Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tìm hiểu về hệ thống đỗ xe ô tô tự động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.05 KB, 3 trang )

1. Tìm hiểu về hệ thống đỗ xe ô tô tự động
Bãi đỗ xe ôtô nhiều tầng theo kiểu dùng thang máy đưa lên tầng cao,sau đó lái xe ra
tầng đỗ là kiểu đỗ xe nhiều tầng kết hợp hệ thống cơ khí đơn giản nhất, xuất hiện từ
năm 1918 tại Mỹ, sau đó lan truyền sang châu Âu. Ngay tại TP HCM hiện nay vẫn còn
dấu tích của thang nâng xe này lại bãi đỗ xe bên hông khách sạn Kim Đô. Sau đó, đến
năm 1964, hệ thống bán tự động ra đời tại Châu Âu (Đức và Ý), với hệ thống này
thang nâng kết hợp di chuyển xe đến vị trí của tầng, nhưng vẫn cần người lái xe đưa
xe vào hệ thống .
Loại hình này được ứng dụng tại Nhật Bản từ khoảng năm 1975. Kể từ năm 1982, hệ
thống tự động hoàn toàn không cần người lái tiếp tục được phát minh tại châu Âu
(đầu tiên tại Đức).Do tính chất đất chật người đông, các công ty Nhật Bản nhanh
chóng phát triển công nghệ này tại Nhật bản và ứng dụng rộng rãi từ năm 1985. Hiện
nay, Nhật Bản và Hàn Quốc là 2 nước số lượng hệ thống đỗ xe tự động nhiều nhất thế
giới, khách du lịch có thể dễ dàng tìm thấy bãi đỗ xe tự động tại bất kì khu phố nào
tại Tokyo và Seoul !
Bãi đỗ xe tự lái thông thường có nhiều bất tiện như: để bị mất cắp phụ tùng xe nếu vị
trí đỗ xe không lắp camera an ninh, người lái xe không có kinh nghiệm phải mất
nhiều thời gian để đưa xe vào vị trí xe chật hẹp ( đôi khi gây ra ùn tắc cục bộ ), và hầu
như rất khó kiểm soát khí thải và tiếng ồn khi xe di chuyển trong khu vực đỗ xe .Đối
với các bãi xe tự lái diện tích lớn , người lái xe phải mất rất nhiều thời gian để tìm chỗ
đỗ và tìm r axe của mình khi lấy xe. Và điều mà phần lớn nhà đầu tư quan tâm nhất là
bãi đỗ xe tự lái chiếm nhiều diện tích của công trình (bình quân 25m2 cho 1 vị trí đỗ
xe bao gồm diện tích đường di chuyển).

Hệ thống đỗ xe tự động có thể giải quyết hầu hết các vấn đề trên. Sau khi đưa xe vào
phòng xe, hệ thống lập trình PLC sẽ tự động đưa xe vào vị trí đỗ, người lái xe không
cần thao tác bất kì động tác nào ngoài việc bấm nút số xe (hoặc nhập thẻ từ hệ
thống). Nếu mặt bằng chật hẹp, với bàn xoay 360 độ và các con lăn định vị xe thì dù
người lái xe yếu tay lái nhất cũng dễ dàng đưa xe vào phòng xe .Khi có bất kì sự cố
nào bất thường trong hệ thống( ví dụ như có người đột nhập, cửa xe bị bật ra…) thì
hệ thống sẽ báo động tức thời về trung tâm xử lý.Do xe không tự vận hành trong hệ


thống nên không gây ra các vấn đề ô nhiễm không khí do chất thải của xe, và vì vậy
cũng tránh được nguy cơ chất nổ do xe lưu thông trong hầm. Khi có rủi ro hỏa hoạn ,
vì bãi đỗ xe tự động không có người nên nguy cơ chết người không xảy ra.Hệ thống
đỗ xe tự động có thể lắp đặt nối trên mặt đất hoặc ngầm bên dưới( hiện nay tại Hàn
Quốc, tính trên số lượng xe đỗ thì tỷ trọng sử dụng hệ thống nổi là 33% và hệ thống
ngầm là 67%).
Thực tế có rất nhiều công trình xây dựng tự xưng là công trình cao cấp, nhưng số
lượng ô tô đỗ được trong công trình không đủ đáp ứng phân nửa nhu cầu của người
sử dụng. Bộ xây dựng đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây
dựng QCXDVN 01:2008/BXD, trong đó bảng 4.5 Chương IV quy định:
o
o
o

Với khách sạn từ 3 sao trở nên: 4 phòng phải có 1 chỗ đỗ.
Với văn phòng cao cấp, trụ sở cơ quan đối ngoại: 10m2 sử
dụng /1 chỗ.
Siêu thị, cửa hàng lớn,trung tâm hội nghị,triển lãm, trưng bày:
100m2 sàn sử dụng /1 chỗ.


o

Chung cư cao cấp:1 căn hộ/1,5 chỗ.

