Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

30 TÌNH HUỐNG TRONG đấu THẦU HOT NHẤT 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.32 KB, 34 trang )

THỐNG KÊ BIÊN SOẠN CÁC TÌNH HUỐNG THƯỜNG GẶP NHẤT TRONG
ĐẤU THẦU NHIỀU NGƯỜI THẮC MẮC 2016 - 2017
**********************
1. Tình huống 1: Đóng, mở thầu trong chào hàng cạnh tranh
Một bạn đọc có thư gửi Báo Đấu thầu như sau: Ngày 20/3/2017, UBND xã X (Chủ đầu
tư) có thông báo mời thầu gói thầu mua sắm tài sản cho UBND Xã theo hình thức chào
hàng cạnh tranh...
Thời gian cuối nhận hồ sơ đề xuất (HSĐX) là 9 giờ ngày 28/3/2017. Đến thời điểm này
đã có 4 nhà thầu đến nộp HSĐX nhưng không biết vì lý do gì mà Chủ tịch UBND Xã
không tiến hành mở thầu theo như lịch đã thông báo. Cho đến 14 giờ ngày 31/3/2017
(sau 3 ngày), Chủ tịch UBND Xã thông báo cho 4 nhà thầu đến để tiến hành mở thầu.
Hỏi: Với cách làm trên, Chủ tịch UBND xã X có vi phạm Luật Đấu thầu không? Kết
quả trúng thầu có được ghi nhận không? 4 nhà thầu có phải là đã có dấu hiệu thông thầu
không?
Trả lời: Trường hợp bạn đọc hỏi trên đây không nói rõ gói thầu áp dụng chào hàng cạnh
tranh thông thường hay rút gọn. Do đó, có 2 khả năng xảy ra như sau:
Nếu là chào hàng cạnh tranh thông thường thì áp dụng theo quy định về quy trình chào
hàng cạnh tranh thông thường tại Điểm d Khoản 2 Điều 58 Nghị định 63/2014/NĐ-CP.
Cụ thể: “Ngay sau thời điểm đóng thầu, bên mời thầu tiến hành mở các HSĐX và lập
Biên bản mở thầu...”, do vậy bên mời thầu phải tiến hành mở thầu ngay sau khi đóng
thầu.
Nếu là chào hàng cạnh tranh rút gọn thì theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 59 Nghị
định 63/2014/NĐ-CP. Cụ thể: “Ngay sau khi kết thúc thời hạn nộp báo giá, bên mời
thầu lập văn bản tiếp nhận các báo giá được nộp trước thời điểm đóng thầu...”.
Bên mời thầu cần rút kinh nghiệm trong việc áp dụng quy định về mở thầu nêu trên.
Với các thông tin bạn đọc nêu trên đây, chưa có dấu hiệu để kết luận 4 nhà thầu tham dự
gói thầu nêu trên thông thầu.
Điều 17 Luật Đấu thầu 2013 quy định về các trường hợp hủy thầu gồm: (1) Tất cả hồ sơ
dự thầu, HSĐX không đáp ứng được các yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu
cầu (HSYC). (2) Thay đổi mục tiêu, phạm vi đầu tư đã ghi trong HSMT, HSYC. (3)
HSMT, HSYC không tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu hoặc quy định khác


của pháp luật có liên quan dẫn đến nhà thầu, nhà đầu tư được lựa chọn không đáp ứng


yêu cầu để thực hiện gói thầu, dự án. (4) Có bằng chứng về việc đưa, nhận, môi giới hối
lộ, thông thầu, gian lận, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt
động đấu thầu dẫn đến làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Như vậy, theo quy định tại Điều 17 Luật Đấu thầu 2013 thì tình huống bạn đọc hỏi
không nằm trong các trường hợp hủy thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
2. Tình huống 2: Đơn giá dự thầu cao hơn đơn giá kế hoạch
Bệnh viện A tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu gồm 30 hạng mục hàng hóa là đồ dùng
cho khu hành chính và khu điều trị nội trú thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi trong
nước. Nhà thầu B là nhà thầu chào giá thấp nhất trong số 3 nhà thầu được đánh giá là
đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật. Tuy nhiên, hồ sơ dự thầu của nhà thầu B có chào 5 trong
tổng số 30 hạng mục hàng hóa cao hơn đơn giá của hạng mục đó trong phụ lục tính giá
gói thầu đính kèm kế hoạch lựa chọn nhà thầu.
Hỏi: Trong trường hợp này, bệnh viện A có thể lựa chọn nhà thầu B trúng thầu không
hay phải lựa chọn nhà thầu khác chào giá tất cả các hạng mục thấp hơn đơn giá trong
phụ lục kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Đấu thầu, một trong các điều kiện để
nhà thầu được đề nghị trúng thầu là có giá đề nghị trúng thầu (giá dự thầu sau sửa lỗi,
hiệu chỉnh sai lệch trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu xếp hạng thứ nhất) không
vượt giá gói thầu được phê duyệt. Trường hợp dự toán của gói thầu được phê duyệt thấp
hơn hoặc cao hơn giá gói thầu được phê duyệt thì dự toán này sẽ thay thế giá gói thầu để
làm cơ sở xét duyệt trúng thầu.
Đối với trường hợp của bệnh viện A, nếu nhà thầu B có giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu
chỉnh sai lệch trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) không vượt giá gói thầu được duyệt thì
được coi là đáp ứng yêu cầu xét duyệt trúng thầu ở trên mà không phụ thuộc vào việc
nhà thầu chào giá một số mặt hàng cao hơn giá của mặt hàng đó trong phụ lục kế hoạch
lựa chọn nhà thầu. Có thể hiểu phụ lục này gồm đơn giá cho từng mặt hàng, giúp tính

toán để hình thành giá gói thầu.
Tuy nhiên, việc lựa chọn nhà thầu được thực hiện đối với gói thầu trong khoản ngân
sách là giá gói thầu, nên bệnh viện A chỉ cần so sánh giá chào sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai
lệch trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu B với giá gói thầu, mà không cần quá
quan tâm tới các đơn giá từng mặt hàng so với đơn giá dự trù ban đầu. Trong trường hợp
này, việc đề nghị cho nhà thầu khác chào giá cao hơn trúng thầu chỉ vì đơn giá từng


hạng mục không cao hơn đơn giá ước tính trong phụ lục kế hoạch lựa chọn nhà thầu rõ
ràng là không hiệu quả và không phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
3. Tình huống 3: Xác định cấp doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ khi tham gia đấu
thầu
Bên mời thầu X đang đánh giá hồ sơ dự thầu Gói thầu Xây lắp có giá gói thầu 4,5 tỷ
đồng. Trong hồ sơ mời thầu (HSMT) quy định một trong các điều kiện để được tham gia
đấu thầu là nhà thầu phải là doanh nghiệp cấp nhỏ, siêu nhỏ theo quy định của pháp luật
về doanh nghiệp.
Hỏi: Nhà thầu nào sau đây được coi là đáp ứng điều kiện về cấp doanh nghiệp khi tham
gia đấu thầu gói thầu vừa nêu:
- Nhà thầu A có tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng và có số lao động bình quân năm
không quá 200 người
- Nhà thầu B có tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng nhưng có số lao động bình quân
năm trên 200 người
- Nhà thầu C có tổng nguồn trên 20 tỷ đồng nhưng có số lao động bình quân năm không
quá 200 người.
Trả lời: Một trong các nội dung về ưu đãi doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ trong đấu thầu là
đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là
doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia
đấu thầu.
Việc xác định cấp doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp được thực

hiện theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và
vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương
đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số
lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Doanh nghiệp nhỏ thuộc
khu vực công nghiệp và xây dựng là doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở
xuống hoặc có số lao động từ 10 người đến 200 người.
Quay trở lại việc đánh giá điều kiện tham dự thầu của các nhà thầu trên, cả 3 nhà thầu A,
B, C đều được coi là đáp ứng điều kiện về cấp doanh nghiệp khi tham dự thầu gói thầu
xây lắp có giá 4,5 tỷ đồng. Trong đó, nhà thầu A đáp ứng cả tiêu chí về tổng nguồn vốn


và số lao động bình quân, nhà thầu B đáp ứng tiêu chí về tổng nguồn vốn, nhà thầu C
đáp ứng tiêu chí về lao động bình quân năm.
Trong trường hợp này, cần lưu ý là nhà thầu chỉ cần đáp ứng một trong hai tiêu chí tổng
nguồn vốn (trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc tổng số lao động bình
quân năm đối với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ thì được coi là đáp ứng điều kiện về cấp
doanh nghiệp khi tham dự gói thầu xây lắp có giá không quá 5 tỷ đồng.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
4. Tình huống 4: Tổ chuyên gia xét thầu tự tính toán thời gian thi công của nhà
thầu
Việc đánh giá HSDT phải tuân thủ theo nguyên tắc đánh giá quy định tại Điều 15 Luật
Đấu thầu 2013.
Ban Quản lý dự án X tổ chức đấu thầu rộng rãi Gói thầu Thi công công trình. Hồ sơ mời
thầu (HSMT) có nêu yêu cầu về thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày. Hồ sơ dự thầu
(HSDT) của nhà thầu A có giá dự thầu thấp nhất. Kết quả đánh giá HSDT cho thấy nhà
thầu A đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm. HSDT của nhà thầu A cũng có đề
xuất thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày, đúng theo yêu cầu của HSMT.
Tuy nhiên, trong HSDT của nhà thầu A không có phần tính toán diễn giải chi tiết về tiến
độ thi công. Tổ chuyên gia xét thầu đã tự tính toán thời gian thi công của nhà thầu này là

