Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý QUÁ TRÌNH đào tạo ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG y tế hà ĐÔNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.38 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO
TẠO Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG

1.1. Các khái niệm cơ bản
Nội dung quản lý quá trình đào tạo ở trường cao
1.2.
đẳng
1.3. Các nhân tố tác động đến quản lý quá trình đào tạo
ở trường cao đẳng

Trang
3
15
15
25

31

Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO
TẠO Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ ĐÔNG

2.1. Thực trạng quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y
tế Hà Đông
2.2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng quản lý quá
trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông

38
38


43

Chương 3. BIỆN PHÁP VÀ KHẢO NGHIỆM BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG

61

CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ ĐÔNG HIỆN NAY

3.1. Biện pháp quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao
đẳng Y tế Hà Đông hiện nay
3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp quản lý đã đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

61
78
86
88
91

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2



Trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, quá trình quốc tế hoá sản
xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và phân công lao động diễn ra ngày càng
sâu rộng, chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố quyết định thắng lợi
trong cạnh tranh phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, chú trọng phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là chìa khoá để phát triển kinh tế.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược” và coi đó là khâu quan trọng để tạo ra
nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong Chiến lược Phát triển kinh tế đất nước, việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đã thực sự trở thành nhiệm vụ then chốt. Chiến lược Phát triển kinh
tế, xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đảng đã xác định: “Đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của
các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp,
cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân
lực theo nhu cầu xã hội”.
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng
nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng và các trình độ thấp hơn về các chuyên
ngành Y - Dược theo hướng đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng và
tăng quy mô một cách hợp lý nhằm phục vụ chiến lược chăm sóc sức khỏe
nhân dân Thủ đô và cả nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, công tác đào tạo
của nhà trường trong những năm qua còn tồn tại một số vấn đề như quá trình
quản lý đào tạo chưa đồng bộ từ mục tiêu, nội dung chương trình, đội ngũ giáo
viên, phương pháp đào tạo, điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, chất lượng đào
tạo chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực y tế chất
lượng cao cho Thủ đô và cả nước. Thực tiễn đó, đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm

3



kiếm biện pháp quản lý quá trình đào tạo của nhà trường đạt hiệu cao, đáp ứng
yêu cầu của thực tế hiện nay.
Vấn đề nghiên cứu quản lý quá trình đào tạo nói chung đã được nhiều
tác giả đề cập đến, song vấn đề nghiên cứu quản lý quá trình đào tạo của
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý quá trình
đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp đồng thời cũng là việc vận dụng những kiến thức, phương pháp đã học
vào thực tiễn của bản thân, hy vọng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Có nhiều tác giả nước ngoài cũng nghiên cứu về quản lý đào tạo, về dạy
và học ở bậc đại học, cao đẳng như “Teaching and learning in Higher
Education" của barry Dart vaf Gilian Boulton - Lewis ( Hội đồng nghiên cứu
giáo dục Úc melbourne, 1998), “learning and Teaching in Higher
Education:Advancing international perspectives” do Rosalind Murray - Harvey
và Halia Silins biên tập (Hội nghị về tiến trình nghiên cứu giáo dục đại học,
Adelaide, tháng 7 - 1997), “ Handbook for teaching & learning in higher
education” của Heather Fry, steve Ketteridge and Stephanie Marshall (2003)
Kogan Page Limited…
Danielle Colardyn (1998) trong công trình ”Đảm bảo chất lượng cơ sở
đào tạo trong dạy nghề thường xuyên ” khẳng định: Đào tạo nghề thường
xuyên trong khuôn khổ học tập suốt đời cũng nhấn mạnh đặc biệt về cách
quản lý đào tạo nghề. Trước tiên mỗi quốc gia phát triển theo cách tiếp cận
riêng của mình về quản lý đào tạo nghề. Thứ hai các tiêu chí đào tạo nghề
chung cũng được sử dụng như một tham chiếu ở từng quốc gia. Thứ ba các
4



tiêu chí cũng được trả lời bằng các câu hỏi khác nhau và sự cần thiết để cung
cấp các đánh giá một cách khách quan.
Có thể nói, các công trình khoa học ở trong và ngoài nước đều quan
tâm đến công tác đào tạo nghề, mục đích tạo cho con người dễ dàng hòa
nhập với cuộc sống lao động nghề nghiệp trong nền kinh tế - xã hội của mỗi
Quốc gia. Đến nay, khoa học quản lý ở Việt nam vẫn còn non trẻ đang được
nhiều người quan tâm, suy ngẫm, tổng kết và vận dụng, vấn đề mang tính
thời sự gắn liền với các bước phát triển của các cơ cở khám chữa bệnh, tổ
chức, nhà nước và nhân loại. Cho đến nay, đã có những công trình nghiên
cứu, bài báo viết liên quan hoặc đề cập đến khoa học quản lý, công tác quản
lý đào tạo nghề. Điển hình là :
GS.VS.TSKH Phạm Minh Hạc: Phân tích tình hình giáo dục và đào tạo
nước ta và phương hướng đổi mới giáo dục và đào tạo đã xác định: Việc xây
dựng một nền giáo dục kỹ thuật, đó là "Nền giáo dục được chỉ đạo bằng tư
tưởng phục vụ phát triển công nghệ". Kết quả nghiên cứu của tác giả về con
người trong công cuộc đổi mới, "Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là
thước đo của mọi bậc thang giá trị. Mỗi thời đại mới đều được chuẩn bị tập
trung vào vấn đề con người, chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi quá trình
biến đổi xã hội. Thời kỳ đổi mới ở nước ta cũng vậy". Công trình nghiên cứu
của tác giả, đã có nhiều yếu tố được đề cấp tới, trong đó có đề cập tới yếu
tố ."Bắt đầu chú ý nhiều hơn đến giáo dục nghề nghiệp" .
Tác giả GS, TS Phạm Tất Dong, trong công trình khoa học của mình,
đã điều tra: "Trong những người không kiếm ra việc làm, có 85,8% là thanh
niên trong tổng số thanh niên đứng ngoài việc làm, có 67,4% là không biết
nghề" . Trên cơ sở đó, tác giá xác định cần:"Chú trọng việc hình thành những
năng lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ để họ tự tìm ra việc làm", đồng

