tôn giáo cùng với các lễ vật được sử dụng làm đồ
lễ mang tính linh thiêng, được chuẩn bị rất chu đáo và nghiêm túc. Thông qua
các nghi lễ này con người được giao cảm với thế giới siêu nhiên là các thần
thánh (các nhiên thần và nhân thần), do chính con người tưởng tượng ra và họ
cầu mong các thần thánh bảo trợ và có tác động tốt đẹp đến tương lai cuộc
sống tốt đẹp của mình. 2) Hệ thống hội: Bao gồm các trò vui, trò diễn và các
kiểu diễn xướng dân gian, cụ thể là các trò vui chơi giải trí, các đám rước và
ca múa dân gian...- chúng đều mang tính vui nhộn, hài hước, song đôi khi
chưa thể tách ra khỏi việc thờ cúng [49, tr.5-9].
Bên cạnh đó, theo Phạm Quang Nghị: “Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, có tính phổ biến trong cộng đồng xã hội, có sức lôi cuốn đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia. Là sản phẩm sáng tạo của các thế hệ tiền nhân
để lại cho hôm nay, lễ hội chứa đựng những mong ước thiết tha vừa thánh
thiện, vừa đời thường, vừa thiêng liêng, vừa thế tục của bao thế hệ con
người”[66, tr. 96].
Giáo sư Đinh Gia Khánh quan niệm: “Đặc điểm cơ bản của văn hóa dân
gian (trong đó có lễ hội) là tính nguyên hợp... tức nói rằng quan hệ nghệ thuật ấy



12

người ta nhận thức hiện thực như một tổng thể chưa bị chia cắt” [42, tr.12]. Tác
giả Trần Bình Minh cho rằng: “Lễ và hội hòa quện, xoắn xít với nhau để cùng
nhau biểu thị một giá trị nào đó của một cộng đồng. Trong lễ cũng có hội và
trong hội cũng có lễ” [69, tr. 120].
Còn nghiên cứu về “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch”,
Dương Văn Sáu cho rằng: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng
diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm
nhắc lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp
biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên thần thánh và
con người với xã hội” [81, tr. 35]. Nguyễn Tri Nguyên khẳng định: “Lễ hội là
sự thể hiện, là sự phát lộ của ký ức văn hóa dân tộc. Giống như gien di truyền,
ký ức văn hóa chứa đựng hàm lượng thông tin các giá trị văn hóa của quá khứ
qua các truyền thống văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc và sự đa dạng văn hóa,
cũng thiết yếu đối với sự sống con người tựa như sự đa dạng sinh học trong
thế giới tự nhiên” [68, tr. 54 - 56]…
Như vậy, dù có khác nhau về cách diễn đạt, song các nhà nghiên cứu
đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu trúc nên lễ hội (phần lễ tức là nghi
lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, linh thiêng; phần hội tức là
hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hóa nghệ thuật, đời thường).
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau:
Lễ: Là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của
con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con
người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Hội: Là tập hợp các trò diễn có tính nghi thức, các cuộc vui chơi, giải
trí tại một thời điểm nhất định, thường trong khuôn viên các công trình tôn
giáo hay ở sát chúng, có đông người tham gia. Là đời sống văn hóa hàng ngày