70 ngày, vượt 10 ngày so với quy định của HSMT. Từ đó, Tổ chuyên gia cho rằng thời
gian thực hiện hợp đồng của nhà thầu này không đáp ứng yêu cầu nêu trong HSMT và
quyết định loại HSDT của nhà thầu A.
Hỏi: Việc làm trên của tổ chuyên gia xét thầu có phù hợp với quy định của Luật Đấu
thầu không?
Trả lời: Việc đánh giá HSDT phải tuân thủ theo nguyên tắc đánh giá quy định tại Điều
15 Luật Đấu thầu 2013. Theo đó, việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh
giá HSDT và các yêu cầu khác nêu trong HSMT. Thời gian thực hiện hợp đồng được đề
xuất trong đơn dự thầu và tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật (nếu có). Do đó, Tổ chuyên
gia khi đánh giá thì phải căn cứ vào HSDT của nhà thầu và HSMT để đánh giá, trường
hợp không rõ thì yêu cầu nhà thầu giải thích làm rõ trên cơ sở không làm thay đổi nội
dung cơ bản của HSDT đã nộp.
Trong trường hợp nêu trên, nhà thầu A đã đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng là 60
ngày đúng theo yêu cầu của HSMT thì yêu cầu nhà thầu làm rõ việc thi công trong 60
ngày đó ở những tiêu chí đánh giá kỹ thuật chưa rõ ràng.


Việc Tổ chuyên gia tự tính toán thời gian thi công của nhà thầu như trên để loại nhà thầu
là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
5. Tình huống 5: Áp dụng chỉ định thầu rút gọn
Hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày
26/06/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về
lựa chọn nhà thầu.
Một bạn đọc có thư hỏi Báo Đấu thầu như sau: “Đơn vị tôi đang tiến hành sơn vôi lại
khối nhà làm việc với tổng dự toán được duyệt là 670 triệu đồng. Theo các văn bản hiện
hành thì chúng tôi có quyền áp dụng quy trình chỉ định thầu rút gọn và áp dụng theo
Mẫu 06 của Thông tư 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư quy định chi tiết lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh. Tuy nhiên,
khi liên lạc hỏi lại người có trách nhiệm ở Vụ Tài chính của bộ chủ quản (đơn vị sẽ

quyết toán dự án) thì được trả lời là phải áp dụng chỉ định thầu thông thường cho an
toàn!”.
Hỏi: Ý kiến của đơn vị quyết toán nêu trên có đúng không? Trong trường hợp này, căn
cứ pháp lý nào có thể giúp thực hiện được quyết toán với quy trình chỉ định thầu rút
gọn?
Trả lời: Hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐ-CP
ngày 26/06/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu
thầu về lựa chọn nhà thầu. Theo đó, gói thầu có giá trị trong hạn mức được áp dụng chỉ
định thầu theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 22 của Luật Đấu thầu bao gồm: Không
quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ
công; không quá 01 tỷ đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua
thuốc, vật tư y tế, sản phẩm công; không quá 100 triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự
toán mua sắm thường xuyên.
Trường hợp bạn đọc nêu, gói thầu thuộc hạn mức chỉ định thầu thì theo quy định tại
Khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, các gói thầu trong hạn mức chỉ định thầu
theo quy định tại Điều 54 được áp dụng theo quy trình chỉ định thầu rút gọn.
Quy trình chỉ định thầu rút gọn đối với gói thầu trong hạn mức chỉ định thầu được quy
định tại Khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Cụ thể, bên mời thầu căn cứ vào
mục tiêu, phạm vi công việc, dự toán được duyệt để chuẩn bị và gửi dự thảo hợp đồng
cho nhà thầu được chủ đầu tư xác định có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu
của gói thầu. Nội dung dự thảo hợp đồng bao gồm các yêu cầu về phạm vi, nội dung


công việc cần thực hiện, thời gian thực hiện, chất lượng công việc cần đạt được, giá trị
tương ứng và các nội dung cần thiết khác. Trên cơ sở dự thảo hợp đồng, bên mời thầu và
nhà thầu được đề nghị chỉ định thầu tiến hành thương thảo, hoàn thiện hợp đồng làm cơ
sở để phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng. Tiếp đó, hai bên tiến
hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng ký kết giữa các bên phải phù hợp với quyết định phê
duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu, biên bản thương thảo hợp đồng và các tài liệu liên quan
khác.

Trường hợp cần thiết, bên mời thầu vẫn có thể áp dụng quy trình chỉ định thầu thông
thường đối với các gói thầu nằm trong hạn mức được chỉ định thầu rút gọn.
Để thuận tiện trong quá trình thực hiện, khi lập tờ trình Kế hoạch lựa chọn nhà thầu, chủ
đầu tư nên ghi rõ hình thức lựa chọn nhà thầu là chỉ định thầu rút gọn hay chỉ định thầu
thông thường và nêu rõ lý do để người có thẩm quyền phê duyệt.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
6. Tình huống 6: Đóng, mở thầu khi Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp sự
cố
Bên mời thầu – Ban Quản lý dự án X tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu mua sắm thiết
bị Y, áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng. Gói thầu mua sắm thiết bị Y có thời điểm
đóng thầu, mở thầu nằm trong khoảng thời gian Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp
sự cố ngoài khả năng kiểm soát.
Hỏi: Thời gian đóng, mở thầu và các mốc thời gian liên quan đến hiệu lực của hồ sơ dự
thầu và bảo đảm dự thầu trong trường hợp nêu trên được tính như thế nào?
Trả lời: Việc xử lý kỹ thuật trong trường hợp Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp sự
cố ngoài khả năng kiểm soát được quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số
07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 08/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài
chính quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn nhà
thầu qua mạng (TT07).
Theo đó, Khoản 2 Điều 16 TT07 quy định, trường hợp Hệ thống mạng đấu thầu quốc
gia tạm ngừng cung cấp dịch vụ tại thời điểm đóng thầu, mở thầu thì thời điểm đóng
thầu, mở thầu mới sẽ được lùi đến sau 3 giờ kể từ thời điểm Hệ thống tiếp tục cung cấp
dịch vụ theo thông báo của Tổ chức vận hành Hệ thống.
Hiện tại, Tổ chức vận hành Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia có trách nhiệm thông báo
cho các đơn vị có gói thầu đang đóng thầu, mở thầu biết ngay sau khi Hệ thống hoạt
động trở lại bình thường qua tổng đài hỗ trợ người dùng 1900 6126.