5



thời ."Tiếp sau quá trình hướng nghiệp, dứt khoát phải dạy nghề cho học sinh
vv... đây sẽ là một nguyên tắc cơ bản" .
Trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX-05-09 đề tài
đề cập đến nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. PGS, TS Nguyễn Văn Lê cho rằng: "Nghiên cứu giáo
dục nghề nghiệp là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề có ý nghĩa chiến lược". Cũng trong đề
tài khoa học này, GS, TS Nguyễn Quang Uẩn đã nêu: "Phát triển con người
thực chất là mở rộng và phát huy những tiềm năng, năng lực của con người
trong hoạt động, đó là quá trình gia tăng gía trị cho con người, giá trị tinh
thần, trí tuệ, giá trị đạo đức, giá trị thể chất, vật chất, hay nói khác đi là quá
trình phát triển trí tuệ, đạo đức nhân cách và tay nghề...”.
Các tác giả Trần Kiểm, Bùi Minh Hiền trong giáo trình “Quản lý và lãnh
đạo nhà trường” nghiên cứu về nhà trường và quản lý lãnh đạo nhà trường.
Tác giả Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức “Lý luận dạy học Đại học”, đã
cung cấp lý luận quá trình dạy học, tính quy luật của quá trình dạy và học và
hệ thống nguyên tắc dạy học, các phương pháp dạy học làm cơ sở nghiên cứu
về các hoạt động dạy học.
Đề tài nghiên cứu. “Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thức tổ chức đào tạo
nghề kết hợp tại trường và tại cơ sở sản xuất.
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Các giải pháp gắn đào tạo với sử dụng
lao động của hệ thống dạy nghề Hà Nội”.
Một số bài báo khoa học đăng trên các tạp chí của các nhà nghiên cứu
giáo dục như GS, TSKH Nguyễn Minh Đường, PGS, TS Nguyễn Viết Sự, GS
Vũ Văn Tảo, các nhà quản lý giáo dục.
Hồ Văn Vĩnh trong giáo trình “Khoa học quản lý”, tác giả Trần Quốc
Thành trong giáo trình “Khoa học quản lý đại cương”
6



“Quản lý hoạt động thực tập sư phạm ở trường Cao đẳng sư phạm Nha
Trang - Thực trạng và giải pháp”(2003), Luận văn Thạc sỹ của Phan Phú là
một công trình nghiên cứu khoa học nhằm vào phân tích thực trạng của việc
quản lý thực tập của trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang, những nguyên
nhân của thực trạng, để từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại góp
phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo.
“Thực trạng việc quản lý thực tập của trường Cao đẳng bán công hoa sen
và một số giải pháp ” (năm 2004), Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Trân Thúy.
Nghiên cứu sâu về quản lý giáo dục, các tác giả Phạm Khắc Chương
trong giáo trình “ Quản lý giáo dục đại cương” và tác giả Trần Kiểm trong
giáo trình “Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục” đã đề cập
đến quản lý giáo dục, các chức năng quản lý giáo dục, một số vấn đề quản lý
giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường.
Bài báo “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh
tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng” của tác giả Hoàng Văn Châu, đã đề
cập đến những bất cập của thị trường lao động của nước ta thời gian qua.
Theo tác giả, thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm
nguồn nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Sau khi khảo sát đánh giá thực trạng
và chỉ ra nguyên nhân của tình hình, từ đó tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới. Nhìn chung, các giải
pháp đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng đào tạo.
“Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực ở nước ta” của tác giả
Nguyễn Trung, theo tác giả, cần phải nhìn nhận nguồn nhân lực với cái nhìn
rộng hơn, báo quát hơn, chứ không thể bó gọn trong một vài đối tượng nào
đó. Từ đó tác giả cho rằng, nguồn nhân lực phải bao gồm tất cả mọi người,
thuộc mọi tầng lớp xã hội, nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp
nhất đến cao nhất - kể từ người làm nghề lao động đơn giản nhất đến những
7



