Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bảo đảm lợi ÍCH KINH tế CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG các DOANH NGHIỆP hàn QUỐC ở TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống của con người, lợi ích là cái quy định, là động lực thúc đẩy
con người hành động. Ở cấp độ xã hội, lợi ích chung khiến con người hợp sức
với nhau để chinh phục tự nhiên cũng như tiến hành những cuộc cách mạng xã
hội. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, mục đích cuối cùng của
mọi cuộc cách mạng đều là vì lợi ích kinh tế. Chính sự xung đột, sự mâu thuẫn,
sự không công bằng trong việc phân chia các lợi ích kinh tế mà các giai cấp bị
phương hại lợi ích đã tiến hành các cuộc cách mạng để đòi lại lợi ích cho mình.
Ở nước ta, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước coi
thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một trong những biện pháp quan trọng nhằm
khai thác ngoại lực, thúc đẩy nội lực để phát triển kinh tế - xã hội và coi thu
hút vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế
đối ngoại của nước ta. Hiện thực kinh tế đó đã làm xuất hiện ngày càng nhiều
các doanh nghiệp nước ngoài làm ăn tại Việt Nam. Nhờ có những chính sách
đúng, thời gian qua, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng,
trong đó có nhiều DNHQ. Hàn Quốc đang là một trong những nhà đầu tư hiệu
quả tại Việt Nam, tính đến tháng 7/2015, tổng vốn đầu tư đăng ký của Hàn
Quốc vào Việt Nam đạt 39,5 tỷ USD với 4.555 dự án đầu tư còn hiệu lực
[14]. Hàn Quốc đứng đầu về số dự án đầu tư, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất linh kiện điện tử, điện thoại di động, cơ khí chính xác, sắt thép,
luyện kim, chế biến nông sản thực phẩm, các ngành dịch vụ và công nghiệp
dân dụng... Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các DNHQ làm việc tại Việt Nam thông qua việc ký kết Hiệp
định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Song bên cạnh những mặt tích cực, tại một
số doanh nghiệp nước ngoài nói chung, doanh nghiệp của Hàn Quốc nói riêng
cũng đã nảy sinh một số vấn đề cần quan tâm nghiên cứu như hiện tượng
3



chuyển giá, ô nhiễm môi trường và trong quan hệ với người lao động tại
doanh nghiệp.
Ở tỉnh Thái Nguyên, Hàn Quốc là một trong những nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhất, đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều nhà đầu tư lớn,
công nghệ hiện đại như Samsung,… đến Thái Nguyên tìm kiếm cơ hội làm
việc và đầu tư tại địa phương. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đến từ Hàn Quốc không chỉ đóng góp một phần quan trọng về kinh tế, mà còn
góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội, việc làm, thông qua thực hiện phúc
lợi và thu hút một lực lượng lớn lao động là người địa phương và nhiều tỉnh
thành khác vào làm việc trong các doanh nghiệp này. Thực tiễn cho thấy, tại
các DNHQ ở Thái Nguyên, quan hệ giữa người lao động trong doanh nghiệp
và giới chủ biểu hiện thông qua những lợi ích mà người lao động nhận được
qua kết quả lao động của người lao động về cơ bản đều đã được thực hiện.
Mức sống của người lao động trong các DNHQ từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao trong các DNHQ ở
Thái Nguyên vẫn còn những vấn đề bất cập, cần được nghiên cứu giải quyết;
bao gồm trong đó không chỉ về bảo đảm mức sống tối thiểu, tái sản xuất sức
lao động, mà cả các nhu cầu về đời sống văn hóa, tinh thần của người lao
động trong doanh nghiệp; vẫn còn một số chủ DNHQ ở Thái Nguyên chưa
quan tâm thỏa đáng đến quyền lợi của người lao động, chất lượng nhà ở
của người lao động, về chế độ thời gian lao động, môi trường làm việc, bảo
hộ lao động đối với người lao động. Hiện nay, một số DNHQ trên địa bàn tỉnh
vẫn còn sử dụng các hình thức vi phạm Luật lao động như kéo dài thời gian thử
việc. Những hạn chế này nếu không kịp thời giải quyết, để kéo dài sẽ gây bất
lợi không nhỏ đối với không chỉ lợi ích của người lao động, mà còn đối với
chính doanh nghiệp và đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên.
Do đó, nghiên cứu bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động làm việc
trong các DNHQ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là một vấn đề cấp thiết, nhằm
4



xác định những giải pháp bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Xuất phát từ
những lý do đó, học viên chọn đề tài: “Bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao
động trong các doanh nghiệp Hàn Quốc ở tỉnh Thái Nguyên" làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động ở các
doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc nói
riêng đã có nhiều tác giả đề cập ở các công trình với nhiều góc độ khác nhau,
tập trung trên các nội dung cơ bản sau:
* Một số công trình nghiên cứu về lợi ích kinh tế nói chung
Chử Văn Tuyên, “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó
vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ quân sự, Học viện chính trị quân sự, H.1998. Trong
luận án, tác giả đã phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị về nội dung vấn đề
lợi ích kinh tế của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đặc điểm sự vận
dụng lợi ích kinh tế vào quân đội. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết tốt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của quân dân [51].
Trần Thị Lan, “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng
các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”,

Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện

chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2012. Luận án trình bày
thực trạng giải quyết các mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế, nảy
sinh trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô
thị mới ở Hà Nội. Tác giả luận án đưa ra khái niệm: Lợi ích kinh tế là một phạm
trù kinh tế khách quan, phản ánh phần giá trị để thỏa mãn nhu cầu của chủ thể,
được quy định bởi các quan hệ kinh tế nhất định và được hiện thực hóa bằng các

khoản thu nhập cũng như quyền sử dụng các nguồn lực, yếu tố vật chất cần thiết
để duy trì hoạt động và không ngừng tái tạo ra thu nhập bảo đảm cho chủ thể kinh
tế tồn tại, hoạt động và phát triển [18].