Điều 16 TT07 cũng quy định, nếu thời điểm đóng thầu, mở thầu mới vượt quá thời gian
làm việc trong ngày thì thời gian đóng thầu, mở thầu sẽ được gia hạn đến 09 giờ sáng

của ngày làm việc tiếp theo.
Nếu thời điểm đóng thầu, mở thầu cách sau thời điểm thông báo Hệ thống mạng đấu
thầu quốc gia tiếp tục cung cấp dịch vụ không quá 03 giờ thì thời điểm đóng thầu, mở
thầu mới sẽ được kéo dài thêm 03 giờ.
Khoản 3 Điều 16 TT07 quy định, trường hợp phải gia hạn thời điểm đóng thầu vì lý do
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia tạm ngừng cung cấp dịch vụ, các nhà thầu không cần
gia hạn thời hạn hiệu lực của hồ sơ dự thầu và bảo đảm dự thầu nếu các thời hạn hiệu
lực này đã đáp ứng yêu cầu trong hồ sơ mời thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
7. Tình huống 7: Đề xuất gói thầu áp dụng mua sắm tập trung
Đơn vị A được UBND tỉnh X giao nhiệm vụ làm đầu mối tổ chức thực hiện mua sắm tập
trung trên địa bàn Tỉnh. Một gói thầu mua sắm có giá khoảng 8 tỷ đồng được Đơn vị A
trình trong kế hoạch mua sắm tập trung, trong đó đề xuất áp dụng hình thức mua sắm
trực tiếp cho gói thầu này.
Hỏi: Trường hợp nêu trên có được áp dụng mua sắm tập trung theo hình thức mua sắm
trực tiếp hay không?
Trả lời: Mua sắm tập trung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần mua
sắm đối với số lượng nhiều, chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư. Mục đích của việc mua sắm tập trung thông qua đơn vị
mua sắm tập trung là nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối tổ chức đấu thầu, tăng
cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả kinh tế.
Khoản 1 Điều 44 Luật Đấu thầu quy định: “Mua sắm tập trung là cách tổ chức đấu thầu
rộng rãi để lựa chọn nhà thầu”. Do vậy, trường hợp nêu trên, Đơn vị A đề xuất phương
án mua sắm trực tiếp là chưa phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu. Hay nói
cách khác, khi tổ chức lựa chọn nhà thầu theo phương án mua sắm tập trung thì hình
thức lựa chọn nhà thầu luôn luôn là đấu thầu rộng rãi.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
8. Tình huống 8: Hiệu chỉnh sai lệch khi nhà thầu chào thừa



Bên mời thầu tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu X. Trong hồ sơ mời thầu (HSMT) có
ghi rõ số lượng vật tư do bên A cung cấp, nhưng nhà thầu vẫn tính đơn giá vật tư và quy
thành tiền.
Tổ chuyên gia đấu thầu cho rằng căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 17 Nghị định
63/2014/NĐ-CP, bên mời thầu sẽ tự quyết định trừ đi giá trị phần chào thừa theo mức
đơn giá tương ứng trong hồ sơ dự thầu (HSDT) của nhà thầu theo quy định về sửa lỗi,
hiệu chỉnh sai lệch. Sau đó, cần tiến hành đánh giá xếp hạng nhà thầu.
Tuy nhiên, khi bên mời thầu có văn bản xác nhận sai lệch với nhà thầu về việc vật tư do
bên A cung cấp mà nhà thầu vẫn tính đơn giá vật tư và quy thành tiền, nhà thầu trả lời
như sau: “Về hiệu chỉnh sai lệch, đề nghị giữ nguyên theo giá đã chào do công ty chúng
tôi đã tính toán giảm để tham dự cho gói thầu theo hình thức trọn gói”. Tiếp đó, bên mời
thầu từ chối và loại nhà thầu. Với cách giải quyết như vậy, sẽ không có đánh giá xếp
hạng nhà thầu này.
Hỏi: Trường hợp nêu trên, theo quy định hiện hành, bên mời thầu có cần gửi văn bản
làm rõ với nhà thầu không? Nhà thầu nêu trên có được đưa vào đánh giá xếp hạng
không?
Trả lời: Theo quy định tại Mục 14 Chương I - Chỉ dẫn cho nhà thầu của Thông tư
03/2015/TT-BKHĐT thì nhà thầu phải nộp HSDT cho toàn bộ công việc được mô tả
trong Mục 1.1 Chỉ dẫn cho nhà thầu và ghi đơn giá dự thầu, thành tiền cho tất cả các
công việc nêu trong cột “Mô tả công việc mời thầu” tại Bảng tổng hợp giá dự thầu theo
quy định tại Mẫu số 05 Chương IV – Biểu mẫu dự thầu.
Theo đó, nhà thầu sẽ chỉ được chào cho những phần công việc được mời thầu. Việc nhà
thầu chào thừa, thiếu khối lượng, số lượng sẽ được hiệu chỉnh sai lệch theo quy định tại
Khoản 2 Điều 17 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Trường hợp nhà thầu không chấp thuận
với kết quả sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch theo thông báo của bên mời thầu thì HSDT của
nhà thầu đó sẽ bị loại theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 Nghị định 63/2014/NĐ-CP.
Nhà thầu bị loại tại bước đánh giá về giá sẽ không được tiếp tục đánh giá để xếp hạng.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
9. Tình huống 9: HSMT tải lên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị thiếu
Thông tư số 07/2016/TT-BKHĐT ngày 29/6/2016 của Bộ KH&ĐT (TT07/2016) có quy

định về tính hợp lệ của HSMT, hồ sơ yêu cầu, HSDT, hồ sơ đề xuất mua sắm hàng hóa
đối với đấu thầu qua mạng.


Ban Quản lý dự án X (bên mời thầu) tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng
hóa, áp dụng đấu thầu điện tử trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (dưới đây viết tắt là
Hệ thống). Bên mời thầu đã phát hành hồ sơ mời thầu (HSMT) và đang trong giai đoạn
đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT). Tổ chuyên gia phát hiện HSMT tải lên Hệ thống thiếu
Chương III - Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và Chương V - Phạm vi cung cấp, do đó HSDT
của các nhà thầu không đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra ban đầu và nếu lựa chọn nhà thầu
trong trường hợp này sẽ không đáp ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, ảnh hưởng đến
hiệu quả của dự án.
Hỏi: Trong trường hợp này, Bên mời thầu phải xử lý như thế nào để phù hợp quy định
của pháp luật về đấu thầu?
Trả lời: Thông tư số 07/2016/TT-BKHĐT ngày 29/6/2016 của Bộ KH&ĐT
(TT07/2016) có quy định về tính hợp lệ của HSMT, hồ sơ yêu cầu, HSDT, hồ sơ đề xuất
mua sắm hàng hóa đối với đấu thầu qua mạng. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 7 TT07/2016
quy định: “Các thông tin và các file đính kèm của HSMT, hồ sơ yêu cầu được coi là có
giá trị pháp lý khi được bên mời thầu đăng tải thành công trên Hệ thống thông qua
chứng thư số của bên mời thầu. Bên mời thầu chịu trách nhiệm về tính chính xác giữa
nội dung HSMT, hồ sơ yêu cầu đăng tải trên Hệ thống và nội dung HSMT, hồ sơ yêu
cầu được chủ đầu tư phê duyệt”.
Khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC (TT07/2015) quy
định: “Thông tin không hợp lệ trong việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu trên
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là thông tin do bên mời thầu tự đăng tải trên Hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia không tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu”.
Đối với trường hợp nêu trên, gói thầu được tổ chức đấu thầu trên Hệ thống mạng đấu
thầu quốc gia, nhưng HSMT tải lên Hệ thống thiếu Chương III - Tiêu chuẩn đánh giá
HSDT và Chương V - Phạm vi cung cấp, theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 TT07/2015
và Khoản 1 Điều 7 TT07/2016 thì HSMT gói thầu nêu trên được coi là không hợp lệ,

không đủ cơ sở để lựa chọn nhà thầu.
Về giải pháp xử lý tình huống nêu trên, theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 Luật Đấu
thầu 2013, hủy thầu được áp dụng trong trường hợp HSMT không tuân thủ quy định của
pháp luật về đấu thầu hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan dẫn đến nhà thầu,
nhà đầu tư được lựa chọn không đáp ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, dự án.
Còn tại Điều 18 Luật Đấu thầu 2013 quy định: Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp
luật về đấu thầu dẫn đến hủy thầu theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 17 luật
này phải đền bù chi phí cho các bên liên quan và bị xử lý theo quy định của pháp luật.


Để khắc phục sai sót trong tình huống nêu trên, chủ đầu tư báo cáo người có thẩm quyền
để người có thẩm quyền ban hành quyết định hủy thầu. Ngoài việc khắc phục sai sót,
chủ đầu tư lưu ý cần nghiêm túc nhắc nhở bên mời thầu rà soát kỹ trong việc lập HSMT,
rà soát trước khi đăng tải HSMT lên Hệ thống cho các gói thầu tiếp theo.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
10.Tình huống 10: Số lượng bản chụp HSDT khác nhau
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá HSDT cần
tuân thủ theo quy định tại Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu của HSMT.
Ban Quản lý dự án tỉnh X mời thầu Gói thầu Xây lắp. Tại trang 33 của hồ sơ mời thầu
(HSMT) gói thầu này, mục Chỉ dẫn nhà thầu 20.1 đưa ra quy định: “Số lượng bản chụp
HSDT là 3 bản. Trường hợp sửa đổi, thay thế HSDT thì nhà thầu phải nộp các bản chụp
hồ sơ sửa đổi, thay thế với số lượng bằng số lượng bản chụp HSDT”. Nhưng ở trang 36
của HSMT (mục điều kiện tiên quyết) thì yêu cầu nhà thầu phải nộp 4 bản chụp HSDT.
2 trong số 3 nhà thầu tham dự thầu đã nộp 4 bản chụp HSDT, nhà thầu còn lại chỉ nộp 3
bản chụp HSDT (nhà thầu A).
Hỏi: Liệu nhà thầu A có bị loại vì chỉ nộp 3 bản chụp HSDT? Cách xử lý tình huống của
bên mời thầu như thế nào để đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá
HSDT cần tuân thủ theo quy định tại Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu của
HSMT.