người hoạch định chính sách, quản lý đất nước. Với cách tiếp cận đó, tác giả
đã coi vấn đề phát triển nguồn nhân lực thực chất là ngày càng làm tốt hơn
việc giải phóng con người. Điều này đòi hỏi cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu:
tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực và thường xuyên
đổi mới, cải thiện môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ gìn môi
trường tự nhiên của quốc gia.
Bài “Chất lượng nguồn nhân lực - điều kiện tiên quyết phát triển kinh tế
đất nước” của tác giả Nguyễn Minh Phong, Viện nghiên cứu phát triển
kinh tế xã hội Hà Nội, Theo tác giả, người dân Việt Nam có tiềm năng trí tuệ
và sáng tạo khá cao, cần cù, yêu lao động, dễ thích nghi với các điều kiện lao
động khác nhau; tài nguyên thiên nhiên Việt Nam khá phong phú, song nền
kinh tế lại đang ở trình độ phát triển thấp; số người đi học ngày càng tăng, song
tình trạng người lao động không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
và lượng sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học chưa tìm được việc làm
còn nhiều… Trước đòi hỏi đó, nền giáo dục Việt Nam cần chuyển từ đào tạo
dựa theo khả năng sẵn có của mình sang đào tạo theo nhu cầu và đáp ứng nhu
cầu xã hội, gắn quá trình hình thành và phát triển thương hiệu của mình với
chất lượng thực tế của các sinh viên - sản phẩm “đầu ra” sẽ là chuyển biến
quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đưa ra các giải pháp: xây
dựng chiến lược phát triển GD&ĐT trên cơ sở điều tra, khảo sát toàn diện,
khách quan, đánh giá chính xác chất lượng đội ngũ lao động; làm tốt công tác
dự báo nhu cầu lao động theo ngành nghề, cấp, trình độ ở từng vùng, khu vực
cũng như trên phạm vi cả nước; dự báo xu hướng phát triển thị trường lao động
và nền kinh tế để xây dựng, hoàn thiện chiến lược GD&ĐT; đa dạng hoá các
hình thức và cấp độ đào tạo, các nội dung đào tạo phải cập nhật các tiến bộ
khoa học kỹ thuật hiện đại; gắn kết nội dung đào tạo với yêu cầu của thị
trường, nhất là thị trường quốc tế.
8



“Thực trạng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam”,
Báo cáo Khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba với chủ đề:
“Việt Nam hội nhập và phát triển”, của tác giả Đức Vượng, Viện trưởng Viện
Khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực chỉ rõ: nguồn nhân lực Việt Nam khá
dồi dào, nhưng chưa được quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch và khai
thác hiệu quả, còn đào tạo nửa vời, nhiều người chưa được đào tạo; chất
lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực; sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân
lực từ nông dân, công nhân, trí thức,… chưa tốt, thiếu sự cộng lực để cùng
nhau thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ đó, tác giả
đã đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam: cần coi nguồn
nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam; nâng cao chất lượng con
người và chất lượng cuộc sống; Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo
nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức; có kế hoạch khai thác, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng các nguồn nhân lực cho đúng. Hằng năm, Nhà nước
cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá
đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở
đó xây dựng chính sách mới và điều chỉnh sự phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam phù hợp với thực tế.
Trong bài viết “Giải pháp nào cho giáo dục đại học?” tác giả Hoàng
Tụy nhận định “Trên thế giới không ở đâu đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ nhanh,
nhiều, rẻ và ẩu như ở nước ta…”. Theo ông “đó là kết quả khó tránh của ý
muốn tập trung quan liêu; từ việc thi tuyển nghiên cứu sinh đến thành lập hội
đồng chấm luận văn, tổ chức phản biện các luận văn…”. Để chỉnh đốn tình
trạng này theo ông “cần rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, số ngành
được phép đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, ngành nào còn yếu thì cương quyết chấm
dứt đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước ngoài. Đồng thời trả lại các
9



đơn vị được phép đào tạo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ từ việc
tuyển sinh, lựa chọn chương trình đào tạo cho đến cấp bằng”.
Tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết đăng trên kỷ yếu hội thảo “Giáo
dục đại học Việt Nam hội nhập quốc tế” do Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức tháng 11 năm 2012 đã chỉ ra những cơ hội của giáo dục đại
học Việt Nam khi bước vào hội nhập quốc tế là “được tiếp cận với hệ thống
các tri thức khoa học mới, tiên tiến nhất của thế giới, được cập nhật và học hỏi
các nội dung đào tạo tiên tiến của các trường khác ở nước ngoài, khả năng
liên kết với các trường khác ở nước ngoài, khả năng liên kết với các trường đại
học quốc tế danh tiếng về nến học thuật, nghiên cứu, được nhận sự viện trợ, tài
trợ cho giáo dục đại học Việt Nam”. Tuy nhiên bên cạnh đó ông cũng chỉ ra
những thách thức, khó khăn trong tiến trình hội nhập quốc tế: Khi thay đổi tư
duy kinh tế trong giáo dục theo cơ chế thị trường có nguy cơ ảnh hưởng đến
việc bảo tồn và duy trì các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống, sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt trong thị trường giáo dục khi ngày càng có nhiều trường với
nhiều loại hình đào tạo, nhiều ngành nghề và cơ chế chính sách cho người học
giữa hai hệ thống công lập và tư thục, tín chỉ được thực hiện ở Việt Nam vẫn
chưa hoàn toàn được như thế giới, tính liên thông, liên kết ngang - dọc vẫn còn
rất nhiều hạn chế, năng lực nghiên cứu khoa học và sử dụng thành thạo các kỹ
năng ngoại ngữ của cán bộ - giảng viên để có thể hội nhập được với nền khoa
học của khu vực và thế giới là thấp...
Theo tác giả Lê Xuân Tề trong bài viết “Trường Đại học Kinh tế Công
nghiệp Long An nâng cao chất lượng đào tạo” được đăng trong kỷ yếu hội
thảo Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt
Nam do Ban Liên lạc các trường đại học Việt Nam tổ chức cho rằng có 6 yếu
tố quyết định đến chất lượng đào tạo đó là chương trình đào tạo, đội ngũ cán
bộ giảng dạy, chất lượng giáo trình và sách giáo khoa; phương pháp giảng
dạy; liên kết trong đào tạo và cơ sở vật chất.
10



Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Thị Mai Phương về thực trạng và giải
pháp quản lý đào tạo từ xa tại Đại học Mở Bán công thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2005 - 2010, năm 2006, đề tài này đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của
Đại học Mở và nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường về mục tiêu đào tạo hình thức từ
xa mà nhà trường đã thực hiện mô hình đầu tiên của cả nước trong thời gian.
Tóm lại, quản lý quá trình đào tạo, dạy nghề là một đề tài thu hút rất
nhiều sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, học giả. Tuy nhiên
đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu là khác nhau, vì vậy việc thực
hiện đề tài “Quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông
hiện nay” là không có sự trùng lặp về đối tượng nghiên cứu với bất kỳ một
công trình nghiên cứu nào trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất các
biện pháp quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông, nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân Thủ đô và cả nước trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý quá trình đào tạo trong trường
cao đẳng trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý quá trình đào tạo tại Trường
Cao đẳng Y tế Hà Đông.
- Đề xuất các biện pháp quản lý quá trình đào tạo của Trường Cao đẳng
Y tế Hà Đông trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục - đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông.
11



* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu: đề tài giới hạn trong nghiên cứu quản
lý quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông.
Phạm vi về thời gian: đề tài nghiên cứu các báo cáo tổng kết, các sản phẩm
của quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông, từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao Đẳng Y tế Hà Đông là chức
năng, nhiệm vụ của các chủ thể quản lý, đứng đầu là Hiệu trưởng. Nếu Hiệu
trưởng và các chủ thể quản lý thực hiện tốt các biện pháp như: Tổ chức giáo
dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các lực lượng tham gia vào quá
trình đào tạo; chỉ đạo xây dựng và thực hiện tốt mục tiêu, nội dung chương
trình, phương pháp và hình thức đào tạo; xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên
đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu; bảo đảm cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho quá trình đào tạo; tổ chức tốt việc đánh
giá hoạt động học tập của sinh viên,... thì sẽ quản lý được quá trình đào tạo của
nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực y tế cho Thủ đô và cả
nước hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo, quản lý giáo dục; trực tiếp là
các quan điểm tư tưởng về phát triển, quản lý, đổi mới quá trình đào tạo cao
đẳng và dạy nghề. Đồng thời luận văn vận dụng các quan điểm phương pháp
luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học giáo dục như quan
12



điểm hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lôgic, quan điểm thực tiễn trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Bao gồm các phương pháp: nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp,
khái quát hoá, hệ thống hoá các tài liệu về hoạt động quản lý, nội dung,
chương trình đào tạo, hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học tập của
học sinh, sinh viên; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Y tế; Luật Giáo dục; các giáo trình; các công trình nghiên cứu; các bài
tham luận; báo khoa học có liên quan đến đề tài đã được công bố và đăng tải
trên các tạp chí, báo, kỷ yếu khoa học, hội thảo.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo của cán bộ
quản lý đào tạo, hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học tập của
học sinh, sinh viên.
- Phương pháp điều tra: Xây dựng phiếu khảo sát dành cho các đối
tượng khác nhau là học sinh, sinh viên, giảng viên và cán bộ quản lý nhằm
tìm hiểu thực trạng quản lý quá trình đào tạo trình độ ở Trường Cao đẳng Y
tế Hà Đông.
Chúng tôi đã gửi 60 phiếu đến cán bộ quản lý (hiệu trưởng, hiệu phó;
trưởng và phó của các phòng: Quản lý đào tạo, Khảo thí và đảm bảo chất
lượng giáo dục và đào tạo, Quản lý học sinh và sinh viên; trưởng và phó các
bộ môn) và giảng viên có kinh nghiệm của nhà trường. Sau khi thu và xử lý
sơ bộ, có 42 phiếu có đủ thông tin để phân tích kết quả.
- Phương pháp phỏng vấn và trao đổi: Phỏng vấn sâu và tọa đàm với đại
diện cán bộ, giảng viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông làm rõ hơn thực trạng
và nguyên nhân thực trạng và các vấn đề khác thuộc phạm vi của luận văn.
13



- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Đúc rút những kết kinh nghiệm thực
tiễn về vấn đề quản lý quá trình đào tạo ở Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông.
- Phương pháp khảo nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm các biện pháp đã
đề xuất để khẳng định tính tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đó.
Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm Excel tính tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, độ
tương quan của các câu hỏi cũng như giữa các đối tượng tham gia khảo sát.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài có ý nghĩa to lớn thiết thực trong quản lý quá trình đào tạo của
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông hiện nay. Góp phần hệ thống hóa những vấn
đề lý luận về quản lý quá trình đào tạo và là tài liệu tham khảo trong quá trình
giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học ở Trường Cao đẳng Y tế Hà
Đông.Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giúp các nhà quản lý ở các
trường cao đẳng y tế tham khảo, áp dụng.
8. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương (7 tiết).

