Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.79 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1


A. LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những quyền cơ bản của trẻ em là quyền được sống còn, được
phát triển, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Tuy nhiên không phải tất cả trẻ
em sinh ra đều có cha mẹ hay đều may mắn được sống trong môi trường gia đình
bình thường, được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể
chất. Trong xã hội còn vô số trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong các
gia đình nghèo không có điều kiện nuôi dưỡng, cần một mái ấm gia đình thay thế.
Một trong những biện pháp bảo đảm cho trẻ em một gia đình thay thế là cho trẻ
làm con nuôi. Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải pháp bảo vệ trẻ em,
không để trẻ em phải sống lang thang, giúp các em có được mái ấm gia đình, được
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt trở thành những người có ích cho xã hội. Sự
ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã tạo điều kiện cho những người đơn
thân hoặc cặp vợ chồng hiếm muộn,…có nhu cầu muốn nhận nuôi con nuôi được
thực hiện quyền làm cha mẹ, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn được sống trong một mái ấm tình thương. Nhìn nhận được
tầm quan trọng, ý nghĩa cũng như sự cần thiết của việc nuôi con nuôi, đặc biệt là
về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, em xin lựa chọn đề tài
“Điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm
2010” để nghiên cứu, tìm hiểu.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm nuôi con nuôi và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
1. Khái niệm nuôi con nuôi
Khoản 1, điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định: “Nuôi con nuôi là việc
xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi.”
Như vậy nuôi con nuôi có thể được hiểu là việc một người hoặc hai người là


vợ chồng nhận nuôi một người khác không do họ sinh ra, nhằm đáp ứng những
nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi từ
2


đó xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi
trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật.
2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Trước tiên, việc nhận nuôi con nuôi giúp những trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn có một mái ấm, các em sẽ được sống và học tập trong một môi trường bình
thường như bao đứa trẻ khác, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt để trở
thành những người có ích cho xã hội.
Việc nhận nuôi con nuôi góp phần làm giảm gánh nặng của nhà nước trước
tình trạng trẻ em lang thang, không nơi nương tựa, không nguồn nuôi dưỡng, hạn
chế trẻ em có thể có hành vi vi phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn xã hội do thiếu
sự quan tâm, giáo dục… Đây là cơ sở để đảm bảo sự ổn định, phát triển của đất
nước
Còn đối với người nhận nuôi, việc nuôi con nuôi đem lại cho họ một đứa
con phù hợp với nguyện vọng của họ. Đặc biệt đối với những cặp vợ chồng vô
sinh, việc nhận con nuôi giúp họ thực hiện quyền làm cha mẹ của mình, họ được
chăm lo, được thể hiện tình cảm của của những người làm cha mẹ với đứa con.
II. Điều kiện của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Theo điều 2 Luật nuôi con nuôi 2010, việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan
hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm
con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi
trường gia đình. Để thực hiện được mục đích đó, các nhà làm luật đã thông qua
các quy phạm pháp luật quy định các điều kiện cần có đối với các chủ thể có liên
quan trong việc cho - nhận con nuôi phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi
và trên cơ sở đó việc nuôi con nuôi được công nhận là hợp pháp.
1. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

1.1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

3


Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 14, người nhận nuôi con nuôi
phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Người nhận nuôi con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
- Người nhận nuôi con nuôi phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
- Người nhận nuôi con nuôi phải có tư cách đạo đức tốt;
- Đặc biệt trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con
riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con
nuôi thì người nhận nuôi chỉ cần hơn tuổi của người được nhận nuôi và không cần
phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi
1.2. Các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường
trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và các Điều kiện đối với
người nhận con nuôi được quy định tại điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010.
Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các
điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi 2010 và pháp luật của
nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
1.3. Những người không được nhận nuôi con nuôi
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên;
- Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh;
- Người đang chấp hành hình phạt tù;