Tại Điểm a Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và Điểm 1.2 Mục 1 Kiểm
tra và đánh giá tính hợp lệ của HSDT thuộc Chương III Tiêu chuẩn đánh giá HSDT của
Thông tư số 03/2015/TT-BKH ngày 6/5/2015 quy định về việc kiểm tra và đánh giá tính
hợp lệ của HSDT. Theo đó, Tổ chuyên gia sẽ kiểm tra việc có bản gốc HSDT hay
không. Việc thiếu số lượng bản chụp HSDT không bị đánh giá là HSDT không hợp lệ,
do đó không loại nhà thầu vì việc nộp không đủ số lượng bản chụp HSDT.
Do đó, đối với tình huống nêu trên, các nhà thầu nộp thiếu số lượng HSDT vẫn được
tiếp tục đánh giá mà không bị loại vì thiếu số lượng bản chụp HSDT.
Mặt khác, theo quy định tại Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, Nghị định số
63/2014/NĐ-CP và Thông tư số 03/2015/TT-BKH ngày 06 tháng 5 năm 2015 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập HSMT gói thầu xây lắp thì không được quy
định về điều kiện tiên quyết đối với bản chụp HSDT. Việc Ban Quản lý dự án tỉnh X


đưa yêu cầu về số lượng bản chụp HSDT vào mục điều kiện tiên quyết trong HSMT là
không phù hợp.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
11.Tình huống 11: Hiệu lực của tài khoản và tư cách hợp lệ của nhà thầu
Điểm a Khoản 1 Điều 31 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày
8/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính quy định chi phí duy trì tên và dữ
liệu của nhà thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (Hệ thống) được nộp vào Quý I
hàng năm không kể năm đăng ký.
Nhà thầu A tham dự thầu một gói thầu do Ban Quản lý dự án tỉnh X mời thầu. Đầu
tháng 3/2017, Tổ chuyên gia đang trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) của
Nhà thầu A. Trong bước đánh giá tính hợp lệ của HSDT, Ban Quản lý dự án tỉnh X vào
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia tại địa chỉ để kiểm tra
danh sách nhà thầu được phê duyệt, khi đó thông tin về Nhà thầu A có cột trạng thái ghi
“Chưa nộp chi phí”. Khi ấn vào chi tiết trong mục Thông tin chung có dòng cảnh báo
màu đỏ: “Tài khoản còn hiệu lực đến ngày 31/3/2017”.
Hỏi: Vậy hiệu lực của tài khoản Nhà thầu A là như thế nào? Nhà thầu A có đảm bảo tư

cách hợp lệ theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Đấu thầu 2013 hay không?
Trả lời: Điểm a Khoản 1 Điều 31 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC
ngày 8/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính quy định chi phí duy trì tên
và dữ liệu của nhà thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (Hệ thống) được nộp vào
Quý I hàng năm không kể năm đăng ký.
Trên thực tế, để tạo thuận lợi cho việc tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu, Hệ
thống có các cảnh báo để nhắc nhở các nhà thầu. Nhiều nhà thầu sau khi được cảnh báo,
nhắc nhở đã nộp chi phí đúng hạn. Nhà thầu không nộp chi phí duy trì tên và dữ liệu trên
Hệ thống theo đúng thời hạn nêu trên thì việc đăng ký của nhà thầu trên Hệ thống bị coi
là hết hiệu lực.
Đối với trường hợp cụ thể nêu trên, Nhà thầu A đã đăng ký nhưng chưa nộp chi phí duy
trì tên và dữ liệu trên Hệ thống năm 2017 thì tài khoản vẫn còn hiệu lực đến hết ngày
31/3/2017 (hết Quý I năm 2017), do đó nhà thầu này vẫn đảm bảo tư cách hợp lệ theo
quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 5 Luật Đấu thầu.
Để tránh tình trạng tài khoản bị coi là hết hiệu lực, dẫn đến không đáp ứng yêu cầu về tư
cách hợp lệ của nhà thầu, các nhà thầu cần lưu ý nộp chi phí duy trì tên và dữ liệu trên
Hệ thống theo đúng thời hạn (trước ngày 31/3 hằng năm).


Kể từ ngày 20/10/2016 việc thanh toán chi phí tham gia Hệ thống đấu thầu quốc gia (số
tiền: 550.000 VND đã bao gồm VAT) bằng hình thức chuyển khoản theo thông tin như
sau:
- Tên tài khoản: Trung tâm Đấu thầu qua mạng quốc gia
- Số TK: 21610000386386
- Tại ngân hàng: BIDV chi nhánh Đống Đa
Khi thanh toán chuyển khoản, phải ghi nội dung ủy nhiệm chi theo mẫu tại địa chỉ
/>Nguồn: internet. Xem chi tiết
12.Tình huống 12: Công thức tính ưu đãi đối với gói thầu MSHH
Cách tính điểm ưu đãi đối với hồ sơ dự thầu của nhà thầu thuộc đối tượng ưu đãi khi áp
dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau

Theo hướng dẫn tại Mục Chỉ dẫn nhà thầu 31.3 Chương II Bảng Dữ liệu đấu thầu thuộc
Mẫu Hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa áp dụng phương thức 1 giai đoạn 2 túi hồ sơ
ban hành kèm Thông tư số 05/2016/TT-BKHĐT ngày 16/6/2016 của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, cách tính điểm ưu đãi đối với hồ sơ dự thầu của nhà thầu thuộc đối tượng ưu đãi
khi áp dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau:
Điểm ưu đãi = 0,075 x (giá hàng hóa ưu đãi/giá gói thầu) x điểm tổng hợp [1]
Trong đó: Giá hàng hóa ưu đãi là giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá
trị giảm giá của hàng hóa thuộc đối tượng ưu đãi.
Trong khi đó, tại Chương III Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu của gói thầu nêu trên có
quy định cách xác định điểm tổng hợp như sau:
Điểm tổng hợpđang xét= (K x Điểm kỹ thuậtđang xét+ G x Điểm giáđang xét) + ∆ưu
đãi [2]
Trong đó: Điểm kỹ thuậtđang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về kỹ
thuật;
Điểm giáđang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về giá;
K, G lần lượt là tỷ trọng điểm về kỹ thuật và về giá quy định trong thang điểm tổng hợp;


∆ưu đãi là điểm giá trị được cộng thêm đối với đối tượng được hưởng ưu đãi theo Mục
31.3 của Chỉ dẫn nhà thầu.
Hỏi: Vậy, điểm tổng hợp trong công thức [1] và [2] có phải là một hay không? Nếu có,
tổ chuyên gia phải bắt đầu từ công thức nào?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 24 Khoản 2 Điểm d) quy định công thức
tính điểm tổng hợp đối với phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau:
Điểm tổng hợpđang xét = K x Điểm kỹ thuật đang xét + G x Điểm giá đang xét (*)
Trong đó: Điểm kỹ thuật đang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về kỹ
thuật; điểm giá đang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về giá.
K, G lần lượt là tỷ trọng điểm về kỹ thuật và về giá quy định trong thang điểm tổng hợp;
K + G = 100%. Tỷ trọng điểm về kỹ thuật (K) và về giá (G) phải được xác định cụ thể
trong hồ sơ mời thầu.