14


Chương 1
CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đào tạo và quá trình đào tạo
Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng “Đào tạo là quá trình hoạt động
có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống có tri thức, kỹ

năng, kỹ xảo, thái độ để hình thành và hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân
tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách năng suất và hiệu quả”.
Theo tác giả Mạc Văn Trang “Đào tạo là hình thành kiến thức, thái độ,
kỹ năng, chuyên môn nghề nghiệp bằng một quá trình giảng dạy, huấn luyện
có hệ thống theo chương trình qui định với những chuẩn mực nhất định
(chuẩn quốc gia hay quốc tế).
Như vậy, đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho
con người đó lĩnh hội và nắm vững kiến thức theo một chương trình mục
tiêu ngành đào tạo nhất định, nhằm hoàn thành và phát triển có kiến thức, kỹ
năng, thái độ lao động nghề nghiệp cho mỗi cá nhân. Quá trình đào tạo được
tiến hành ở trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc các cơ sở
đào tạo tùy theo từng cấp học, thời gian học tập và nội dung đào tạo của từng
khóa học, kết thúc khóa học khi người học đạt được yêu cầu đã định trước đó
sẽ được cấp một văn bằng tốt nghiệp hoặc một chứng chỉ tốt nghiệp.
Đào tạo ở các nhà trường được diễn ra như một quá trình, nó bao gồm các
thành tố cơ bản như: mục đích đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo,
giảng viên, học sinh, sinh viên, kết quả đào tạo,… các yếu tố này quan hệ và
thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình đào tạo. Từ đó có thể hiểu: Quá trình đào tạo
là những hoạt động giảng dạy, học tập, giáo dục nhân cách được diễn ra theo
một chu trình khép kín từ việc xác định, thực hiện mục tiêu, nội dung, phương
15


pháp, hình thức, kết quả đào tạo; đặc biệt, dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển
của cán bộ quản lý, giảng viên,... học sinh, sinh viên tích cực, chủ động, tổ chức,
điều khiển hoạt động giảng dạy, học tập, nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và
giá trị nghề nghiệp theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã xác định.
Từ khái niệm quá trình đào tạo ở trường cao đẳng cho thấy quá trình này
bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương
tiện, hình thức tổ chức đào tạo, người dạy, người học, kết quả… Trong đó, hoạt

động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên là yếu tố trung tâm,
năng động nhất, trong đó giảng viên đóng vai trò điều khiển, chỉ đạo, hướng
dẫn sinh viên tự giác, tích cực, chủ động trong chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng
nghề nghiệp thông qua tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình,
nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu đào tạo nghề đã được xác định.
Mục tiêu của quá trình đào tạo:
Là kết quả dự kiến trước của quá trình chuẩn bị con người cho các lĩnh
vực hoạt động xã hội; đó là bộ phận trong mô hình nhân cách của con người
phát triển toàn diện, được phác thảo mô hình hoá thành những yêu cầu xác
định về phẩm chất và năng lực cần phải đạt được sau thời gian dạy học, giáo
duc trong nhà trường.
Cấu trúc của mục tiêu quá trình đào tạo trong nhà trường, bao gồm
nhiều mục tiêu (hệ thống đa cấp), có ý nghĩa quan trọng hàng đầu xuyên suốt
quá trình đào tạo; nó là phương hướng cơ bản cho các chủ thể, các lực lượng
tham gia vào quá trình này, là căn cứ qui định phương hướng, xác định nội
dung, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức và là thước đo để đánh giá kết
quả của quá trình đào tạo trong nhà trường.
Chủ thể và đối tượng của quá trình đào tạo:
Chủ thể của quá trình đào tạo trong nhà trường là nhà giáo dục (hoạt
động truyền thụ). Nhà giáo dục là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục
16


và các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường. Nhà giáo dục có vai trò là chủ thể
năng động nhất của quá trình sư phạm, chi phối, thúc đẩy các nhân tố khác.
Hoạt động chủ yếu là truyền thụ và tổ chức hoạt động lĩnh hội cho đối tượng
giáo dục.
Đối tượng của quá trình đào tạo trong nhà trường, là học sinh, sinh
viên. Họ có vai trò vừa là khách thể vừa là chủ thể của quá trình đào tạo. Đối
tượng giáo dục tự tổ chức các hoạt động lĩnh hội của bản thân theo yêu cầu

của nhà giáo dục; là nhân tố quyết định trực tiếp trình độ biến đổi và phát
triển năng lực, phẩm chất của chính mình, tồn tại thống nhất có mối quan hệ
biện chứng với nhà giáo dục.
Nội dung quá trình đào tạo:
Nội dung quá trình đào tạo trong nhà trường, là hệ thống kiến thức, kỹ
năng và những phương pháp, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, các chuẩn
mực, giá trị, phẩm chất cần trang bị cho học sinh, sinh viên; là sự cụ thể hoá
của mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục và có mối liên hệ hữu cơ với mục tiêu,
phương pháp và kết quả giáo dục.
Hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện giáo dục (đào tạo):
Hình thức tổ chức đào tạo là cách thức tổ chức các hoạt động dạy học
- giáo dục của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm thực hiện mục
tiêu đào tạo.
Phương pháp đào tạo là toàn bộ những cách thức, biện pháp truyền thụ
và lĩnh hội, giáo dục nhân cách của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo.
Phương tiện đào tạo là những vật mang thông tin sư phạm, trợ giúp cho
hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.
Mỗi nhân tố có vị trí chức năng riêng khác nhau nhưng giữa chúng có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, xâm nhập và chi phối lẫn nhau.
17


Kết quả quá trình đào tạo.
Là trình độ phát triển nhân cách của học sinh, sinh viên (bao gồm cả
phẩm chất và năng lực) theo thiết kế của mục tiêu, là thước đo đánh giá chất
lượng quá trình đào tạo, là kết quả hoạt động của các lực lượng tham gia vào
quá trình này. Kết quả quá trình đào tạo, nếu được đối chiếu với mục tiêu và
được điều chỉnh kịp thời sẽ đưa quá trình này đi đúng hướng, đáp ứng yêu cầu
xã hội.