4


- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc
chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm
đoạt trẻ em.
2. Điều kiện đối với người được nhận nuôi
Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định điều kiện đối với người
được nhận làm con nuôi được quy định như sau:
- Người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi”
- Trong trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được cho làm con
nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”
- Người được nhận làm con nuôi chỉ được cho làm con nuôi trong trường hợp:
“của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”
- Luật không quy định về hoàn cảnh của gia đình người được nhận làm con nuôi.
3. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi
Sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể có liên quan là yếu tố thiết yếu cần
thiết, tạo cơ sở để giải quyết việc nuôi con nuôi. Chỉ khi việc nuôi con nuôi là sự
thể hiện đúng ý chí tự nguyện của các chủ thể thì việc nuôi con nuôi mới thực sự
bền vững, mới tạo cho trẻ em một mái ấm mà ở đó trẻ em được nuôi dưỡng, chăm
sóc tốt nhất.
- Ý chí của cha, mẹ đẻ : Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ
đẻ của người được nhận làm con nuôi; sự đồng ý này phải trên cơ sợ tự nguyện,
trung thực, không bị đe dọa, mua chuộc vì lợi ích vật chất. Nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ
đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải
5



được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của
người giám hộ; Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã
được sinh ra ít nhất 15 ngày.
- Trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự
đồng ý của trẻ em đó.
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con
nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ
đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi.
4. Điều kiện về hình thức
Để người nhận nuôi và người được nhận nuôi hình thành quan hệ cha, mẹ
con, thì người nhận nuôi phải chuẩn bị hồ sơ và sau đó đến các cơ quan tiếp nhận,
giải quyết hồ sơ đó. Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu
làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì Ủy ban
nhân dân cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi
dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch. Còn đối với những
trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, sở Tư pháp đăng ký việc nuôi
con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận
con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp, trẻ em
được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em
được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ
của trẻ em đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình.
4.1. Cơ quan tiếp nhận, giải quyết hồ sơ
Theo quy định của pháp luật, việc nhận con nuôi giữa công dân Việt Nam
với nhau phải được đăng kí tại ủy ban nhân dân cấp xã (phường, thị trấn) nơi
thường trú của người nuôi hoặc của con nuôi. Ttrường hợp cha dượng hoặc mẹ kế
nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận

6


cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ
hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp
xã thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm
con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em
bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi
dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ
sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài phải được đăng kí tại ủy ban nhân
dân cấp tỉnh (trường hợp ở khu vực biên giới thì do ỷ ban nhân dân cấp xã) nơi
thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con
nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ
em đó làm con nuôi. Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài
sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở
nước ngoài, thì Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi
hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp
cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì người nhận con nuôi nộp
hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất đối với
họ.
4.2. Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi
- Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có: Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao Hộ
chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; Phiếu lý lịch tư
pháp; Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế
cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều
kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp,

trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này. Riêng với những
7


trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hồ sơ của người nhận con nuôi
ngoài những giấy tờ đã nêu trên còn phải có thêm văn bản cho phép được nhận
con nuôi ở Việt Nam; Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh
(nếu có).
- Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi gồm có: Giấy khai sinh; Giấy
khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; Hai ảnh toàn thân, nhìn
thẳng chụp không quá 06 tháng; Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc
Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng
tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ
em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ
của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm
con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ
của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người
được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;
Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng. Đối với những trường
hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi ngoài những giấy tờ đã nêu trên còn phải có thêm Văn bản về đặc điểm, sở
thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em và tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm
gia đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của
Luật Nuôi con nuôi nhưng không thành.
Qua tất cả những phân tích trên, ta có thể thấy được các nhà là luật đã quy
định một cách khá chặt chẽ và hoàn chỉnh về điều kiện của việc nuôi con nuôi
theo Luật Nuôi con nuôi 2010. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề tồn
tại trong việc áp dụng điều kiện nuôi con nuôi đó là : Thủ tục đăng ký việc nuôi
con nuôi bộc lộ một số điểm vướng mắc như thủ tục lấy ý kiến đồng ý của cha mẹ
đẻ trẻ em; Quy định về sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ đối với việc cho con đi làm

con nuôi…Hay là những khó khăn trong việc lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi,
bởi Luật Nuôi con nuôi quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi trong nước
phức tạp hơn nhiều so với quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP dẫn đến
8