13

và một phần đời sống của cá nhân và cả cộng đồng, nhân kỷ niệm một sự kiện
quan trọng đối với một cộng đồng xã hội.
Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay và
nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng.
Lễ và hội luôn gắn kết chặt chẽ với nhau, không có lễ thì sẽ không có
hội. Lễ hội thuộc phạm trù thiêng liêng của thế giới linh thiêng. Ngôn ngữ lễ
hội là ngôn ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời sống hiện hữu thường nhật. Vì
vậy, phần hội luôn gắn với phần lễ, là bộ phận sinh thái của phần lễ, nó gắn
với cái thiêng liêng, với các vị thần, nhân vật mà con người thờ phụng. Các
sinh hoạt vui chơi, giải trí, trò diễn trong lễ hội mang tính nghi lễ phong tục
chứ không phải là trò chơi, trò diễn thuần túy trần tục (mà trò diễn ở đây đã
được thiêng liêng hóa).
 Lễ hội cổ truyền
Lễ hội cổ truyền là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp,
vừa độc đáo, vừa phong phú đa dạng của dân tộc Việt Nam, vốn có nguồn gốc
phát sinh và phát triển từ rất lâu đời trong lòng lịch sử văn hóa nước nhà. Có
thể coi lễ hội cổ truyền là hình ảnh thu nhỏ của nền văn hóa dân gian cổ
truyền dân tộc. Bởi lẽ, trong lễ hội cổ truyền bao hàm hầu như đầy đủ các
hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, như: Về văn học dân gian: có truyền
thuyết, thần thoại, thần tích, thần phả, văn tế, văn bia, hoành phi câu đối, ca
dao, hò vè ... Về nghệ thuật biểu diễn dân gian: có diễn xướng, sân khấu dân
gian, các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc... Về tôn giáo: có phong tục và tín
ngưỡng dân gian gồm các nghi lễ, nghi thức, trò chơi, trò diễn, trò chơi dân
gian, tục lệ, đối tượng thờ cúng, đức tin và kỵ hèm dân gian... Do vậy, lễ hội
cổ truyền không chỉ là một hiện tượng văn hóa dân gian, mà còn là một hiện
tượng lịch sử xã hội. Nó phản ánh khá trung thực và rõ nét cốt cách, bản lĩnh



14

và bản sắc dân tộc, cùng với tâm linh, nguyện vọng của nhân dân trong suốt
thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.
Lễ hội cổ truyền ra đời, được bảo tồn và phát huy trong lòng lịch sử văn hóa dân tộc, phản ánh khá đầy đủ và rất sinh động đời sống văn hóa - xã
hội đã trải qua. Nhiều yếu tố văn hóa tinh thần được lễ hội cổ truyền bảo lưu
và truyền tụng từ đời này sang đời khác, thực sự trở thành di sản văn hóa
truyền thống vô giá. Đó chính là kho tàng các giá trị thuộc về tinh hoa văn
hóa, phản ánh rõ nét bản lĩnh và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Khái niệm cổ truyền được Từ điển tiếng Việt cắt nghĩa như sau:
“Cổ: Thuộc về thời xa xưa trong lịch sử”; “Truyền: Để lại cái mình
đang nắm giữ cho người khác, thường thuộc thế hệ sau”; “Cổ truyền: Từ xưa
truyền lại, vốn có từ xưa” [112, tr. 203, 204, 1053].
Trong cuốn sách “Lễ hội cổ truyền”, Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ hội
cổ truyền là một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục,
tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật cả các sự kiện xã hội - lịch sử quan trọng của
dân tộc” và lễ hội “còn là bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt văn hóa tinh
thần của người Việt. Chúng đã sống, đang sống và với đặc trưng của mình,
chúng tạo nên sức cuốn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất”; “Hội lễ là nơi bảo
tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử, trong quá khứ,
dồn nén lại cho đương thời” [111, tr. 24].
GS. Lê Trung Vũ và Nguyễn Hồng Dương khái quát: “Hội làng - Lễ
hội truyền thống, là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của
cộng đồng làng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống; sự tồn tại và phát triển cho
cả làng, sự bình yên cho từng cá nhân, niềm hạnh phúc cho từng gia đình, sự
vững mạnh cho từng dòng họ; sự sinh sôi của gia súc, sự bội thu của mùa
màng, mà bao đời đã quy tụ niềm mơ ước chung vào 4 chữ “Nhân khang vật
thịnh”, hay “Quốc thái dân an”. Theo đó: “Lễ hội truyền thống, còn gọi là lễ