5


Nguyễn Ngọc Minh, “Giải quyết lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong
thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Thanh Oai thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
2015, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về giải quyết lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể trong thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
huyện Thanh Oai; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết thỏa
đáng lợi ích của các chủ thể có liên quan trong quá trình thu hồi đất cho các
dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Huyện trong thời gian tới [32].
* Một số công trình nghiên cứu về lợi ích kinh tế ở các doanh nghiệp
nói chung và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng
Nguyễn Lợi, "Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn
với việc bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân”, Luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị, 1995. Tác giả đã đánh giá thực trạng mặt được, chưa
được trong việc thực hiện lợi ích của kinh tế của người lao động như các chế độ
tiền lương, tiền công, nghỉ phép, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp và chế độ bảo hộ lao động…trong các doanh nghiệp tư nhân;
thực trạng chủ sử dụng lao động đã thực hiện chế độ đối với người lao động; vai
trò công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích này; từ đó nêu rõ quan điểm và những
biện pháp chủ yếu để thực hiện tốt lợi ích kinh tế của người lao động [26].
Phạm Thị Linh "Đảm

bảo lợi ích kinh tế của người


lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh
Thái Bình”, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị Trường Đại học Kinh tế,
2011. Trong công trình này, tác giả tập trung phân tích bản chất của lợi ích
kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế của người lao động nói riêng trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đồng thời phân tích, đánh
giá thực trạng việc bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp dệt may tư nhân ở tỉnh Thái Bình trong những năm qua. Từ đó đề xuất
phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn lợi
6


ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp dệt may tư nhân ở tỉnh
Thái Bình trong thời gian tới [22].
Nguyễn Thị Minh Loan, "Lợi ích kinh tế của người lao động trongcác
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội" ,

Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2015. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về lợi ích kinh tế của

người lao động trong các DNCVĐTNN. Luận án đánh giá thực trạng lợi ích
kinh tế của người lao động trong các DNCVĐTNN trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong những năm qua. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm bảo
đảm lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNCVĐTNN trên địa bàn
thành phố Hà Nội [24].
* Một số công trình nghiên cứu về thực hiện lợi ích kinh

tế của người lao động với tư cách là một chủ thể trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Trần Minh Yến (2007), "Đình công, tiền lương - hai vấn đề nổi bật
trong lĩnh vực lao động, việc làm ở nước ta hiện nay". Tác giả đã phân tích về

đặc điểm cơ bản của các cuộc đình công ở nước ta hiện nay, đình công có xu
hướng tăng nhanh về số lượng, lớn về quy mô, có tính chất lan tỏa và ngày
càng gay gắt, phức tạp hơn. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp giảm thiểu đình
công: Tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động; nâng cao chất lượng
và hiệu quả quản lý Nhà nước mà luật pháp đã được ban hành phải được tuân
thủ một cách nghiêm túc triệt để; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn
các cấp; đối với doanh nghiệp phải chấp hành đầy đủ các qui định về chế độ
tiền lương, trả lương thấp; đối với người lao động, phải tăng cường hiểu biết
kiến thức về pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật lao động [58].
Đỗ Thị Vân Anh (2010), "Nguyên nhân đình công ở một số DN trong
thời gian qua". Trong đó, đã phân tích một hiện tượng xã hội mới xuất hiện, đó

7


là mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa hợp tác giữa người sử dụng lao động và
người lao động. Đình công là hiện tượng không mới trong quá trình công
nghiệp hóa trên thế giới, nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội, tuy nhiên cách xử
lý nó như thế nào lại phản ánh bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng
XNCH mà Việt Nam đang đặt ra. Tác giả đã đưa ra một số nội dung khác như:
Bảo đảm trả lương đúng hạn sẽ loại bỏ yếu tố gây bãi công cao nhất; các chế
độ phúc lợi và quyền lợi vật chất, chế độ bảo hộ lao động, thời gian làm việc,
nghỉ ngơi, nội quy lao động trái với quy định của pháp luật, người sử dụng lao
động không thực hiện đúng những quy định của pháp luật [1].
Vũ Hoàng Dương (2011), “Một số vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam”, Tác giả đi sâu nghiên cứu về thực trạng FDI của Việt Nam,
xu hướng vận động của dòng vốn vào Việt Nam tính đến cuối năm 2010 với số
lượng vốn và số lượng dự án ngày càng tăng. Từ đó, tác giả đã rút ra sự tác động
của FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam. Từ sự phân tích ở trên, tác giả đã đi tới
kết luận cho tới thời điểm này những hạn chế từ nguồn vốn FDI đang ngày càng

lộ rõ, Việt Nam vẫn phải thu hút nguồn vốn FDI nhưng cần có sự chọn lọc, tránh
tình trạng bão hòa và không hiệu quả [6].
Các công trình trên đã tiếp cận, làm rõ nhiều góc độ khác nhau, tuy
không có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề “Bảo đảm lợi ích kinh tế
cho người lao động trong các doanh nghiệp Hàn Quốc ở tỉnh Thái Nguyên",
song đây là những tài liệu có giá trị tốt để tác giả có thể tiếp thu, kế thừa trong
quá trình nghiên cứu luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm lợi ích kinh
tế cho người lao động trong các DNHQ ở tỉnh Thái Nguyên, đề xuất quan
điểm và giải pháp nhằm đảm bảo tốt hơn lợi ích kinh tế cho người lao động
trong các DNHQ tại địa phương trong thời gian tới.
8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNHQ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá thực trạng về bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNHQ ở tỉnh Thái Nguyên thời gian qua, chỉ rõ nguyên nhân và các
vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao
động trong các DNHQ ở tỉnh Thái Nguyên thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề bảo
đảm lợi ích kinh tế cho người lao động trong các DNHQ.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài nghiên cứu bảo đảm lợi ích
kinh tế cho người lao động trong các DNHQ.

- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Địa bàn tỉnh Thái Nguyên
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Là các tư liệu có được trong khoảng
thời gian từ năm 2011 - 2015, thời gian cho đề xuất giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản pháp quy của
Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cụ thể là các quan điểm, chủ trương, chính sách
đối với việc tiếp nhận và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời đề tài cũng sử dụng số liệu báo cáo của sở
Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Nguyên, tham khảo các tài liệu có liên quan và kế
thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã công bố,
gắn với bối cảnh lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển chung về kinh tế
- xã hội của tỉnh Thái Nguyên.
* Phương pháp nghiên cứu
9


Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị
học Mác - Lênin là trừu tượng hóa khoa học và các phương pháp của khoa
học khác: kết hợp logic - lịch sử, tổng hợp để phân tích các vấn đề lý luận và
thực tiễn, kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn....
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được nghiên cứu thành công sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất
định, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nghiên cứu, các Sở, Ban, Ngành liên quan ở tỉnh Thái Nguyên tham khảo
trong quá trình quản lý các hoạt động ĐTNN tại địa phương nói chung, trong soạn
thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa phương nói riêng.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập,

nghiên cứu ở các trường Cao đẳng và Đại học trong hệ thống giáo dục đại học ở
Việt Nam với những nội dung liên quan. Luận văn cũng có thể sử dụng tham
khảo cho các lớp đào tạo giảng viên, các lớp cao học chuyên ngành kinh tế
chính trị tại Học viện Chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn gồm 3 chương (6 tiết).

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM LỢI ÍCH KINH TẾ
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
HÀN QUỐC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Lợi ích kinh tế và bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Lợi ích kinh tế
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã tiến hành các hoạt động kinh tế.
Hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và nó
là cơ sở cho các hoạt động khác. Trong hoạt động kinh tế, con người luôn có
động cơ nhất định. Động cơ thúc đẩy con người hành động, mức độ hành động
(mạnh hay yếu) tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ, tuỳ thuộc vào
nhận thức và thực hiện lợi ích của họ. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lợi ích không phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ
quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người. Con người có
nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hoá), do đó có nhiều loại lợi ích (lợi
ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá, lợi ích tinh thần).
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ

kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích” [28, tr.376]. V.I. Lênin cũng cho rằng: “Lợi ích của giai cấp này hay giai
cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ
thống quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ” [21,
tr.79]. Lợi ích là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế thể
hiện trong tất cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Cùng quan điểm với các nhà kinh điển, ở Việt Nam khi đề cập đến lợi
ích, các quan hệ lợi ích, các nhà nghiên cứu hàng đầu về vấn đề này cũng đưa
ra các ý kiến tương tự.

11


Giáo sư Đào Duy Tùng cũng chỉ ra: Lợi ích kinh tế là hình thức biểu
hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người với người trong sản xuất và
những người tham gia vào các quá trình sản xuất kinh doanh đó đều là những
chủ thể mang lợi ích [52, tr.9]. Điều đó cho thấy, trong mọi quá trình sản xuất
- kinh doanh người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình sản xuất,
quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữ vai trò quyết định
trong hệ thống sản xuất.
Giáo sư Khoa Minh, trong "Bàn về lợi ích kinh tế" thì: Lợi ích kinh tế là
sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu
vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt
động kinh tế của con người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các
quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [31, tr.296].
Trên cơ sở khái quát tư tưởng của các nhà lý luận macxit, Giáo trình
Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn dành cho
khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường Đại
học, Cao đẳng trong toàn quốc, sách do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn
hành năm 2006 xác định: Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục

đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào các hoạt
động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những trình bày trên cho thấy: Lợi ích kinh tế là những lợi ích vật chất,
phản ánh mặt bản chất nhất của quan hệ sản xuất; là sự phản ánh khách quan
và chuẩn xác nhất mục đích, động cơ của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt
động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định.
Khái niệm trên chỉ rõ, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan.
Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động có nhận thức
của con người và con người càng nhận thức tự giác được phạm trù lợi ích thì
hoạt động của họ càng thu được kết quả cao. Bởi quan hệ sản xuất là phạm trù
kinh tế khách quan, nó luôn tồn tại vận động độc lập với ý thức của con người;
sự vận động của quan hệ sản xuất biểu hiện thông qua sự vận động của các quy
12


luật kinh tế. Chính thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà quan hệ
sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế phản ánh một
mặt của quan hệ sản xuất, các quy luật kinh tế là quy luật xã hội, phương thức
hoạt động của chúng đều phải thông qua con người. Do đó, tính khách quan
của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích kinh tế để chi phối con người hành
động theo quy luật.
* Lợi ích kinh tế của người lao động
Với cách tiếp cận trên, có thể nhận thấy, trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta, người lao động tự do làm việc theo năng lực và hưởng
theo kết quả lao động của họ. Đồng thời, giá trị sức lao động được quy về giá trị
của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động, phản ánh mức thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu đời sống vật
chất tinh thần của bản thân và gia đình người lao động. Trong hoạt động của một
doanh nghiệp, thì lợi ích kinh tế không phải ở trong nhận thức của con người, mà
ở trong một cơ sở kinh tế nhất định, nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ

thuộc vào nhận thức của con người. Do đó, trong quá trình lao động, sản xuất
người lao động không thể đặt lợi ích kinh tế của mình ngoài sự tồn tại của doanh
nghiệp, cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà
họ đang làm việc. Ngược lại, doanh nghiệp không tự nó đưa lại lợi ích kinh tế
cho người lao động, nó chỉ là điều kiện kinh tế khách quan để người lao động
thực hiện lợi ích kinh tế mà thôi như tạo việc làm, điều kiện làm việc, môi
trường thể hiện năng lực.
Theo hướng tiếp cận đó có thể hiểu, lợi ích kinh tế của người lao động
là phạm tù kinh tế khách quan, phản ánh quan hệ kinh tế của người lao động
với chủ thể kinh tế có liên quan trong các quan hệ kinh tế nhất định, biểu hiện
ở phần giá trị vật chất mà người lao động nhận được để thỏa mãn những nhu
cầu, phản ánh mục đích và động cơ khách quan của người lao động được hiện
thực hóa bằng các khoản thu nhập cả trực tiếp và gián tiếp.
Theo thống kê, hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào
với hơn 49 triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người) [34],
13