việc người dân có tâm lý ngại đi đăng ký nuôi con nuôi và tự đem trẻ về nuôi
dưỡng, coi nhau như cha mẹ con mà không tiến hành đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền,…
III. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010
1. Quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi được xác lập; giữa con nuôi và cha mẹ nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của cha mẹ và con theo quy định của luật hôn nhân và gia đình 2010. Các quyền
và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân
thân và các quyền, nghĩa vụ về tài sản. Đó là các quyền như quyền chăm sóc, yêu
thương, nuôi dưỡng, giáo dục; đại diện cho con chưa thành niên; không được phân
biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng
sức lao động của con; cha mẹ nuôi có quyền quản lí tài sản của con nuôi chưa
thành niên; cha mẹ nuôi có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi
trái pháp luật của con nuôi chưa thành niên gây ra; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với nhau, có quyền thừa kế tài sản của nhau
khi một bên chết trước… Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của
con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Việc xác định dân
tộc của con nuôi được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự. Đối với trẻ em
bị bỏ rơi được nhận làm con nuôi mà không xác định được cha mẹ thì dân tộc của
con nuôi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
Trong luật hôn nhân và gia đình 2010, các nhà làm luật chỉ quy định về mối
quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi “Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các

quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm
đăng ký việc nuôi con nuôi.” thì tại Luật Nuôi con nuôi năm 2010, các nhà lập
pháp không chỉ quy định về mối quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi mà còn
quy định mối quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ nuôi. Khoản 1 Điều 24
Luật nuôi con nuôi quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi
9


và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và
các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Qua quy định này ta có thể hiểu là
giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi cũng có các
quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Quan hệ giữa người con nuôi trong gia đình cha mẹ nuôi bao gồm nhiều quan hệ
khác nhau như: Quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi;
giữa con nuôi với các con đẻ của người nhận nuôi, giữa con nuôi với những người
anh, chị, em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi,… Khi trở thành thành viên trong gia đình
cha mẹ nuôi, con nuôi sẽ có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, có quyền và nghĩa vụ
với các thành viên khác trong gia đình như con đẻ. Có như vậy, con nuôi mới có
thể hòa nhập một cách tốt nhất vào gia đình của cha, mẹ nuôi, không có sự phân
biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ. Như vậy mối quan hệ cha mẹ nuôi và con
nuôi trong luật Nuôi con nuôi đã có sự sửa đổi so với Luật hôn nhân và gia đình
2010 theo hướng con nuôi có sự gắn bó chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ đối với
cha mẹ nuôi cũng như gia đình mới của con nuôi.
Tuy nhiên thì trong thực tế vẫn còn những vấn đề phát sinh giữa con nuôi và
gia đình cha, mẹ nuôi luật Nuôi con nuôi chưa đề cập tới hay có hướng giải quyết.
Đó là vấn đề kết hôn của người con được nhận nuôi. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu
người con nuôi này có thể được phép kết hôn với con đẻ của cha mẹ nuôi không?
Có được kết hôn giữa những người con cùng được nhận nuôi trong cùng gia đình

hay không? Người con nuôi có được phép kết hôn với họ hàng của cha, mẹ nuôi
không?,… Đối với văn hóa của người Việt Nam, sẽ rất khó có cha mẹ nào đồng ý
cho “con cái” của mình kết hôn với nhau hay kết hôn với họ hàng thân thiết của
mình. Dù là con nuôi hay con đẻ thì cha mẹ đều yêu thương, quan tâm và chăm
sóc tương tự nhau, không có sự phân biệt, những người con là anh, chị em của
nhau, vì vậy, việc giữa những người con nảy sinh tình cảm và kết hôn là một điều
rất khó chấp nhận, được coi là “loạn luân”, trái với thuần phong mĩ tục. Tuy nhiên
10