Bức tranh chung về cấu trúc của quá trình đào tạo trong nhà trường cho
phép tiếp cận rõ hơn vị trí, chức năng cũng như mối liên hệ tác động qua lại
giữa các nhân tố, các quá trình bộ phận quy định xu hướng vận động, phát
triển của quá trình này. Muốn nâng cao hiệu quả quá trình đào tạo trong nhà
trường phải chú trọng đổi mới cải tiến, hoàn thiện, nâng cao đồng bộ các nhân
tố của nó.
1.1.2. Quản lý quá trình đào tạo
Theo Các-Mác: Một nhạc sĩ độc tấu thì điều khiển lấy mình nhưng một
giàn nhạc phải được điều khiển bởi nhạc trưởng”. F.W. Taylor (Mỹ, 18561915) được đánh giá là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học đã đưa ra định
nghĩa: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
khiến họ hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. H.Fayol (Pháp,
1841-1925) nói về nội hàm của khái niệm như sau: “Quản lý tức là lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Peter Druker quan niệm
“Quản lý là một chức năng xã hội nhằm để phát triển con người và xã hội với
những hệ giá trị, nội dung, phương pháp biến đổi không ngừng.
Theo tác giả Trần Kiểm viết: “Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất
18


và quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể ngườithành viên của hệ-nhằm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt mục đích dự kiến”.
Từ những định nghĩa nêu trên có thể hiểu quản lý là một quá trình
mang tính xã hội. Dù được tiếp cận theo bất kỳ cách nào, quản lý cũng mang
một số đặc trưng cơ bản như: Quản lý là thuộc tính bất biến, nội tại của mọi
quá trình xã hội; Quản lý được thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã
hội; Quản lý, xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin; Quản lý bao
giờ cũng là những tác động có hướng đích, là những tác động phối hợp nổ lực
của các cá nhân thực hiện mục tiêu của tổ chức; Yếu tố con người, trong đó,

chủ yếu bao gồm người quản lý và người bị quản lý giữ vai trò trung tâm
trong chu trình, trong hoạt động quản lý; Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa
hai bộ phận chủ thể quản lý và khách thể quản lý, đây là mối quan hệ ra lệnh phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc; Quản lý là sự tác động, mang
tính chủ quan nhưng phải phù hợp với qui luật khách quan. Quản lý có khả
năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại.
Chức năng quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ
thể quản lý lên khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Đó là tập hợp
những nhiệm vụ mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý:
Chức năng hoạch định (kế hoạch hóa): là chức năng đầu tiên và quan
trọng nhất của quản lý, nhằm định ra chương trình, mục tiêu, chiến lược, biện
pháp thực hiện mà quản lý cần đạt;
Chức năng tổ chức: là chức năng điều phối các nguồn lực, hình thành
nhóm chuyên môn hóa, các phân hệ tạo nên hệ thống...nhằm thực thi kế hoạch
quản lý và đạt tới mục tiêu mong muốn;
Chức năng điều khiển (lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện): là chức năng phối
hợp nhằm triển khai các hoạt động của nhóm, của phân hệ trong hệ thống.
Chủ thể quản lý đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó;
19


Chức năng kiểm tra: là chức năng xem xét, đo lường và đánh giá việc
thực hiện nhằm kịp thời phát hiện ra những sai sót trong quá trình hoạt
động và các cơ hội thúc đẩy hệ thống phát triển hiệu quả hơn, trên cơ sở đề
ra các tác động điều chỉnh.
Bên cạnh bốn chức năng trên gần đây có nhiều tác giả còn bổ sung
thêm chức năng thông tin trong quản lý nhằm khẳng định vai trò thông tin
trong điều hành (và phản hồi) quá trình quản lý
Quản lý giáo dục là một bộ phận của khoa học giáo dục, và là một
chuyên ngành của khoa học quản lý giáo dục. Bản thân khái niệm quản lý giáo
dục chứa đựng nội dung rộng, bao hàm cả hệ thống quản lý giáo dục quốc gia

và quản lý các phân hệ của nó, trong đó đặc biệt là quản lý trường học.
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của bộ máy quản lý giáo
dục đến hoạt động giáo dục nhằm đưa hoạt động giáo dục đạt kết quả mong
đợi, quan hệ căn bản của hoạt động quản lý giáo dục là quan hệ giữa của
người quản lý với người dạy và người học trong hoạt động giáo dục. Các
mối quan hệ khác biểu hiện trong mối quan hệ giữa các cấp bậc quản lý,
giữa người dạy với người họ, giữa con người với cơ sở vật chất và điều kiện
phục vụ cho quá trình giáo dục. Có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ
quản lý giáo dục
Tác giả Đặng Quốc Bảo viết: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan
là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay với sứ mệnh phát triển giáo dục
thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi
người. Cho nên, quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân”.
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục,
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục đào tạo
20


nhằm tạo ra tính trồi của hệ thống, sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các
cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong
điều kiện đảm bảo sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến
động” và phân ra hai cấp độ của quản lý giáo dục.
Nội dung quản lý giáo dục thực chất là quản lý quá trình giáo dục và
đào tạo, quản lý hoạt động của người dạy, người học và quản lý các cơ sở
giáo dục và đào tạo, quản lý việc thực hiện kế hoạch, chương trình đào tạo
nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra của từng cơ sở đào tạo.
Quản lý đào tạo có thể được định nghĩa như bất kỳ công việc quản lý
nào trong quá trình đào tạo. Quản lý đào tạo là hoạt động điều hành, phối hợp