Đối với trường hợp trên, nếu gói thầu áp dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá
thì trước hết cần xác định điểm tổng hợp của nhà thầu theo công thức (*) vừa nêu.
Trường hợp hàng hóa do nhà thầu chào thuộc đối tượng ưu đãi thì việc tính điểm ưu đãi
cho hàng hóa đó thực hiện theo công thức [1]. Sau đó, điểm tổng hợp để làm cơ sở so
sánh, xếp hạng nhà thầu được tính theo công thức số [2]. Ngoài ra, cũng cần lưu ý là
điểm ưu đãi nêu tại công thức [1] là điểm ưu đãi tính cho một loại hàng hóa cụ thể, ∆ƯĐ
nêu tại công thức số [2] là tổng số điểm ưu đãi của tất cả các loại hàng hóa thuộc đối
tượng ưu đãi.
Đối với tình huống trên, thoạt nhìn thì có thể có thành viên tổ chuyên gia đấu thầu lúng
túng đối với các công thức tính điểm tổng hợp và điểm ưu đãi (công thức [1] và công
thức [2]) vì công thức nào cũng bao gồm nội dung điểm tổng hợp, điểm ưu đãi. Tuy
nhiên, nếu áp dụng đúng nguyên tắc xác định điểm tổng hợp nêu tại Điều 24 Nghị định
số 63/2014/NĐ-CP thì sẽ dễ dàng cho ra điểm của từng nhà thầu sau khi đã xét đến yếu
tố ưu đãi bằng đúng các công thức nêu trong Mẫu Hồ sơ mời thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
13.Tình huống 13: Đề xuất nhân sự chủ chốt giống nhau trong 2 hồ sơ dự thầu
Theo hướng dẫn tại các Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) xây lắp ban hành kèm Thông tư số
03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu phải đề xuất
một số vị trí nhân sự chủ chốt tham gia thực hiện gói thầu theo yêu cầu của HSMT.


Hỏi: Dự án xây lắp A thuộc ngành nông nghiệp, cần hoàn thành trong năm. Các hạng
mục công việc được thực hiện rải rác trong phạm vi địa lý rộng nên để bảo đảm việc
hoàn thành trong năm, chủ đầu tư đã tiến hành chia dự án làm 2 gói thầu. Các gói thầu
có nội dung, quy mô, tính chất như nhau và thời gian phải hoàn thành là giống nhau.
Nhà thầu X tham dự cả 02 gói thầu thuộc dự án nêu trên. Khi đánh giá hồ sơ dự thầu
(HSDT) của nhà thầu, tổ chuyên gia nhận thấy trong cả 02 HSDT, các nhân sự chủ chốt
mà nhà thầu đề xuất đều giống nhau. Tuy nhiên, nếu nhà thầu trúng thầu cả 02 gói thì
khó có thể bố trí nhân sự, từ đó không bảo đảm tiến độ dự án.
Trong trường hợp này, tổ chuyên gia cần xem xét HSDT của nhà thầu X như thế nào?

Trả lời: Theo hướng dẫn tại các Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) xây lắp ban hành kèm
Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu
phải đề xuất một số vị trí nhân sự chủ chốt tham gia thực hiện gói thầu theo yêu cầu của
HSMT. Theo đó, nhà thầu phải kê khai những nhân sự chủ chốt có năng lực phù hợp,
đáp ứng các yêu cầu quy định tại HSMT và có thể sẵn sàng huy động cho gói thầu;
không được kê khai những nhân sự đã huy động cho gói thầu khác có thời gian làm việc
trùng với thời gian thực hiện gói thầu này. Trường hợp kê khai không trung thực thì nhà
thầu sẽ bị đánh giá là gian lận.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn
đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT, căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu
giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng
lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Đối với các gói thầu trên, việc đánh giá HSDT (trong đó có nội dung nhân sự chủ chốt)
vẫn thực hiện theo tiêu chuẩn đánh giá quy định trong HSMT. Trường hợp nhà thầu
được xếp hạng thứ nhất trong cả hai gói thầu với đề xuất về nhân sự chủ chốt giống
nhau, trong quá trình thương thảo hợp đồng, bên mời thầu cần yêu cầu nhà thầu làm rõ
về khả năng huy động nhân sự cùng lúc thực hiện cả hai gói thầu. Theo đó:
- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu không trùng lặp,
bảo đảm việc huy động đầy đủ nhân sự chủ chốt để thực hiện cả hai gói thầu theo tiến độ
thì nhà thầu được đề xuất trúng thầu các gói thầu này;
- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu có sự trùng lặp, dẫn
tới không huy động được đầy đủ nhân sự chủ chốt để thực hiện các gói thầu theo tiến độ
thì nhà thầu được lựa chọn trúng thầu một trong hai gói thầu.
Nhìn chung, khi tham dự thầu, các nhà thầu thường kê khai các nhân sự đáp ứng tốt nhất
HSMT nhằm được trúng thầu. Trong tình huống trên, do 02 gói thầu có nội dung, quy


mô, tính chất giống nhau nên việc đề xuất nhân sự giống nhau là dễ hiểu và không vi
phạm nguyên tắc kê khai nhân sự đã đề cập. Tuy nhiên, đối với mọi gói thầu thì việc
đánh giá tính đáp ứng của nhân sự mới chỉ là bước đầu, điều quan trọng là cần làm rõ

khả năng huy động nhân sự đó trong bước thương thảo hợp đồng (nếu nhà thầu được
xếp hạng thứ nhất). Thêm nữa, để bảo đảm tiến độ, chất lượng gói thầu thì việc giám sát
tình hình huy động của các nhân sự chủ chốt mà nhà thầu đề cập trước đây cũng rất quan
trọng.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
14.Tình huống 14: Nhà thầu phụ và chuyển nhượng thầu
Bạn đọc Hoàng Long gửi đến Báo Đấu thầu câu hỏi tình huống sau đây: Chủ đầu tư có
Kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho một dự án A, trong đó có Gói thầu số 1: Cung cấp vật
tư thiết bị điện với giá trị khoảng 40 tỷ đồng. Chủ đầu tư ký hợp đồng với nhà thầu X là
nhà thầu trúng thầu Gói thầu số 1 với giá trị 36 tỷ đồng. Nhà thầu X lại ký hợp đồng
mua bán thiết bị giá trị 34 tỷ đồng cho đúng Gói thầu số 1 của dự án A với một nhà thầu
Y.
Hỏi: Trường hợp nêu trên có phải là hành vi chuyển nhượng thầu?
Sau đó, nhà thầu X và nhà thầu Y nêu trên lại sử dụng hợp đồng thực hiện Gói thầu số 1
của dự án A để làm hợp đồng tương tự khi tham gia dự thầu một gói thầu khác. Trong
trường hợp này, chủ đầu tư phải đánh giá 2 hợp đồng của 2 nhà thầu này như thế nào?
Trả lời: Trường hợp bạn Hoàng Long nêu trên đây liên quan đến nhà thầu chính và nhà
thầu phụ. Do đó, trước hết phải làm rõ khái niệm nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Theo
quy định tại Khoản 35 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013, nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách
nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa
chọn.
Khoản 36 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013 quy định nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia thực
hiện gói thầu theo hợp đồng được ký với nhà thầu chính. Theo câu hỏi của bạn thì nhà
thầu X là nhà thầu chính.
Hiện nay pháp luật về đấu thầu không quy định một mức tỷ lệ cụ thể về việc tham gia
thực hiện hợp đồng giữa nhà thầu phụ và nhà thầu chính; tỷ lệ này có thể quy định theo
các pháp luật liên quan (nếu có). Trường hợp pháp luật liên quan không quy định thì sẽ
do chủ đầu tư tự quyết định.
Trường hợp khi tham gia dự thầu nhà thầu chính được phép sử dụng nhà thầu phụ theo
một tỷ lệ nhất định quy định trong hồ sơ mời thầu thì nhà thầu phụ này phải được nêu



tên, giá trị thực hiện trong hồ sơ dự thầu. Chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà
thầu cho nhà thầu chính X được hiểu là đã chấp thuận nhà thầu phụ thực hiện gói thầu
này. Ngoài ra, nhà thầu chính X được phép sử dụng nhà thầu phụ khác (gọi là nhà thầu
phụ Z) ngoài nhà thầu phụ đã kê khai và phải được chủ đầu tư chấp thuận. Giá trị phần
công việc dành cho nhà thầu phụ Z này phải đảm bảo không quá 10% (hoặc không quá
50 tỷ đồng) giá trị sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê
khai trong hồ sơ dự thầu.
Đối chiếu quy định tại Điểm a Khoản 8 Điều 89 của Luật Đấu thầu 2013 về các hành vi
bị cấm trong đấu thầu, trường hợp nhà thầu chính không kê khai nhà thầu phụ trong hồ
sơ dự thầu, sau đó chuyển nhượng cho nhà thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có
giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau khi trừ phần công việc
thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá trị hợp đồng đã ký kết thì bị coi là vi
phạm quy định của Luật (hành vi chuyển nhượng thầu).
Sau khi thực hiện hợp đồng, nhà thầu chính và nhà thầu phụ được kê khai năng lực khi
tham gia dự thầu một gói thầu khác tùy và theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu mà được
đánh giá là đạt hay không đạt.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
15.Tình huống 15: Đơn giá dự thầu một hạng mục cao hơn đơn giá dự toán
Bên mời thầu tổ chức đấu thầu rộng rãi một gói thầu. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự
thầu (HSDT) của nhà thầu A, Tổ chuyên gia phát hiện, tại hạng mục X có đơn giá dự
thầu cao hơn ba lần so với đơn giá dự toán được duyệt.
Hỏi: Đơn giá tại hạng mục X trong HSDT của nhà thầu A có phải hiệu chỉnh lại theo
đơn giá dự toán được duyệt hay không? Nếu qua quá trình đánh giá, nhà thầu A được
xếp hạng thứ nhất thì khi mời vào thương thảo hợp đồng có thể thương thảo để giảm giá
tại hạng mục X này hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 17 Điều 4 Luật Đấu thầu năm 2013, giá dự thầu là giá
do nhà thầu ghi trong đơn dự thầu, bao gồm toàn bộ các chi phí để thực hiện gói thầu
theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT). Khi tham gia dự thầu, nhà thầu có quyền chào