đang hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác
nhau của nền kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong
lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất không vật chất; những người có chuyên
môn kỹ thuật; người lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay
và trí óc. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, mở rộng hợp tác
quốc tế, sự gia nhập WTO (tới đây là TPP, AEC) và trong khuôn khổ của thể
chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả
mọi người khi tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho xã hội và
thu nhập quốc dân là hoạt động lao động, cho dù người đó là ai, tham gia lao
động ở thành phần kinh tế nào.
* Bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động
Bàn về bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động cũng như để có thể

đưa ra khái niệm về bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động, trước hết cần
có sự thống nhất về mặt quan niệm đối với thuật ngữ “đảm bảo”. Thế nào là
bảo đảm theo hàm nghĩa tiếng Việt, cũng như về mặt khoa học.
Xét về mặt từ nguyên, thuật ngữ “bảo đảm” trong tiếng Việt được
hiểu cùng nghĩa với thuật ngữ “đảm bảo” và cũng đều được hiểu là “làm
cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần
thiết” [53, tr.36, 272].
Như vậy, có thể thấy nói đến “đảm bảo” hay “bảo đảm” một cái gì đấy
thì không chỉ là những khả năng, mà còn bao gồm cả những hành động của
các chủ thể nào đó trong việc biến những khả năng ấy thành hiện thực.
Trong lĩnh vực kinh tế, thực tiễn lịch sử cho thấy dù ở thời đại kinh tế
nào, người lao động đều là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất,
những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và cho xã hội. Nhưng trong
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh tế và địa vị xã hội của họ
trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội lại có sự khác nhau. Trong quá
trình sản xuất, người lao động đem trí tuệ, tài năng lao động của chính mình
để sáng tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu vật
14


chất và tinh thần của bản thân, gia đình và làm tròn nghĩa vụ với xã hội và
cộng đồng. Do đó, người lao động có quyền được bảo đảm (được và phải
nhận được) những lợi ích từ kết quả lao động của mình. Lợi ích kinh tế của
người lao động là lợi ích người lao động có quyền được hưởng.
Từ cách tiếp cận trên đây có thể hiểu, bảo đảm lợi ích kinh tế cho người
lao động là tổng thể cách thức, biện pháp của các chủ thể trong việc thỏa mãn
nhu cầu kinh tế của người lao động trong các quan hệ kinh tế mà họ tham gia,
được hiện thực hóa bằng các khoản thu nhập cả trực tiếp và gián tiếp tương
xứng kết quả lao động mà họ đóng góp, phù hợp với các quan hệ kinh tế - xã
hội và quy định của pháp luật trong những điều kiện lịch sử nhất định.

Theo đó, bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động là nói tới mức độ,
khả năng thỏa mãn những nhu cầu về đời sống vật chất cũng như đời sống
tinh thần của người lao động. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được
thực hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế - xã
hội phát triển. Đồng thời phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo
ra tiền đề, khả năng thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu về đời sống vật chất
và tinh thần (tức lợi ích) của người lao động.
Chủ thể chịu trách nhiệm bảo đảm là chủ các doanh nghiệp, công ty, tập
đoàn, những người chịu trách nhiệm cao nhất trong quản lý hoạt động, điều
hành doanh nghiệp. Đối tượng được bảo đảm: là người lao động làm việc
trong doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị. Mục đích của việc bảo đảm là để
người lao động thực hiện được các quyền và lợi ích của mình, doanh nghiệp
phát triển và đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phương thức bảo đảm:
cả trực tiếp và gián tiếp (thông qua các khoản tiền công, tiền thưởng, phụ cấp
các loại và việc thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với người lao động của chủ
doanh nghiệp: về chế độ bảo hiểm; về ăn, ở của người lao động; các khoản hỗ
trợ bằng tiền khác…).
Như vậy, bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động là vấn đề khách
quan. Tuy nhiên, trong các chế độ xã hội khác nhau, quyền đó được bảo đảm
15


khác nhau. Trong nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lợi
ích kinh tế của người lao động được nhà nước bảo hộ. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, người lao động có quyền được
làm việc và được bảo đảm lợi ích kinh tế của mình.
1.1.2. Vai trò của bảo đảm lợi ích kinh tế đối với người lao động
Xuất phát từ quan niệm bảo đảm lợi ích kinh tế đối với người lao động
như đã nêu, có thể thấy khi việc bảo đảm đó thực hiện đúng, đủ, tức là “ tổng
thể cách thức, biện pháp của các chủ thể trong việc thỏa mãn nhu cầu kinh tế

của người lao động” được thực hiện tốt, sẽ có vai trò (tác dụng thúc đẩy) quan
trọng đối với người lao động trong các hoạt động lao động của họ. Có thể
khẳng định, việc bảo đảm lợi ích kinh tế đối với người lao động có vai trò kép
tác động trở lại sự phát triển của sản xuất kinh doanh và sự phát triển của đời
sống xã hội. Sự biểu hiện vai trò đó thể hiện trên các vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, bảo đảm lợi ích kinh tế là cơ cở tạo động lực để người lao
động nâng cao chất lượng hiệu quả các công việc mà họ đảm nhận.
Theo Ph.Ăngghen, lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản mà tất
cả mọi nguyên tắc phải tuân theo. Do đó, bất cứ hoạt động nào của con người
cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là động lực vật chất (kinh tế) và
động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động kinh tế,
không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh thần.
Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò quyết định nhất, là động lực
quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt động của con
người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là khả
năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh tế
và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết
thân của người lao động, trước hết phải là lợi ích kinh tế, vì nó luôn là động
lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với toàn xã hội.
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời
sống. Chính những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của
16