các lực lượng xã hội theo kế hoạch nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ
đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
Quản lý đào tạo được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tất cả
các mắc xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục và đào tạo. Quản lý đào tạo là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra tính trồi
của hệ thống, sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống
nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo
sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động.
Cũng có thể định nghĩa quản lý quá trình đào tạo là hoạt động tự giác của
chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,… một
cách có hiệu quả nguồn lực đào tạo (nhân lực, vật lực, tài lực,…) phục vụ cho
mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Quản lý đào tạo được hiểu là những tác động động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tập
21


thể giảng viên, cán bộ nhân viên, sinh viên trường) nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu, phụ huynh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của cơ sở đào tạo.
Quản lý đào tạo là hệ thống những tác động có ý thức hợp qui luật của chủ thể
quản lý (hệ đào tạo) nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục đào tạo của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường và tính chất Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình đào tạo thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục và đào tạo tới mục tiêu dự kiến.
Từ những khái niệm nêu trên ta có thể thấy rõ các yếu tố của quản lý
quá trình đào tạo là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và

mục tiêu quản lý.
Đối với trường cao đẳng, trung cấp và dạy nghề, quản lý quá trình đào
tạo là nội dung quan trọng, bảo đảm cho sản phẩm đào tạo ra đáp ứng được
mục tiêu, yêu cầu đào tạo; phù hợp nhu cầu, đòi hỏi của xã hội. Dưới góc độ
nghiên cứu khoa học giáo dục; quản lý quá trình đào tạo là thiết kế các tiêu
chuẩn và duy trì các cơ chế bảo đảm chất lượng để sản phẩm giáo dục đạt
được các tiêu chuẩn nhất định.
Quản lý quá trình đào tạo là thuật ngữ được sử dụng để miêu tả các thủ
pháp hoặc các quy trình được tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá xem các sản
phẩm giáo dục có bảo đảm được các thông số chất lượng theo mục đích, yêu
cầu đã được định sẵn hay không.
Quản lý quá trình đào tạo ở trường là một trong những vấn đề cụ
thể của quản lý giáo dục trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề; đó là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ
thể quản lý nhằm làm cho hệ thống đào tạo, vận hành theo đúng đường
lối, chủ trương và thực hiện những yêu cầu của xã hội để đáp ứng sự phát
triển kinh tế - xã hội. Quản lý quá trình đào tạo ở trường cao đẳng bao
22


gồm nhiều nội dung, trong đó có nội dung quan trọng là quản lý chất
lượng đào tạo.
Quá trình đào tạo vận động và phát triển là do các nhân tố cấu thành của
nó vận động và tương tác với nhau nhằm thực hiện mục tiêu của quá trình, góp
phần thực hiện mục đích giáo dục nói chung. Vì vậy, quản lý quá trình đào tạo
vừa phải làm sao cho mỗi nhân tố có được lực tác động đủ mạnh, lại vừa đảm
bảo sự vận động nhịp nhàng, hài hoà và thống nhất của toàn bộ quá trình,
không được để nhân tố nào vận động yếu làm ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của quá trình. Điều này đòi hỏi người quản lý phải có nghệ thuật, vận
dụng linh hoạt các biện pháp quản lý mới đạt được mục tiêu đề ra.

Từ cách tiếp cận về quá trình đào tạo, quản lý quá trình đào tạo nói
chung, chúng tôi cho rằng: “Quản lý quá trình đào tạo ở trường cao đẳng là
những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các nhân
tố của quá trình đào tạo nhằm làm cho quá trình này đạt được mục đích đề
ra.
Từ khái niệm trên cho thấy, quản lý quá trình đào tạo bao gồm các yếu
tố cơ bản sau:
Mục tiêu: là những kết quả dự kiến sẽ đạt được do quá trình vận động
của đối tượng quản lý dưới sự tác động của chủ thể quản lý; sự thống nhất
trong nhận thức tư tưởng và hành động của chủ thể và đối tượng quản lý. Mục
tiêu quản lý quá trình đào tạo hiện nay là phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ, sự
năng động, sáng tạo, tính “tích cực hoá” của chủ thể quản lý, nhằm nâng cao
chất lượng dạy học, giáo dục và đào tạo; làm cho quá trình dạy của giảng viên
và quá trình học của học sinh, sinh viên đạt tới kết quả mong muốn.
Chương trình đào tạo: dựa trên khung chương trình của bộ giáo dục
đào tạo và phân kỳ chung của nhà trường dựa theo tuần thực học trong
khóa học nhằm đảm bảo sinh viên ra trường đúng tiến độ thì không thể bỏ
23


qua khâu quản lý chương trình, chính vì vậy nhà trường luôn cập nhật
thường xuyên, chỉnh sửa chương trình cho phù hợp với thời kỳ hội nhập
phát triển của ngành y
Chủ thể quản lý: bao gồm tập thể, cá nhân được tổ chức giao nhiệm vụ,
quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp trong lãnh đạo, quản lý trong suốt quá trình
dạy học, đó là: các cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu nhà trường, cán bộ quản lý
các cấp từ nhà trường đến bộ môn, bộ phận; các cơ quan chức năng, đội ngũ
giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục; các tập thể và cá nhân học sinh (sinh
viên). Đó chính là các lực lượng sư phạm trong nhà trường, sự thống nhất
giữa các lực lượng này, cùng với tinh thần và ý thức trách nhiệm cao trong