đơn giá đối với các hạng mục công việc trong gói thầu khác với giá dự toán. Việc tính
toán giá dự thầu trong HSDT là do nhà thầu tự quyết định để đảm bảo cạnh tranh về giá
với các nhà thầu khác, đồng thời đảm bảo thực hiện gói thầu hiệu quả, chất lượng theo
yêu cầu. Trong tình huống này, việc nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi và được xếp thứ
nhất nghĩa là mặc dù có một số đơn giá cao bất thường nhưng giá dự thầu của nhà thầu
vẫn bảo đảm cạnh tranh về giá so với các nhà thầu còn lại.


Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định nguyên tắc thương thảo hợp
đồng là không tiến hành thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã chào đúng yêu
cầu của HSMT. Việc thương thảo hợp đồng không được làm thay đổi đơn giá dự thầu
của nhà thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có). Do
vậy, trường hợp nhà thầu chào hạng mục, công việc đúng theo yêu cầu của HSMT (mặc
dù đơn giá nhà thầu chào cho hạng mục, công việc này cao bất thường) thì không tiến
hành thương thảo về giá đối với nội dung này.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
16.Tình huống 16: Hồ sơ dự thầu và bảo đảm dự thầu có hiệu lực bằng nhau
Nội dung hiệu lực HSDT và bảo đảm dự thầu được quy định tại Khoản 42 Điều 4 và
Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu.
Hỏi: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, thời gian có hiệu lực của bảo
đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu bằng thời gian
có hiệu lực của hồ sơ dự thầu (HSDT), hồ sơ đề xuất cộng thêm 30 ngày. Như vậy,
trường hợp nhà thầu chào hiệu lực bảo đảm dự thầu bằng hiệu lực HSDT thì cần được
xem xét như thế nào?
Tổ chuyên gia đang đánh giá HSDT một gói thầu thuộc dự án điện lực. HSMT quy định
HSDT của nhà thầu phải có hiệu lực tối thiểu 40 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu
(ngày 22/12/2016). Bảo đảm dự thầu của nhà thầu phải có hiệu lực không ít hơn 70 ngày
kể từ ngày 22/12/2016.
Trong HSDT nhà thầu ghi thời gian có hiệu lực của HSDT là 60 ngày kể từ ngày có thời
điểm đóng thầu. Bảo đảm dự thầu đính kèm HSDT của nhà thầu ghi thời gian có hiệu

lực của bảo đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày 22/12/2016.
Trong trường hợp này, hiệu lực của HSDT và bảo đảm dự thầu có được coi là đáp ứng
yêu cầu của HSMT hay không?
Trả lời: Nội dung hiệu lực HSDT và bảo đảm dự thầu được quy định tại Khoản 42 Điều
4 và Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu. Theo đó, thời gian có hiệu lực của HSDT là số
ngày được quy định trong HSMT và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến
ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong HSMT. Từ thời điểm đóng thầu đến hết
24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01 ngày. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự
thầu được quy định trong HSMT bằng thời gian có hiệu lực của HSDT cộng thêm 30
ngày. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, trường hợp
hiệu lực của HSDT, hiệu lực của bảo đảm dự thầu không đáp ứng yêu cầu của HSMT thì
HSDT sẽ bị đánh giá là không hợp lệ.


Đối với tình huống trên, khi HSMT quy định thời gian có hiệu lực của HSDT tối thiểu
40 ngày và thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu không ít hơn 70 ngày kể từ ngày
có thời điểm đóng thầu thì việc nhà thầu chào thời gian có hiệu lực của HSDT 60 ngày
và thời gian hiệu lực của bảo đảm dự thầu 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu
phải được đánh giá đáp ứng yêu cầu của HSMT về thời gian có hiệu lực của HSDT và
bảo đảm dự thầu.
Trở lại quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, quy định này được hiểu là áp dụng
cho bên mời thầu, chủ đầu tư khi xây dựng HSMT. Chẳng hạn, khi đã quy định hiệu lực
HSDT là 40 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu thì cần quy định hiệu lực của bảo
đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. Các yêu cầu về hiệu lực nêu
trong HSMT sẽ được đem ra đối chiếu khi đánh giá HSDT; theo đó, hiệu lực HSDT, bảo
đảm dự thầu được coi là đáp ứng yêu cầu nếu không ngắn hơn quy định ghi trong
HSMT mà không xét đến việc cái này phải dài hơn cái khác 30 ngày.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
17.Tình huống 17: Nhà thầu nộp cam kết tín dụng có điều kiện của ngân hàng
Nếu nhà thầu cung cấp cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại

Việt Nam với giá trị đáp ứng yêu cầu của HSMT thì được đánh giá là đạt đối với nội
dung này.
Hỏi: Sở Y tế tỉnh X đang tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng hóa thuộc
dự án xây dựng một bệnh viện đa khoa huyện. Trong tiêu chí yêu cầu về nguồn lực tài
chính cho gói thầu, hồ sơ mời thầu (HSMT) có quy định nhà thầu phải chứng minh khả
năng tài chính cho gói thầu với số tiền 5,5 tỷ đồng và một trong các cách chứng minh là
nộp cam kết tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp pháp.
Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu nêu trên và chứng minh nguồn lực tài chính của mình
bằng cam kết tín dụng từ ngân hàng và hạn mức tín dụng đúng bằng số tiền yêu cầu
trong HSMT. Tuy nhiên, cam kết tín dụng có ghi nội dung sau: Ngân hàng cam kết cấp
tín dụng nếu nhà thầu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về cấp tín dụng theo quy định của
pháp luật và quy định của ngân hàng.
Trong trường hợp này, cam kết tín dụng mà nhà thầu đã nộp có được coi là hợp lệ hay
không?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Mục 2.1 Chương III Mẫu HSMT gói thầu mua sắm hàng
hóa một giai đoạn một túi hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày
16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khi tham dự thầu, nhà thầu phải chứng minh có
các tài sản có khả năng thanh khoản cao hoặc có khả năng tiếp cận với tài sản có khả


năng thanh khoản cao sẵn có, các khoản tín dụng hoặc các nguồn tài chính khác (không
kể các khoản tạm ứng thanh toán theo hợp đồng) để đáp ứng yêu cầu về nguồn lực tài
chính thực hiện gói thầu theo quy định của HSMT.
Theo hướng dẫn tại Mẫu số 15 mẫu HSMT nêu trên, trường hợp trong hồ sơ dự thầu nhà
thầu có nộp kèm theo bản cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam, trong đó cam kết sẽ cung cấp tín dụng cho nhà thầu để thực hiện gói thầu
đang xét với hạn mức tối thiểu bằng giá trị yêu cầu quy định tại tiêu chuẩn đánh giá hồ
sơ dự thầu trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng thì nhà thầu được đánh giá là đáp
ứng yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu.
Đối với trường hợp trên, khi tham dự thầu, nếu nhà thầu cung cấp cam kết tín dụng của

tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với giá trị đáp ứng yêu cầu của
HSMT thì được đánh giá là đạt đối với nội dung này. Một thực tế hiển nhiên là việc thực
hiện cam kết tín dụng của ngân hàng cho nhà thầu phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật về tín dụng, trong đó có sự ràng buộc và điều kiện giữa hai bên. Do vậy, trên thực tế
thì các ngân hàng sẽ không cấp cam kết tín dụng vô điều kiện cho nhà thầu nộp cùng với
hồ sơ dự thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
18.Tình huống 18: Nêu nhãn hiệu hàng hóa trong chào hàng cạnh tranh
Luật Đấu thầu (Điều 89 Khoản 6 Điểm i) quy định một trong các hành vi bị cấm trong
đấu thầu là nêu yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong hồ sơ mời thầu đối
với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng hình thức
đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.
Hỏi: Bên mời thầu là đơn vị X đang thực hiện gói thầu mua sắm hàng hóa theo hình
thức chào hàng cạnh tranh. Khi lập hồ sơ yêu cầu, đơn vị X dự kiến quy định rõ xuất xứ,
nhãn hiệu và mô tả chi tiết đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ
của hàng hóa để các nhà thầu làm cơ sở chào giá trong hồ sơ đề xuất.
Việc quy định cụ thể xuất xứ, nhãn hiệu hàng hóa trong hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh
tranh có phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 89 Khoản 6 Điểm i) quy định một trong các hành vi bị
cấm trong đấu thầu là nêu yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong hồ sơ
mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng
hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.