mình và tạo ra những kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt
động sản xuất - kinh doanh cho người lao động. Lợi ích kinh tế được nhận
thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành
động. Do đó, lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản
của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất - kinh doanh nói riêng.
Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những

quần chúng đông đảo và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của
con người "thì chúng lay động đời sống nhân dân". Lợi ích kinh tế còn có vai
trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể sản xuất - kinh doanh. Một khi con người (chủ thể) tham gia vào các
hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với kết
quả sản xuất, kinh doanh thì mới bảo đảm nâng cao tính ổn định và sự phát
triển của các chủ thể lợi ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi
ích không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ đó (quan hệ giữa các
chủ thể) xuống cấp. Nếu tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu
cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, bảo đảm lợi ích kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất
trong các nhân tố tác động đến hệ thống lợi ích của người lao động
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi ích kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, việc bảo đảm các lợi ích đều rất quan trọng.
Tuy nhiên, do trong hệ thống các lợi ích đó, lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết định
nhất, chi phối các lợi ích khác. Bởi vì, nó gắn liền với nhu cầu vật chất, nhằm
đáp ứng nhu cầu vật chất là nhu cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát
triển của con người, của xã hội. Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì
nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi ích khác. Đời sống vật chất của xã
hội được phồn thịnh, thì đời sống tinh thần cũng mới được nâng cao. Chính vì
vậy, bảo đảm lợi ích kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất trong khi đặt
việc bảo đảm đó trong mối quan hệ với bảo đảm các lợi ích khác.
Thực tế đã kiểm chứng, trong cơ chế kinh tế cũ ở nước ta, hầu như chỉ
17


tập trung quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch
hoá tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích kinh tế của người lao động,
có người còn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e ngại như là cái gì trái
với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng, điều đó đã

làm triệt tiêu động lực của con người trong lao động sản xuất. Từ khi Đảng và
Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đã tạo một động lực rất lớn đối với người lao động, kích thích
tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất và khi lợi ích
kinh tế được bảo đảm, sẽ tạo ra cơ sở bảo đảm các lợi ích khác của người lao
động. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là cơ sở thực hiện các lợi ích
khác, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy cao nhất vai trò của nguồn lực
lao động (đặt trong mối quan hệ với các nguồn lực khác) để phát triển sản
xuất, điều đó có nghĩa là, vấn đề cơ bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn
đề lợi ích kinh tế và phải coi lợi ích kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động đồng nghĩa với
việc làm gia tăng lợi ích kinh tế cho chủ thể sử dụng lao động.
Khi lợi ích kinh tế của người lao động được bảo đảm, thì như trên đã
phân tích, người lao động sẽ có động lực kinh tế để phát huy năng lực, trí tuệ,
sáng tạo thực hiện các công việc mà họ đảm nhận, cơ sở để nâng cao năng
suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, các yếu tố góp
phần chủ yếu trong việc làm gia tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó bảo đảm lợi ích kinh
tế cho người lao động đồng nghĩa với việc làm gia tăng lợi ích kinh tế cho chủ
thể sử dụng lao động và rộng hơn còn làm gia tăng lợi ích xã hội.
Thực tiễn cũng cho thấy, trong những năm gần đây do nắm bắt được
vai trò lợi ích kinh tế đối với người lao động là đòi hỏi tất yếu, để thực hiện
mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ doanh nghiệp đã biết quan tâm chăm lo
phát huy yếu tố nguồn lực lao động, coi trọng những lợi ích thiết thân của họ,
18


dựa vào lực lượng khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, đặt lòng tin, khắc
phục sự kỳ thị, đảm bảo thu nhập xứng đáng với khả năng đóng góp của

người lao động, tìm ra cơ chế đảm bảo phù hợp đối với các lợi ích đó, coi
trọng việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải thiện điều kiện lao
động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy tính sáng tạo, đưa lại
hiệu quả sản xuất cao cho doanh nghiệp. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn
tại một số doanh nghiệp lợi dụng sức lực của người lao động để thu nhiều lợi
nhuận, mà không quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Thực tế đó
đã dẫn tới các cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương…của người lao động
đối với giới chủ. Đây là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi các ngành chức năng
giải quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm làm việc và được hưởng
đúng với quyền lợi của mình, thông qua đó phát huy năng lực, trí tuệ và thực
hiện quyền của người lao động.
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm lợi
ích kinh tế cho người lao động trong các doanh nghiệp Hàn Quốc ở
tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Quan niệm bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động trong
các doanh nghiệp Hàn Quốc ở tỉnh Thái Nguyên
Bảo đảm lợi ích kinh tế cho các thực thể tham gia vào các quá trình sản
xuất xã hội (trước hết và trực tiếp là chủ doanh nghiệp và người lao động) là
yêu cầu tất yếu đối với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh và đối với mọi nền kinh
tế, nếu như các cơ sở sản xuất kinh doanh và nền kinh tế đó muốn tồn tại và
phát triển ổn định, sự bảo đảm đó là cho cả phía chủ doanh nghiệp và người lao
động. Tuy nhiên, thực tiễn chỉ ra rằng, sự bảo đảm lợi ích đó bao gờ cũng diễn
ra theo những cơ chế nhất định, nghĩa là sự bảo đảm đó sẽ được diễn ra theo
một cách thức nào đó. Theo đó, với cách thức bảo đảm A diễn ra thì có thể
nhận được sự đồng thuận của tất cả các bên và với một cách thức bảo đảm B
nào đó diễn ra lại có thể chỉ có một bên nào đó đồng tình, còn bên khác thì
19