quản lý quá trình dạy học, cùng với các nhân tố khác sẽ là động lực trực tiếp
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Đối tượng quản lý: là toàn bộ các bộ phận cấu thành quá trình đào tạo
và các nguồn lực trong nhà trường. Các tập thể sư phạm và học sinh (sinh
viên) vừa là khách thể (đối tượng) bị quản lý vừa là chủ thể trong quá trình tổ
chức tự quản lý quá trình đào tạo của mình.
Nội dung quản lý quá trình đào tạo: thực chất là quản lý các yếu tố
theo một trình tự, quy trình vừa khoa học, vừa phù hợp với thực tế của
trường cao đẳng, đem lại hiệu quả trong công tác đào tạo. Các yếu tố đó là:
mục tiêu đào tạo; nội dung đào tạo; phương pháp đào tạo; hình thức tổ chức
đào tạo; hoạt động dạy học - giáo dục (chủ thể là giảng viên); hoạt động học
tập (chủ thể là người học); cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo;
môi trường đào tạo; tổ chức thực hiện Quy chế đào tạo trong kiểm tra, đánh
giá; tổ chức bộ máy đào tạo.
Phương pháp quản lý: bao gồm toàn bộ những cách thức, biện pháp tác
động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống
công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Hệ thống
24


công cụ quản lý gồm: các chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức đảng; pháp luật
của Nhà nước; quy chế giáo dục đào tạo của nhà trường và chương trình, kế
hoạch dạy học - giáo dục. Sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp quản lý, song
cần tập trung vào ba phương pháp chủ yếu, đó là: Phương pháp hành chính;
phương pháp giáo dục - tâm lý và phương pháp kích thích…
Mối quan hệ các yếu tố: các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ và có
tác động qua lại lẫn nhau. Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý quá trình
đào tạo cần tiến hành các bước theo quy trình như quản lý giáo dục: kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá
Trong quản lý quá trình đào tạo, các yếu tố trên luôn luôn vận động và

tác động qua lại lẫn nhau làm nảy sinh những tình huống quản lý. Do vậy, nhà
quản lý phải thường xuyên theo dõi, đánh giá, xử lý các sai lệch để kịp thời
điều chỉnh nhằm làm cho công tác giáo dục, đào tạo và nhà trường phát triển
liên tục.
1.2. Nội dung quản lý quá trình đào tạo ở trường cao đẳng
1.2.1. Quản lý mục tiêu đào tạo
Trong quản lý quá trình đào tạo ở trường cao đẳng thì việc xây dựng
mục tiêu đào tạo là một yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
tính khả thi của kế hoạch quản lý, nó định hướng cho hành động của các
nhà quản lý quá trình đào tạo ở trình độ cao đẳng, chỉ dẫn cho chủ thể quản
lý ra các quyết định quản lý chính xác đạt hiệu quả cao. Việc xác định đúng
mục tiêu quản lý nói chung, cũng như mục tiêu quản lý quá trình đào tạo ở
trường cao đẳng nói riêng giúp cho việc quản lý hoạt động dạy của giảng
viên, học của học sinh (sinh viên) diễn ra theo một trật tự đã dự kiến. Thực
chất mục tiêu đào tạo là một bộ phận của mục tiêu quản lý giáo dục, đào
tạo ở bậc cao đẳng, là trạng thái tương lai hay là kết quả cuối cùng mà tổ
chức và các lực lượng đào tạo mong muốn đạt tới. Nội dung của mục tiêu
25


đào tạo cao đẳng cũng chính là năng lực thực hành của học sinh (sinh viên)
biểu hiện ra ngoài thông qua hành động thực tiễn lao động theo bậc học và
chuyên ngành đào tạo của mỗi người học. Quản lý mục tiêu đào tạo chính
là việc thiết kế mục tiêu, quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả đào
tạo đạt đến trình độ đã đề ra.
Các chủ thể quản lý cần phải căn cứ vào vào các văn bản quy định có
tính pháp lý như: Luật Giáo dục, Quy chế đào tạo của trường cao đẳng và
pháp luật của nhà nước,... để thiết kế mục tiêu, tổ chức thực hiện đạt được
mục tiêu đã đề ra. Quá trình tổ chức thực hiện phải làm tốt việc quán triệt
mục tiêu quản lý quá trình này, qua đó nâng cao nhận thức và hành động

cho các chủ thể. Mặt khác, phải phát huy tốt vai trò của hệ thống cán bộ
quản lý của nhà trường trong tổ chức và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện
mục tiêu quản lý quá trình đào tạo.
1.2.2. Quản lý nội dung, chương trình đào tạo ở trường cao đẳng
Thông qua công tác điều tra khảo sát nhu cầu việc làm, kiến thức
chuyên môn, tay nghề phù hợp với sự phát triển của ngành nghề và yêu cầu
của đất nước và các nước trong khu vực. Cùng với sự tiếp thu của học sinhsinh viên để có nội dung chương trình cho phù hợp. Hàng năm có sự điều
chỉnh, chỉnh sửa nội dung chương trình đào tạo.
Nội dung, chương trình đào tạo là những yêu cầu đặt ra để mang lại cho
người học có được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp
cần thiết theo đúng mục tiêu đào tạo.
Nội dung đào tạo chính là cơ sở cho kế hoạch giảng dạy và chương
trình môn học, chương trình các hệ khác nhau gồm: kế hoạch dạy toàn khóa
học, tiến độ dạy trong năm học, từng học kỳ... đó là hệ thống văn bản pháp
quy để hiệu trưởng chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác dạy và công tác học
tập của học sinh trong nhà trường.
26


×