về mặt sinh học, trong tất cả những trường hợp đã nêu trên, người con nuôi và
những người khác đó hoàn toàn không hề có chung huyết thống, việc kết hôn sẽ
không gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của con cái sau khi sinh ra. Về mặt pháp
lý, Luật Nuôi con Nuôi hoàn toàn không hề cấm kết hôn, mà chỉ có quy định cấm
việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi. Như vậy việc kết hôn giữa những đối
tượng này là hoàn toàn hợp pháp. Đây đều là những trường hợp rất đặc biệt, phải
dựa vào đạo đức, phong tục của người Việt Nam để hành xử sao cho thuận tình.
Qua một bất cập rất nhỏ đã nêu, thiết nghĩ, các nhà làm luật cần phải nghiên cứu
và cho ra những quy phạm phù hợp, chặt chẽ hơn để điều chỉnh mối quan hệ giữa
con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha, mẹ nuôi.
2. Quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ
Về quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ, khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con
nuôi quy định “trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận
khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại,
quản lí, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”. Với quy định
này, quyền và nghĩa vụ về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp
luật, bồi thường thiệt hại, quản lí, định đoạt tài sản riêng của con nuôi được
chuyển từ cha mẹ đẻ sang cha mẹ nuôi kể từ ngày việc nuôi con nuôi được pháp
luật công nhận. Quy định này là cần thiết để tránh sự tranh chấp về quyền, nghĩa

vụ làm cha mẹ giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi đối với con nuôi. Tuy nhiên, với
quy định này thì không phải mọi quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con đều
đương nhiên chấm dứt mà chỉ những quyền và nghĩa vụ nào được quy định rõ tại
khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi là chấm dứt thì mới chấm dứt. Điều đó cũng
có nghĩa là quan hệ pháp lí giữa cha mẹ đẻ và con đẻ đã cho làm con nuôi chấm
dứt trước pháp luật khi việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực nhưng trong một số
quan hệ khác như quan hệ thừa kế giữa người con đó với cha mẹ đẻ và gia đình
huyết thống lại không đương nhiên chấm dứt, mà vẫn tồn tại, vì quan hệ thừa kế
này không được liệt kê trong quy định trên là sẽ chấm dứt. Như vậy, người con đã
11


cho làm con nuôi vẫn có quyền thừa kế theo luật đối với cha đẻ, mẹ đẻ như trước
khi đi làm con

Trong trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận

thì việc chấm dứt hay tồn tại quyền và nghĩa vụ gì (kể cả quyền thừa kế) giữa cha
mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên. Cha
mẹ đẻ có thể không bị hạn chế hết các quyền như pháp luật đã nêu tại khoản 4
điều 24 Luật nuôi con nuôi hoặc cũng có thể bị hạn chế toàn bộ quyền cũng như
nghĩa vụ đối với con đã đem cho nuôi. Cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có toàn quyền
thoả thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ làm cha mẹ đối với người con, bao
gồm các quyền và nghĩa vụ mà cha mẹ đẻ sẽ được giữ lại đối với con và cách thức
thực hiện những quyền này sau khi đã cho con làm con nuôi trên cơ sở đảm bảo
mục đích của việc nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của người được nhận nuôi.
C. KẾT LUẬN
Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã có
những sự hoàn thiện và hợp lí hơn rất nhiều so với các quy định trong luật Hôn
nhân và gia đình 2000. Chính những điều kiện này là tiền đề để những trái tim

“khao khát yêu thương” dễ dàng đến được với nhau, trẻ em được quan tâm, săn
sóc, còn những người làm cha, mẹ nuôi được hưởng niềm hạnh phúc của bậc làm
cha làm mẹ. Việc nhận nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo thủ tục luật định sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, đồng thời quan hệ
cha mẹ đẻ và người con nuôi giờ chỉ là mối quan hệ huyết thống thuần túy và bị
hạn chế, loại bỏ đi hầu hết các quyền cũng như nghĩa vụ của hai bên.

12


Tài liệu tham khảo
1. Luật nuôi con nuôi 2010;
2. Luật Hôn nhân và gia đình 2000;
3. CÁC ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM
2010, LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC, BÙI THỊ THANH LÊ;
4. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi Việt Nam, TS.
Nguyễn Phương Lan.

13



×