phản đối. Do đó, có thể thấy việc bảo đảm lợi ích kinh tế cho các thực thể tham

gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là vấn đề mang tính cụ thể, tuân theo
những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, nó có những tính quy định chung,
nhưng lại mang sắc thái riêng với những trường hợp riêng. Do đó, có thể thấy
vấn đề bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động trong các DNHQ ở tỉnh
Thái Nguyên cùng với việc tuân theo cái chung là những quy định về quan hệ
kinh tế chủ - thợ trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở Việt Nam, còn có
nét riêng về quan hệ chủ - thợ trong các DNHQ ở Thái Nguyên và một số quy
định cụ thể riêng của tỉnh Thái Nguyên.
Từ sự phân tích trên có thể khái quát: Bảo đảm lợi ích kinh tế cho
người lao động trong các DNHQ ở tỉnh Thái Nguyên là tổng thể cách thức,
biện pháp của các chủ DNHQ tiến hành, có sự tham gia của các chủ thể có
liên quan khác trong việc thỏa mãn nhu cầu kinh tế của người lao động trong
doanh nghiệp, được thể hiện ở các khoản thu nhập cả trực tiếp và gián tiếp
tương xứng kết quả lao động mà họ đóng góp và phù hợp với quy định của
pháp luật Việt Nam
Nội hàm của quan niệm trên chỉ rõ
Chủ thể chịu trách nhiệm bảo đảm là chủ các DNHQ.
Các chủ thể khác có liên quan (lực lượng giám sát, phối hợp): Chi bộ
đảng trong doanh nghiệp (nếu có); tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên và các
đoàn thể xã hội khác (nếu có), các cơ quan chức năng có liên quan đến quản lý
hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Đối tượng được bảo đảm: là người lao động làm việc trong DNHQ.
Trong Bộ Luật lao động Việt Nam đã qui định đầy đủ phương thức
HĐLĐ giữa đại diện doanh nghiệp và người lao động, cách tính tiền lương và
trả lương, đóng BHXH, BHYT, BHTN, quyền và nghĩa vụ của người lao
động đối với doanh nghiệp, kể cả quyền được đình công, bãi công…. Lợi ích
của người lao động được thể hiện với tư cách là từng cá nhân, đồng thời với

20



tư cách là tập thể thông qua các tổ chức công đoàn. Việc bảo vệ lợi ích kinh tế
cho người lao động trong các DNHQ hướng tới bảo đảm thu nhập ngày càng
tăng và điều kiện sống ngày càng được cải thiện đối với họ. Các DNHQ
thường áp dụng các phương pháp lôi cuốn người lao của các cán bộ bên Việt
Nam làm trong liên doanh hoặc cán bộ là người Việt Nam trong DNHQ.
Do đó, người lao động cần có nhận thức đúng quyền lợi và nghĩa vụ
của mình trong các DNHQ bởi thành công của doanh nghiệp cũng đồng thời
là sự bảo đảm thu nhập ngày càng tăng và điều kiện sống ngày càng được cải
thiện đối với họ. Các DNHQ thường áp dụng các phương pháp lôi cuốn người
lao động tham gia quá trình sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh, như tăng
lương trước thời hạn, thưởng tháng lương thứ 13…
Mục đích của việc bảo đảm là để người lao động thực hiện được các
quyền và lợi ích của mình, doanh nghiệp phát triển và đạt được hiệu quả sản
xuất kinh doanh, đóng góp vào sự phát triển của kinh tế tỉnh Thái Nguyên.
Yêu cầu đạt tới của việc bảo đảm: là đúng, đủ, kịp thời tất cả các khoản
thuộc về lợi ích vật chất và tinh thần đã được ký kết trong các HĐKT, thỏa
ước lao động phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Phương thức bảo đảm: vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Bảo đảm trực tiếp
qua các khoản tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp các loại và việc thực hiện các
chế độ đãi ngộ đối với người lao động của chủ doanh nghiệp về chế độ bảo
hiểm; về ăn, ở của người lao động; các khoản hỗ trợ bằng tiền khác… Bảo
đảm gián tiếp qua các khoản phúc lợi như ốm đau, thai sản, y tế; qua việc bảo
đảm về điều kiện môi trường làm việc liên quan đến trạng thái sức khỏe và
tinh thần của người lao động.
Biểu hiện cụ thể của các lợi ích kinh tế mà người lao động được bảo
đảm gồm các khoản thu nhập như tiền công, tiền thưởng, các loại phụ cấp và
phúc lợi khác; đồng thời đáp ứng các điều kiện về môi trường làm việc thuận
lợi cho việc tăng năng suất lao động, bảo vệ về sức khỏe và sự phát triển về


21


tinh thần dưới sự giám sát và phối hợp của tổ chức chính trị, (nếu có); của tổ
chức công đoàn trong doanh nghiệp và sự kiểm tra của các cơ quan chức năng
thuộc chính quyền tỉnh Thái Nguyên. Ngoài ra, trên cơ sở thỏa thuận với người
sử dụng lao động được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an
toàn lao động, vệ sinh lao động, nghỉ theo chế độ, nghỉ phép hằng năm có lương
và được hưởng phúc lợi tập thể.
Như vậy, việc bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động trong các
DNHQ ở tỉnh Thái Nguyên không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ
DNHQ, mà còn có sự giám sát của các tổ chức chính trị, cơ quan chức năng
của bộ máy nhà nước thuộc tỉnh Thái Nguyên.
1.2.2. Nội dung bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động trong các
doanh nghiệp Hàn Quốc ở tỉnh Thái Nguyên
Thứ nhất, những bảo đảm trực tiếp từ kết quả lao động của người lao
động đã được thỏa thuận trong các HĐLĐ gồm:
Một là, về thu nhập từ tiền lương
Theo lý luận tiền công của C.Mác, việc mua bán trao đổi hàng hoá sức
lao động được thực hiện thông qua HĐLĐ giữa người lao động và chủ
doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng sức lao động đó và khi sức lao động trở
thành hàng hoá thì tiền lương chính là hình thức biểu hiện bằng tiền là giá cả
hay giá trị của sức lao động, như C.Mác đã chỉ ra: “Giá trị sức lao động là
giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người
có sức lao động ấy” [29, tr.256]. Về nguyên tắc, số tiền lương đó phải đảm
bảo giá trị của toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao
động, để duy trì cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Vì vậy, số
lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết đó cũng khác nhau phụ thuộc vào
giá trị sức lao động của từng người lao động bỏ ra: “Hao phí càng nhiều thì
việc bù đắp lại càng lớn” [29, tr.256].