Ngày 2-6-2008, Bộ Xây dựng cũng đã ra thông tư số 14/2008/TT- BXD hướng dẫn về
phân hạng nhà chung cư hạng 1 phải có tối thiểu 1.5 chỗ để ô tô, nhà chung cư hạng
II phải có tối thiểu 1 chỗ cho mỗi căn hộ.Với các quy định này, chủ đầu tư hiện nay
phải tính toán rất kỹ số lượng để xe ô tô cho công trình nếu sử dụng giải pháp đỗ xe
tự động, chủ đầu tư có thể tiết kiệm đáng kể diện tích xây dựng nhưng vẫn đảm bảo

số xe đỗ được theo yêu cầu trên cùng một diện tích đất, số lượng ô tô đỗ được theo
kiểu tự động có thể tăng từ gấp đôi đến gấp 20 lần so với số lượng xe ô tô đỗ theo
kiểu tự lái thông thường.
Tuy nhiên, việc áp dụng hệ thống đỗ xe tự động cho các công trình không phải chỉ
đơn giản thích loại hệ thống nào thì lắp được hệ thống đó, mà có rất nhiều vấn đề
phải xem xét và cân nhắc. Việc quan trọng trước tiên là thời gian lấy xe.Thời gian lấy
xe tùy thuộc vào từng loại hệ thống. Đối với loại hệ thống 100 xe thông thường thì
thời gian lấy xe lâu nhất khoảng gần 2 phút / xe, nhanh nhất 5,5 phút/xe, bình quân
1,5 phut /xe.Đối với các công trình nhà ở, siêu thị,các bãi xe công cộng…thì thông
thường người sử dụng ít khi gửi xe hoặc lấy xe cùng một khoảng thời gian nên thời
gian lấy trả xe 1,5 phút/xe không là vấn đề, thậm chí còn nhanh hơn so với bãi xe tự
lái.Tuy nhiên đối với các công trình văn phòng, rạp hát, hội nghị… thì việc mọi người ồ
ạt đến gửi xe trong phoang vài phút trước giờ làm việc, giờ khai mạc, và ồ ạt lái xe
trong khoảng vài phút sau giờ tan sở sẽ gây ra ùn tắt cục bộ , và người lái xe phải chờ
thời gian khá dài để lái xe so với bãi xe tự lái. Do đó, với các công trình có đặc điểm
này, nếu muốn lắp đặt hệ thống tự động thì phải có nhiều cửa ra vào khác nhau với
nhiều thang nâng để giảm thiểu thời gian lấy xe.

Đối với bãi xe thông thường, dù tòa nhà mất điện thì lái xe vẫn có thể lái xe ra khỏi
bãi xe.Tuy nhiên với hệ thông tự động, không xe nào có thể ra khỏi hệ thống khi mất
điện. Do đó,máy phát điện riêng cho hệ thống phải được trang bị. Về phòng cháy chữa
cháy: ngoài việc tuân thủ các tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy trong xây dựng chung
cho nhà cao tầng và tầng hầm, cần thiết phải lắp đặt riêng hệ thống điều khiển báo và
chữa cháy tự động cho khu vực đỗ xe. Bề mặt kết cấu cần được sơn chống cháy đặc
biệt và phải định kì sơn lại hoặc thay lớp khác theo thời hạn sử dụng. Các hệ thống
chữa cháy tự động các nước đang lắp đặt cho bãi đỗ xe tự động đều là hệ thống chữa
cháy bằng CO2.
Ngoài ra, hệ thống cần được thiết kế để thoát khói thoát khí cháy. Các hầm chứa xe
cũng phải bố trí bơm nước tự động để thoát nước khi xảy ra ngập.Đối với các hệ
thông tự động đặt trong các công trình nhà ở, bệnh viện, việc tính toán các thiết kế

cách âm và chống rung là rất cần thiết để giảm thiểu tiếng ồn.
Tùy theo diện tích đất, vị trí các lối ra vào và tùy theo mục đích sử dụng, nhà cung cấp
sẽ tư vấn loại hệ thống thích hợp cho từng công trình. Hiện nay có rất nhiều loại hệ
thống đỗ xe tự động trên thế giới, mối nhà sản xuất đặt tên khác nhau cho một loại
hệ thống, tuy nhiên có thể phân biệt theo nguyên lí vận hành như sau:
o

Loại hệ thống vừa lắp được trên mặt đất , vừa lắp được dưới
ngầm , hoặc một phần trên mặt đất, một phần dưới ngầm: hệ
thống tháp nâng dùng thang máy, hệ thống thang nâng di


o
o

chuyển, hệ thống xếp hình. Trong đó, hệ thống tầng di chuyển
được lắp đặt phổ biến nhất tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
Loại hệ thống chỉ lắp ngầm: hệ thống xoay vòng ngang , hệ
thông xoay vòng tầng.
Loại hệ thống chỉ lắp nổi: hệ thống xoay vòng đứng.