15

hội dân gian hay lễ hội cổ truyền thường tổ chức ở đình, chùa (hội chùa mang
nội dung và chức năng hội làng), đền, miếu, phủ, điện trong các làng gọi là
hội làng, hoặc ngày nay ở các thị trấn, tỉnh thành chỉ gọi là hội đình, hội đền,
hội phủ; do dân làng - trước hết là các cụ, đại biểu nhiều mặt của cộng đồng
làng xưa hoặc phường, phố tổ chức. Đó là những lễ hội thường gồm hai phần:
lễ và hội. Lễ với hệ thống lễ uy nghiêm, và thần bí; Hội với hệ thống hội, vui
tươi và thế tục; kèm theo và xen kẽ là phong tục, trong đó mỗi hội thường có
một tục hèm- tục kiêng- là đặc điểm của mỗi hội” [108, tr. 8].
Lễ hội cổ truyền theo quan điểm của GS. Ngô Đức Thịnh là: 1) Một
hình thức diễn xướng dân gian bao gồm nhiều hình thức diễn xướng nhỏ, kết
hợp hữu cơ với nhau tạo thành tổng thể diễn xướng lễ hội. 2) Một hình thức
diễn xướng tâm linh không còn là thế giới hiện thực mà đã vươn lên thế giới
biểu tượng linh thiêng. Nó tái hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội trong
một thời điểm mạnh, thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm thiêng, khác với
thời gian thường ngày. 3) Diễn xướng lễ hội cổ truyền đạt tới hiệu quả xã hội
nhiều mặt, tạo nên và biểu trưng cho sức mạnh cố kết cộng đồng, nó là niềm
cộng cảm và cộng mệnh của cộng đồng thỏa mãn ước vọng vươn tới sự hòa
đồng giữa con người với thiên nhiên, với cội nguồn [93, tr. 17 - 22].
Ngoài ra, lễ hội là một di sản văn hóa, một sản phẩm của lịch sử, là một
hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, được hình thành trên cơ sở một nghi lễ,
tín ngưỡng nào đó, tồn tại và vận hành trong bối cảnh xã hội hiện tại. Các lễ
hội cổ truyền là sinh hoạt văn hóa tiến hành theo định kỳ, mang tính cộng
đồng (thường là cộng đồng làng), góp phần gắn kết cộng đồng trong đời sống
tinh thần của người dân.
1.1.2. Giá trị văn hóa của lễ hội
Nghiên cứu giá trị văn hóa của lễ hội cũng chính là tìm về lễ hội cổ

truyền trong tư cách là một di sản văn hóa. Lễ hội cổ truyền được xem như là


16

một phạm trù thuộc khái niệm di sản văn hóa phi vật thể. Đây là một khái
niệm thu hút được nhiều sự chú ý trong thời gian 10 năm trở lại đây.
UNESCO đã thảo ra một công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa này.
Trên thực tế, lễ hội cổ truyền là một hiện tượng xã hội tổng thể, trong
đó có một số các đặc trưng chủ yếu như: 1) Là một dạng sinh hoạt tín ngưỡng
- tâm linh; 2) Là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng địa phương; 3) Là
dịp đoàn kết, giáo dục truyền thống cộng đồng; 4) Là hội chợ trưng bày các
sản phẩm địa phương và các vùng khác; 5) Là dịp tổ chức các hoạt động giao
tiếp như sinh hoạt nghệ thuật, các trò chơi giải trí, thể thao; 6) Là địa điểm
hành hương, du lịch. Tất cả những đặc trưng này đều gắn với một đặc điểm
là: lễ hội là một sản phẩm của quá khứ, được gìn giữ cho hiện tại và mai sau,
lễ hội cổ truyền là một di sản văn hóa của cộng đồng người Việt.
GS. Ngô Đức Thịnh và Lê Hồng Lý cho rằng “phong tục tín ngưỡng và
lễ hội rất quan trọng đối với cuộc sống của người nông dân. Đó có thể được
xem như sự phản chiếu sinh động của truyền thống, bản sắc văn hóa cộng đồng
cũng như là biểu tượng của tinh thần cố kết cộng đồng làng xã được hun đúc
qua thời gian [92, tr. 35 - 39]. Phạm Quang Nghị lại nhấn mạnh đến khía cạnh:
“Bảo tàng văn hóa dân gian của lễ hội, theo đó lễ hội lưu trữ nhiều sinh hoạt
văn hóa truyền thống, và nhiệm vụ của thế hệ ngày hôm nay là phải kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa ấy” và tiếp tục khẳng định: “Lễ hội là một di sản
văn hóa phi vật thể đặc biệt (…) Lễ hội là một hiện tượng văn hóa gắn liền với
điều kiện và trình độ phát triển kinh tế và sinh hoạt của con người. Lễ hội đã và
sẽ còn tồn tại hết sức lâu dài trong đời sống xã hội” [66, tr. 3 - 7].
Khác với những di sản văn hóa vật thể, được xem là hóa thạch của văn
hóa tại những thời điểm nhất định, di sản văn hóa phi vật thể (trong đó có lễ