Để bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động, Bộ luật Lao động đã quy

22


định rõ tiền lương trong Chương VI gồm 13 Điều, qui định về tiền lương cho
người lao động. Mặc dù tiền lương trong các DNHQ là do sự thoả thuận giữa
chủ doanh nghiệp và người lao động thông qua HĐLĐ, tiền công đó trả theo
năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, song Bộ luật Lao động đã qui định
tiền lương của người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà
nước qui định tại Điều 55 Bộ luật Lao động. Theo đó, mức lương tối thiểu
được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm việc giản đơn
nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một
phần tích luỹ, tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để
tính các mức lương cho các loại lao động khác [37, tr.37].
Hai là, về thu nhập từ các khoản tiền thưởng
Thực chất tiền thưởng là phần thưởng cho người lao động khi làm tốt
công việc của mình hơn mức trung bình, nó kích thích người lao động hăng
say làm việc, cống hiến và sáng tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Bên
cạnh tiền lương cơ bản thì tiền thưởng cũng là một bộ phận quan trọng trong
thu nhập bằng tiền, là một bộ phận hợp thành của tiền lương, được phân phối
theo số lượng và chất lượng lao động. Nhưng tiền lương cơ bản là bộ phận
tiền công cố định, còn tiền thưởng là bộ phận tiền công không cố định, nó
được tính toán theo một tỷ lệ nhất định trên tiền công cơ bản và thông thường
là thấp hơn tiền công cơ bản rất nhiều, đồng thời người lao động nhận được
nó thông qua phân phối lại từ quỹ khen thưởng được trích lập từ lợi nhuận của
các DNHQ.
Ba là, nhiều DNHQ đã thực hiện các khoản hỗ trợ khác bằng tiền
Các DNHQ có hiệu quả sản xuất, kinh doanh càng phát triển, hiệu quả
kinh tế đưa lại càng cao, thì quy mô của các quỹ phúc lợi càng lớn. Từ đó, các

DNHQ sẽ có điều kiện thực hiện từ các quỹ này. Người lao động nhận được
thu nhập, hay thực hiện được lợi ích kinh tế của mình từ quỹ phúc lợi thông
qua quá trình tái phân phối các quỹ đó dưới hình thức bằng tiền như (thăm
hỏi, hiếu, hỷ, lễ tết, trợ cấp khó khăn, sinh đẻ, ốm đau…) hoặc được hưởng
23


lợi ích của mình thông qua hình thức tham quan, nghỉ mát. Ngoài ra, từ quỹ
phúc lợi DNHQ trích ra một phần gọi là tiền phụ cấp là số tiền bổ sung thể
hiện trách nhiệm của người lao động, bù đắp cho người lao động làm việc
trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm, độc hại, thiên tai, hỏa hoạn...
Thứ hai, những bảo đảm gián tiếp đã được thỏa thuận trong các HĐLĐ.
Khi ký kết HĐLĐ bên cạnh việc bảo đảm tiền công cho người lao động
thì DNHQ còn cần phải thực hiện tốt điều kiện môi trường làm việc theo tiêu
chuẩn, bảo vệ về sức khỏe và sự phát triển về tinh thần. Điều 97 Bộ luật Lao
động chỉ rõ: Người sử dụng lao động phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu
chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về
bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố
có hại khác. Các yếu tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường [37, tr.184].
Một là, bảo đảm về điều kiện môi trường làm việc
Bảo đảm về trang bị bảo hộ lao động, bảo đảm điều kiện về môi trường
làm việc thuận lợi cho năng suất lao động, trên cơ sở thoả thuận với chủ doanh
nghiệp và người lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo
đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ phép hằng
năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể.
Hai là, bảo đảm về đào tạo nâng cao tay nghề
Trên thực tế, những người lao động vào làm việc trong DNHQ ở Thái
Nguyên được tuyển dụng trực tiếp từ hai nguồn chính: 1) Từ lao động kỹ thuật cao
(người lao động có trình độ học vấn, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học…). 2)
Lao động phổ thông từ mọi miền quê khác nhau, độ tuổi từ 18 đến 40 tuổi. Do xuất

phát từ nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, lực lượng lao động ở tỉnh Thái Nguyên tuy dồi
dào nhưng chất lượng chưa cao, lao động phần lớn chưa qua đào tạo; người lao
động quen với lề thói làm việc tự do, tính tự giác thấp, nên ý thức kỷ luật lao động
kém. Do đó, khi các nhà đầu tư Hàn Quốc sử dụng lao động để đạt mục đích kinh
doanh có lãi, thì trước hết họ cần phải đào tạo cho người lao động có trình độ
chuyên môn nhất định, để đảm nhận được công việc của doanh nghiệp.
24