Đối với trường hợp của đơn vị X, việc nêu nhãn hiệu hàng hóa khi lập hồ sơ yêu cầu
chào hàng cạnh tranh không thuộc sự điều chỉnh của quy định nêu trên. Tuy nhiên, theo
quy định tại Điều 4 Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT quy định chi tiết lập hồ sơ yêu cầu
chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, đối với gói thầu áp dụng hình thức chào hàng cạnh
tranh, khi đưa ra yêu cầu đối với hàng hóa cần quy định đặc tính kỹ thuật, tiêu chuẩn sản
xuất, tiêu chuẩn chế tạo, công nghệ mang tính chất trung tính, không đưa ra các đặc tính

kỹ thuật, tiêu chuẩn mang tính cá biệt hóa mà không phải là đặc tính cơ bản của sản
phẩm để chỉ một hoặc một số ít nhà thầu đáp ứng yêu cầu, làm hạn chế sự tham gia của
các nhà thầu, gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Trường hợp không thể mô tả được
hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì
mới được phép nêu nhãn hiệu, catalô của một sản phẩm cụ thể để tham khảo, minh họa
cho yêu cầu về kỹ thuật của hàng hóa nhưng phải ghi kèm theo cụm từ “hoặc tương
đương” sau nhãn hiệu, catalô, đồng thời quy định rõ nội hàm tương đương với hàng hóa
đó về đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng, tiêu chuẩn công nghệ và các nội dung khác
(nếu có) mà không quy định tương đương về xuất xứ.
Như vậy, khi bên mời thầu X đã mô tả được hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ thuật,
thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì việc quy định nội dung xuất xứ, nhãn hiệu
trong hồ sơ yêu cầu là không phù hợp với quy định của pháp luật đấu thầu. Ngoài ra, cần
lưu ý việc mô tả hàng hóa cần mua phải bảo đảm không mang tính cá biệt hóa, làm cho
chỉ một hoặc một số ít sản phẩm đáp ứng yêu cầu, làm hạn chế sự tham gia của các nhà
thầu khác.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
19.Tình huống 19: Sai sót khi ghi tên gói thầu, tên nhà thầu liên danh trong đơn
dự thầu
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá hồ sơ
dự thầu (HSDT) phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong
hồ sơ mời thầu.
Hỏi: Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu của một bên mời thầu (BMT) nhưng trong đơn
dự thầu nhà thầu ghi tên gói thầu từ “Mua sắm, vận chuyển các thiết bị trạm biến áp
110kV” thành “Mua sắm, vận chuyển thiết bị trạm biến áp 110 KV”. Cũng trong gói
thầu này, nhà thầu X liên danh với nhà thầu Y để tham dự thầu gói thầu và thống nhất
tên gọi của thành viên liên danh trong văn bản thỏa thuận liên danh là Liên danh Công ty
X - Công ty Y. Tuy nhiên, đơn dự thầu của nhà thầu liên danh ghi là Liên danh Công ty
Y - Công ty X.



Trong trường hợp này, đơn dự thầu của nhà thầu A và nhà thầu liên danh Công ty X Công ty Y có được đánh giá là hợp lệ hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, việc đánh
giá hồ sơ dự thầu (HSDT) phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu
khác trong hồ sơ mời thầu (HSMT), căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích,
làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh
nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2
Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, HSDT hợp lệ phải có đơn dự thầu được đại diện
hợp pháp của nhà thầu ký tên, đóng dấu (nếu có) theo yêu cầu của HSMT; thời gian thực
hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật; giá dự thầu
ghi trong đơn dự thầu phải cụ thể, cố định bằng số, bằng chữ và phải phù hợp, logic với
tổng giá dự thầu ghi trong biểu giá tổng hợp, không đề xuất các giá dự thầu khác nhau
hoặc có kèm theo điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, BMT. Đối với nhà thầu liên
danh, đơn dự thầu phải do đại diện hợp pháp của từng thành viên liên danh ký tên, đóng
dấu (nếu có) hoặc thành viên đứng đầu liên danh thay mặt liên danh ký đơn dự thầu theo
phân công trách nhiệm trong văn bản thỏa thuận liên danh. Ngoài ra, việc xác định các
sai khác, đặt điều kiện và bỏ sót nội dung (gọi chung là sai sót) cơ bản được hướng dẫn
tại Chương I các Mẫu HSMT mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số
05/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đối với tình huống vừa nêu, việc đánh giá HSDT, trong đó bao gồm kiểm tra tính hợp lệ
của đơn dự thầu, phải căn cứ các quy định nêu trên. Đối với đơn dự thầu đã đầy đủ các
nội dung nêu tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 63/2014/NĐ-CP nhưng ghi thiếu 1
chữ “các” trong tên gói thầu, nếu HSDT của nhà thầu vẫn chào đủ số lượng thiết bị trạm
biến áp 110 kV theo yêu cầu của HSMT thì đơn dự thầu vẫn được coi là hợp lệ.
Đối với nhà thầu X, trường hợp trong văn bản thỏa thuận liên danh nhà thầu ghi tên là
Liên danh Công ty X - Công ty Y thì HSDT ghi tên nhà thầu là Liên danh Công ty Y Công ty X vẫn thể hiện được bản chất liên danh của hai nhà thầu thành viên. Do vậy,
HSDT của liên danh này vẫn được tiếp tục đánh giá theo các yêu cầu của HSMT.
Nhìn chung, trong quá trình lập HSDT, một số nhà thầu sẽ có những sai sót không mong
muốn, tương tự như các trường hợp nêu trên. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá từng sai
sót phải được thực hiện cẩn trọng, không vội lấy đó làm căn cứ để loại nhà thầu. Suy
cho cùng, việc tham dự của mỗi nhà thầu đều góp phần làm tăng tính cạnh tranh, hiệu

quả của gói thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết


20.Tình huống 20: Nhà thầu chào giá thấp nhất không đáp ứng yêu cầu về năng
lực tài chính
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63) quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào
tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT để bảo đảm lựa chọn được
nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu cho một gói thầu và áp dụng Mẫu hồ sơ
mời thầu (HSMT) gói thầu mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TTBKHĐT (TT05). Trong yêu cầu về năng lực tài chính có yêu cầu giá trị tài sản ròng của
nhà thầu trong năm gần nhất phải dương.
Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu này và chào giá thấp nhất theo kết quả ghi nhận tại lễ
mở thầu. Tuy nhiên, khi đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) thì các tài liệu chứng minh
năng lực tài chính thể hiện nhà thầu A không đáp ứng yêu cầu về năng lực tài chính nêu
trên. Trong trường hợp này, bên mời thầu X cần đánh giá HSDT của nhà thầu A như thế
nào?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63) quy định việc đánh giá HSDT phải căn
cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT để bảo đảm lựa
chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói
thầu. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 18 NĐ63, nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm đáp
ứng yêu cầu được xem xét, đánh giá về kỹ thuật. Nội dung này đồng thời được đưa vào
quy định tại Chương I, Chương III các Mẫu HSMT gói thầu mua sắm hàng hóa ban
hành kèm TT05.
Đối với chỉ tiêu tài chính giá trị tài sản ròng, đó là sự so sánh giữa tổng tài sản và tổng
nợ của doanh nghiệp. Khi tổng tài sản ít hơn nợ phải trả thì giá trị tài sản ròng sẽ âm (giá
trị tài sản ròng = tổng tài sản – tổng nợ), chỉ tiêu giá trị tài sản ròng âm phản ánh tình
hình tài chính của doanh nghiệp là không lành mạnh, từ đó có thể dẫn tới không bảo
đảm khả năng tài chính để thực hiện gói thầu.
Đối với trường hợp trên, việc đánh giá năng lực tài chính của nhà thầu phải căn cứ vào