hội cổ truyền) là sự biến đổi, tích lũy và lựa chọn văn hóa qua thời gian.
Trong các lễ hội cổ truyền đang tồn tại ngày hôm nay, chúng ta có thể thấy


17

những truyền thống văn hóa còn tồn đọng ở những hình thái nhất định. Với tư
cách là một di sản văn hóa, sự biến đổi của các lễ hội cổ truyền cho chúng ta
thấy cách quan niệm và xử lý đối với di sản của từng thời kỳ lịch sử ra sao.
Nhiều học giả cho rằng lễ hội cổ truyền là một bảo tàng sống về văn
hóa dân tộc. Nhờ đó, nền văn hóa ấy được hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua
các thế hệ. Quan niệm này chứng tỏ rằng, lễ hội cổ truyền không phải là một
thứ gì đó tĩnh tại, mà ngược lại, nó vận động và biến đổi trong không gian
cũng như thời gian. Một mặt, sự biến đổi của lễ hội cổ truyền chịu sự chi phối
của ý thức hệ hay quan niệm của mỗi thời kỳ trong việc chuyển giao các di
sản văn hóa của mình cho các thế hệ tiếp nối; mặt khác, lễ hội cũng lưu giữ
những giá trị văn hóa - xã hội của một cộng đồng đối với cả không gian cũng
như thời gian. Các thế hệ sau có thể tìm hiểu về cuộc sống trong quá khứ. Bên
cạnh đó, với quan niệm lễ hội cổ truyền là một di sản văn hóa thích ứng với
thời gian và không gian cụ thể, chúng ta sẽ xác định những biện pháp bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền trong xã hội hiện đại.
Lễ hội cổ truyền với tư cách là di sản văn hóa thường tồn tại trong
những không gian văn hóa vật thể (đình, đền, chùa, miếu...) và không gian
văn hóa phi vật thể (tín ngưỡng, tâm linh, nghi thức, tế lễ, rước sách, thờ
cúng...). Lễ hội cổ truyền là địa chỉ tiêu biểu của các giá trị văn hóa mà ông
cha ta để lại cho con cháu muôn đời.
1.1.3. Đặc trưng của lễ hội cổ truyền
Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hóa cổ truyền của
nhiều dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là tấm gương phản ánh
trung thực đời sống văn hóa của mỗi dân tộc. Lễ hội cổ truyền có hai đặc

trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, lễ hội cổ truyền - một “hiện tượng văn hóa dân gian tổng
thể”. Đó là, “một hiện tượng văn hóa mang tính phức thể, mà trong phức thể