Ba là, bảo đảm về đời sống tinh thần
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người là tổng hoà mối
quan hệ xã hội, bên cạnh những nhu cầu vật chất thì nhu cầu tinh thần cũng
đóng vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày. Ngoài thời gian lao động
sản xuất, con người phải có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí để phục hồi
sức khoẻ của mình. Thực tế người lao động làm việc trong các DNHQ ở Thái
Nguyên cơ bản phải chịu áp lực công việc lớn, tác phong làm việc công
nghiệp, nên người lao động cần được bảo đảm có một đời sống tinh thần tốt,
bảo đảm sức khoẻ để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp Hàn Quốc ở Thái Nguyên
Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao
động trong các DNHQ ở Thái Nguyên gồm:
Thứ nhất, nhân tố năng lực thể chất, chuyên môn và kết quả lao động
của người lao động trong các DNHQ
Từ các nghiên cứu cho thấy, nhân tố trình độ người lao động ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích kinh tế của họ. Người lao động muốn bảo đảm lợi ích kinh
tế, mức thu nhập ngày càng cao, đời sống tinh thần phong phú thì bắt buộc họ
phải có tay nghề chuyên môn vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Đồng thời,
người lao động phải lao động sản xuất, hay chính là phải có được việc làm ổn
định. Người lao động và chủ doanh nghiệp gặp gỡ nhau thông qua quá trình

tuyển dụng. Các chủ doanh nghiệp đều có chiến lược kinh doanh - sản xuất của
mình, đó là: sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động (ở đây đi sâu vào
nghiên cứu sức lao động). Nghĩa là, yêu cầu cần có lao động với trình độ như thế
nào? Ngược lại, người lao động muốn vào làm việc trong doanh nghiệp cũng cần
đáp ứng những yêu cầu như: sức khoẻ, giới tính, trình độ, năng lực… khi hai bên
đáp ứng được yêu cầu của nhau, sẽ dẫn tới ký kết HĐLĐ.
Bàn về vấn đề hàng hóa sức lao động, C.Mác cho rằng, để thực hiện quá
trình sản xuất của mình người chủ phải tìm thấy trên thị trường “một thứ hàng
25


hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có cái tính độc đáo là một nguồn sinh ra
giá trị” [29, tr.250]. Một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hoá
được lao động và do đó sẽ tạo ra được giá trị. Khi đó, người chủ đã tìm thấy:
“thứ hàng hoá đặc biệt ấy trên thị trường: đó là năng lực lao động, hay sức lao
động” [29, tr.251]. Vì vậy, người lao động trước hết phải khoẻ mạnh về thể chất
và tinh thần, hay chính là phải có sức lao động. “Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [29, tr.251]. Căn cứ vào tính chất phức tạp
của lao động mà sức lao động phải được đào tạo để đáp ứng. Trong xã hội, có rất
nhiều người cùng sản xuất - kinh doanh ra một mặt hàng, để thu được lợi nhuận
cao, người sản xuất phải luôn năng động, áp dụng những công nghệ mới vào sản
xuất, đồng thời phải tìm thấy trên thị trường sức lao động có trình độ phù hợp
với yêu cầu của mình. Để có được sức lao động phù hợp anh ta phải có chi phí
đào tạo để họ có tay nghề thích ứng với công việc. Những phần chi phí đó cũng
được tính vào giá trị sức lao động. Nhưng trong các DNHQ, thì giá trị sức lao
động được biểu hiện bằng tiền công, sau khi làm việc trong một thời gian nhất
định hoặc tạo ra một số lượng sản phẩm nhất định.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, chất lượng lao động của Việt

Nam còn rất thấp. Với thang điểm 10, chất lượng lao động Việt Nam mới được
3,79 điểm, trong khi đó Thái Lan: 4,04 điểm, Philippines: 4,53 điểm, Malaysia:
5,59 điểm, Trung Quốc: 5,73 điểm, Ấn Độ: 5,75 điểm, Hàn Quốc: 6,91 điểm [4,
tr.5]. Do vậy, xét về phương diện quốc gia, các bộ, ngành liên quan cần phải xã
hội hóa dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô và mô hình đào tạo, cần có chính
sách hỗ trợ cho người đi học nghề theo hướng đào tạo theo đơn đặt hàng: DNHQ
đặt hàng đào tạo và cho người học vay tiền, đi làm trả dần; hoặc có mô hình
ngân hàng cho người học vay tiền học phí với lãi suất ưu đãi.
Thứ hai, nhân tố thái độ, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp với tư
cách là chủ thể trực tiếp bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động
26


Vấn đề bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNHQ ở
Thái Nguyên như thế nào không chỉ phụ thuộc vào năng lực thể chất, chuyên
môn và kết quả lao động của người lao động trong các DNHQ, mà còn phụ
thuộc vào thái độ, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp với tư cách là chủ thể
trực tiếp bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động. Dĩ nhiên, sự chi phối đó
được xác định trong điều kiện các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh
doanh bình thường, có lợi nhuận.
Trong điều kiện các DNHQ ở tỉnh Thái nguyên có các hoạt động sản
xuất kinh doanh bình thường, nghĩa là họ đủ các điều kiện kinh tế khách quan
để bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động trong doanh nghiệp thì việc bảo
đảm đó như thế nào, bị chi phối bởi thái độ, trách nhiệm của các chủ doanh
nghiệp. Theo tính quy luật chung, các nhà doanh nghiệp giỏi là những nhà
doanh nghiệp biết quan tâm đến lợi ích của người lao động làm việc trong
doanh nghiệp của họ. Vì thế, họ sẽ có thái độ và trách nhiệm đầy đủ trong bảo
đảm các lợi ích của người lao động. Vì làm như vậy là họ tự bảo đảm tốt nhất
cho lợi ích của mình. Tuy nhiên, trong thực tiễn do nhiều nguyên nhân, có
những chủ doanh nghiệp chỉ chú tâm vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, nên

“cố tình quên” nghĩa vụ và trách nhiệm của họ với người lao động và đất
nước mà doanh nghiệp đó đứng chân.
Do đó, cùng với các nhân tố khác, việc bảo đảm lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNHQ ở Thái Nguyên cũng chịu sự tác động từ
nhân tố thái độ, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp với tư cách là chủ thể
trực tiếp bảo đảm lợi ích kinh tế cho người lao động
Thứ ba, nhân tố luật pháp, cơ chế chính sách của Nhà nước Việt Nam
Trên thực tế, các DNHQ đầu tư vào Việt Nam đã khai thác được nhiều lợi
thế như: nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên phong
phú, đặc biệt là tình hình chính trị ổn định. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, nên hệ thống luật pháp Việt Nam vẫn còn tồn tại những

27


×