tiêu chuẩn đánh giá đã quy định trong HSMT. Khi HSMT quy định nhà thầu phải có giá
trị tài sản ròng năm gần nhất dương thì nhà thầu không có giá trị tài sản ròng dương
trong năm gần nhất bị coi là không đáp ứng yêu cầu của HSMT đối với nội dung này.
Các nhà thầu không đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm (bao gồm năng lực tài
chính) thì không được xem xét ở bước tiếp theo.
Tóm lại, đấu thầu là một cuộc thi minh bạch và bình đẳng, trong đó các nhà thầu đã
được thông báo rõ thể lệ trong HSMT. Do vậy, trong trường hợp này, bên mời thầu phải


tôn trọng quy định do chính mình đưa ra, nghĩa là không được đánh giá nhà thầu A là
đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm vì thấy nhà thầu đó chào giá thấp nhất theo
thông tin ghi nhận tại lễ mở thầu.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
21.Tình huống 21: Hồ sơ dự thầu có hiệu lực từ thời điểm mở thầu
Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 42) quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là số
ngày được quy định trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng
thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong hồ sơ mời thầu.
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu một gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh
của Luật Đấu thầu. Hồ sơ mời thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu lực 120 ngày và
thời điểm đóng thầu là 9h ngày 07/9/2016. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ
chuyên gia nhận thấy Nhà thầu A chào thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là 120
ngày, từ thời điểm mở thầu là 9h30 ngày 07/9/2015. Trong trường hợp này, việc Nhà
thầu A chào thời gian hiệu lực của hồ sơ dự thầu có được coi đáp ứng yêu cầu của hồ sơ
mời thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 42) quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự
thầu là số ngày được quy định trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có thời
điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong hồ sơ mời thầu. Từ
thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01 ngày.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 2 Điểm c) quy định hồ sơ dự thầu hợp lệ
phải có hiệu lực đáp ứng yêu cầu theo quy định của hồ sơ mời thầu.

Đối với trường hợp trên, nếu hồ sơ mời thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu lực 120
ngày và thời điểm đóng thầu là 9h ngày 07/9/2016 thì các hồ sơ dự thầu ghi thời gian có
hiệu lực là 120 ngày kể từ ngày 07/9/2016 hoặc kể từ 9h ngày 07/9/2016 được coi là đáp
ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực. Trường hợp hồ sơ dự thầu ghi thời gian có hiệu lực
với điểm bắt đầu muộn hơn thời điểm đóng thầu (ví dụ: 9h30 ngày 07/9/2015) bị coi là
không đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực.
Hiện nay, một trong các sai sót thường gặp khi nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu là ghi sai
hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Vì vậy, để hạn chế các sai sót này, nhà thầu khi chuẩn bị hồ
sơ dự thầu, nên đọc kỹ thông tin trong chỉ dẫn nhà thầu về thời điểm đóng thầu, mở
thầu, ngày bắt đầu và số ngày có hiệu lực. Ngoài ra, chỉ cần ghi ngày bắt đầu có hiệu lực
(không cần ghi cụ thể thời điểm, giờ bắt đầu) và số ngày có hiệu lực thì hồ sơ dự thầu đã
được đánh giá đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực, ví dụ: Có thể ghi là 120 ngày kể
từ ngày 07/9/2016, không nhất thiết phải ghi là 120 ngày kể từ 9h00 ngày 07/9/2016.


Nguồn: internet. Xem chi tiết
22.Tình huống 22: Xử lý vi phạm đối với từng thành viên trong liên danh
Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 35) quy định nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm
tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn.
Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên của nhà thầu liên danh.
Hỏi: Công ty A liên danh với Công ty B để tham dự thầu gói thầu do bên mời thầu X tổ
chức và đã được trao hợp đồng vào năm 2015.
Trong quá trình tham dự thầu, thành viên liên danh A, B đều tham gia lập hồ sơ dự thầu
và mỗi thành viên ký vào phần kê khai năng lực, kinh nghiệm của mình.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ chuyên gia đấu thầu phát hiện thành viên liên
danh B thuộc nhà thầu liên danh A - B đã kê khai không trung thực nhiều thông tin, làm
giả hồ sơ liên quan đến năng lực, kinh nghiệm của mình khi tham dự thầu nên đã báo
cáo bên mời thầu. Trong trường hợp này, bên mời thầu X cần xử lý vi phạm đối với
thành viên liên danh B hay với nhà thầu liên danh A - B?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 35) quy định nhà thầu chính là nhà thầu chịu

trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu
được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên của nhà thầu
liên danh. Như vậy, khi tham gia đấu thầu thì tất cả thành viên liên danh đều là nhà thầu
chính.
Luật Đấu thầu (Điều 89) quy định một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là trình
bày sai một cách cố ý hoặc làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu của một bên trong đấu
thầu nhằm thu được lợi ích tài chính hoặc lợi ích khác hoặc nhằm trốn tránh bất kỳ một
nghĩa vụ nào.
Đối với trường hợp nêu trên, nhà thầu liên danh sử dụng hồ sơ giả do thành viên liên
danh B cung cấp để làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu thì nhà thầu liên danh này bị
coi là vi phạm Điều 89 Luật Đấu thầu. Trong trường hợp này, hồ sơ dự thầu của nhà
thầu bị loại và việc xử phạt phải được áp dụng với tất cả các nhà thầu liên danh, bao
gồm Công ty A và Công ty B vì (i) các thành viên liên danh đều là nhà thầu chính khi
tham gia đấu thầu và đều phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm pháp luật về đấu thầu; (ii)
văn bản thỏa thuận liên danh thể hiện sự ràng buộc không thể tách rời của các thành viên
để tham gia đấu thầu, do vậy, hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu của nhà thầu liên danh
không thể coi là hành vi vi phạm của riêng một thành viên nào đó trong liên danh. Do
vậy, khi tìm kiếm đối tác để liên danh tham dự thầu thì các nhà thầu phải có các thông


tin chính xác về đối tác của mình, nhất là về năng lực, kinh nghiệm để tránh các rủi ro
đáng tiếc như Công ty A khi liên danh với Công ty B trong tình huống này.
Nguồn: internet. Xem chi tiết
23.Tình huống 23: Kế thừa năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu sau khi sáp
nhập
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 1 và Khoản 3) quy định, HSDT của nhà
thầu phải bao gồm các tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu, đồng
thời việc đánh giá HSDT bao gồm bước đánh giá về năng lực và kinh nghiệm.
Hỏi: Nhà máy in C trước đây là đơn vị hạch toán phụ thuộc Tập đoàn B. Khi đó, Tập
đoàn B tham gia đấu thầu và nếu trúng thầu thì giao một số gói thầu cho Nhà máy in C

thực hiện. Do cơ cấu lại Tập đoàn B, Nhà máy in đã được tách ra thành một pháp nhân
độc lập, sau đó tiếp tục được điều chuyển nguyên trạng, sáp nhập về Nhà thầu A. Trong
trường hợp này, khi chuẩn bị hồ sơ dự thầu (HSDT) tham gia đấu thầu, Nhà thầu A có
được kế thừa năng lực, kinh nghiệm của Nhà máy in C khi còn trực thuộc Tập đoàn B
không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 1 và Khoản 3) quy định, HSDT
của nhà thầu phải bao gồm các tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu,
đồng thời việc đánh giá HSDT bao gồm bước đánh giá về năng lực và kinh nghiệm.
Liên quan đến việc tách, sáp nhập pháp nhân, có thể tìm hiểu quy định tại Điều 89 và
Điều 91 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, sau khi tách, pháp nhân bị tách và pháp nhân
được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình phù hợp với mục đích hoạt động.
Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự
của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập. Ngoài ra, đối
với các doanh nghiệp, việc tách, sáp nhập được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014
(Điều 193 và Điều 195).
Đối với trường hợp nêu trên, Nhà máy in C trước đây trực thuộc Tập đoàn B và đã được
Tập đoàn B giao thực hiện một số hợp đồng in mà Tập đoàn trúng thầu. Vì vậy, sau khi
tách ra thành pháp nhân độc lập thì Nhà máy in C được hiểu là có kinh nghiệm thực hiện
các hợp đồng mà trên thực tế nhà máy này đã thực hiện khi còn trực thuộc Tập đoàn B.
Tiếp đó, khi Nhà máy được sáp nhập vào Nhà thầu A thì năng lực, kinh nghiệm của Nhà
thầu A được hiểu là bao gồm năng lực, kinh nghiệm của Nhà máy in C trước khi được
sáp nhập. Tóm lại, khi Nhà máy in C có năng lực, kinh nghiệm thực hiện hợp đồng thì
năng lực, kinh nghiệm thực hiện hợp đồng này sẽ được tính vào năng lực, kinh nghiệm
của Nhà thầu A sau khi Nhà máy in C được sáp nhập vào nhà thầu này.


×