18

ấy, một yếu tố văn hóa dân gian nào đó giữ vai trò chủ đạo đó và cũng như
gắn kết đa chiều với thực tại xã hội” [95, tr. 334]. Tổng thể của lễ hội không
phải tổng thể “chia đôi” giữa phần lễ và phần hội như một số người quan
niệm, mà nó hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó
(tường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh nghề nghiệp, thần
linh huyền thoại...); rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt
văn hóa phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội. Cho nên, trong lễ hội, phần
lễ là gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái sinh tích hợp.
Nhìn một cách tổng thể, thì lễ hội chủ yếu vẫn thuộc phạm trù cái
thiêng, của thế giới thiêng liêng chứ không phải “cái tục”, cái thuộc về đời
sống trần tục. Ngôn ngữ của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời
sống hiện hữu hàng ngày. Ngay một số sinh hoạt vui chơi, giải trí, thi tài diễn
ra trong lễ hội, như đua thuyền, đấu vật, kéo co,... thậm chí các trò chơi mang
tính phồn thực vẫn mang tính nghi lễ, phong tục chứ không còn mang tính
“trần tục” thuần túy, mà đã trở thành “cái tục” của thế giới thiêng liêng. Từ
đây rút ra một hệ quả mang tính thực tiễn là, hiện nay chúng ta đang phục hồi,
phát huy lễ hội cổ truyền thì phải luôn nhận thức lễ hội thuộc phạm trù cái
thiêng, cái biểu tượng, vượt lên trên thế giới trần tục, thực tại; nếu biến lễ hội
thành cái trần tục, thì lễ hội với đúng nghĩa của nó sẽ không còn nữa.
Lễ hội là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng hợp, nên phải tiếp cận
nó như một hệ thống, phân biệt đâu là yếu tố tạo hệ thống, đâu là yếu tố tích
hợp, phái sinh, tìm ra mối quan hệ hữu cơ giữa chúng và mối quan hệ giữa lễ
hội với thực tại xã hội. Nói cách khác, phải nhận thức diện mạo, bản chất của

xã hội như thế nào đã sản sinh ra hiện tượng lễ hội như thế.
Thứ hai, lễ hội cổ truyền - một hình thức diễn xướng tâm linh. Là một
hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, một hình thức diễn xướng tâm linh.
Theo đó, “tâm” là vô hình và là động lực ở chiều sâu thúc đẩy thế giới vật


19

chất và toàn bộ cơ thể, hoạt động của con người. Còn “linh” là linh diệu, linh
cảm, linh nghiệm, linh ứng và linh thiêng, khó cảm nhận, đo lường, vượt qua
lẽ thông thường, khác với hiện tượng đời thường ai cũng biết, cũng cảm nhận
được, đo lường được, nhưng không hoàn toàn tách biệt mà cũng biến hóa
trong đời thường. “Diễn xướng” được hiểu với hàm nghĩa khá rộng, bao gồm
những hành động và lời nói nhằm biểu đạt một thông tin nào đó giữa một
người hay một nhóm người với một nhóm người khác.
Như vậy, có thể coi toàn bộ các sinh hoạt văn hóa dân gian tồn tại dưới
dạng các diễn xướng. Hay nói cách khác, diễn xướng là một môi trường thể
hiện, tồn tại và biến đổi của văn hóa dân gian. Vì vậy, về mặt phương pháp
luận thì mọi hiện tượng văn hóa dân gian đều được tiếp cận trong môi trường
diễn xướng. Từ quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể bàn tới lễ hội với
tư cách là một diễn xướng tâm linh [95, tr. 338].
Trong lễ hội cổ truyền, tính “diễn xướng” và tính “cộng đồng” đều
được thể hiện một cách khá rõ nét và tiêu biểu. Thông qua trình diễn bằng
hành động và lời nói của tập thể những con người trong cộng đồng, người ta
muốn tái hiện lịch sử, xã hội, cội nguồn của tự nhiên và con người. Tham gia
lễ hội là toàn thể thành viên của cộng đồng ở phạm vi làng xã, vùng hay toàn
quốc. Trong lễ hội cổ truyền, không có những người trình diễn chuyên
nghiệp, hay có những người chỉ biết thưởng thức, hưởng thụ, mà toàn thể
thành viên đều tự nguyện tham gia trình diễn với niềm háo hức, phấn khởi.
Thời điểm diễn ra lễ hội là thời điểm thiêng tức là ngày kỵ, giỗ của thần

linh (ngày sinh, ngày hóa) và cùng với các hành động hội mang tính biểu
trưng làm cho thời điểm diễn ra lễ hội là “thời điểm thiêng”, “thời điểm
mạnh”. Đó là thời điểm mà người xưa tin rằng có giá trị đặc biệt, có ý nghĩ
thiêng liêng, khác với thời điểm bình thường của đời sống hàng ngày.
Ngôn ngữ của diễn xướng lễ hội rất đa dạng, như tế lễ, rước, các trò
diễn...Cụ thể: 1) Tế là nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần linh, với ngôn ngữ,


×