Các nhà cung cấp phần lớn trên thế giới hiện nay tập trung tại Châu Âu (Đức, Ý) và
châu Á (Nhật, Hàn Quốc), trong đó châu Âu tỏ ra ưu thế hơn về các loại hệ thống thủy
lực, châu Á chuyên sản xuất các loại hệ thống cơ điện, chỉ có số ít nhà sản xuất châu Á
cung cấp loại thủy lực. Chi phí đầu tư nếu dùng hệ thống của châu Âu sẽ vào khoảng
12.000 – 15.000 Euro/ 1 vị trí đỗ, nếu dùng hệ thống của Nhật vào khoảng 10.00012.000 đô la Mỹ/ 1 vị trí đỗ, nếu dùng hệ thống của Hàn Quốc giá sẽ giao động trong
mức 7.000- 12.000 đô la mỹ/ 1 vị trí đỗ. Trung Quốc cũng đã thiết kế và sản xuất
được hệ thống đỗ xe tự dộng, tuy nhiên giá không chênh lệch bao nhiêu so với Hàn
Quốc. Mức phí đỗ xe tại Seoul- Hàn Quốc vào khoảng gần 5 đô la Mỹ/1 giờ, tại Busan
vào khoảng 2,5 đô la Mỹ/1 giờ, tại Việt nam chỉ với 10.000 ngìn đồng (chưa đến 0.5

đô la Mỹ) có thể đỗ xe cả buổi. Nếu tính bài toán kinh tế thì dung thiết bị từ Hàn Quốc
có vẻ kinh tế hơn và chất lượng không thua mấy so với Nhật Bản. Tuy nhiên, việc chọn
nhà cung cấp nào còn tùy thuộc kinh nghiệm, uy tín của họ, vì hiện nay có quá nhiều
nhân viên của các công ty lâu đời tách ra thành lập công ty mới vào những năm 90,
rất nhiều hệ thống đỗ xe dạng xoay vòng tầng tại Hàn Quốc bị sập, nhiều xe rớt
chồng lên nhau. Năm 2004, tại Hoa Kỳ đã có 1 chiếc Callidac và 1 chiếc xe Jeep tại 2
bãi đỗ xe tháp cao tầng khác nhau rơi từ trên cao xuống . Hơn nữa, để tránh tình
trang bị làm chuột bạch để thí nghiệm, các nhà đầu tư cũng không nên lựa chọn sử
dụng các hệ thống vừa mới được phát minh, đang trong quá trình thử nghiệm sử
dụng.. Hơn nữa , khi hệ thống bị sự cố dù là nhỏ nhất thì không có xe nào có thể lấy
ra khỏi hệ thống vì thế việc lựa chọn nhà cung cấp có đại lý bảo hành ủy quyền sẵn tại
Việt Nam là cần thiết.
Trong thời gian tới chắc chắn hệ thống đỗ xe tự động sẽ là giải pháp được các nhà đầu
tư tại Việt Nam lựa chọn để giải quyết bài toán thiếu đất như tại Nhật Bản và Hàn
Quốc. Vì thế, Việt Nam cần thiết phải xây dựng tiêu chuẩn về hệ thống đỗ xe tự động
để làm căn cứ cho công tác kiểm định chất lượng sau này. Ngày 29-12-2006, Bộ Khoa
học Công nghệ đã ký quyết định số 2860/QĐ-BKHCN về việc hỗ trợ kinh phí cho đề tài
nghiên cứu khoa học và công nghệ theo nghị định 119/1999/NĐ-CP giao cho công ty
TNHH Cơ khí và Cầu trục NMC trụ sở tại Bình Dương làm chủ nhiệm đề tài xây dựng
quy trình công nghệ và xây dựng tiêu chuẩn hệ thống đỗ xe tự động tại Việt Nam. Tuy
nhiên, do đề tài này lựa chọn dự án hầm chứa xe Lam Sơn tại TP. HCM của công ty
TNHH Đông Dương làm dự án mẫu để thử nghiệm( dự án này đã ngưng thực hiện)
nên đến nay đề tài vẫn chưa hoàn tất vì phải đổi sang dự án khác tại Hà Nội . Với đề
tài này, Bộ Khoa học Công nghệ chắc chắn sẽ có thể hỗ trợ nhiều thông tin hữu ích
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thiết kế và ứng dụng hệ thống đỗ xe tự
động cho các dự án tại Việt Nam.




×