Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HỒ SƠ DS06 TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.14 KB, 5 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
----------

MÔN: KỸ NĂNG TƯ VẤN DÂN SỰ

HỒ SƠ DÂN SỰ SỐ 06

Họ và tên :
Sinh ngày
Số báo danh
Lớp
Khóa

:
:
:
:


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HỒ SƠ DS06
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn: Trần Văn Hậu
Địa chỉ cư trú: số 200 tổ 11A, phố Long Châu Sa, Thọ Sợ, Việt Trì
Bị đơn: Trần Văn Hùng và Trần Thị Nhân
Cùng trú tại: Khu 1, xã Vân Phú, huyện Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
Quan hệ pháp luật tranh chấp: “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”
Nội dung:
Ngày 30 tháng 5 năm 2004 giữa ông Trần Văn Hậu và vợ chồng ông Trần Văn


Hùng, Trần Thị Nhàn có thỏa thuận với nhau về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất tại ngã ba Đền Hùng với diện tích là chiều rộng 3m, chiều dài 17m với giá là
1.200.000.000 triệu ( một tỷ hai trăm triệu đồng), số tiền này được vợ chồng ông Hùng,
bà Nhân dùng để trả nợ, tại thời điểm ký kết ông Hậu đã giao cho vợ chồng ông Hậu
1.000.000.000 đồng. Các bên chỉ thỏa thuận về vấn đề chuyển nhượng và ông Hùng,
bà Nhân chỉ cam kết là khi nào ông Hậu có nhu cầu chuyển tên trên giấy tờ thì sẽ thực
hiện theo quy định của pháp luật.
Đến tháng 1/2005 thì ông Hậu đã tiến hành xây dựng một căn nhà cấp 4 trên
phần diện tích đó để con gái bán vật liệu xây dựng, tiếp đó người con trai làm nghề sửa
chữa xe đạp, xe máy cho đến lúc đi nghĩa vụ quân sự thì ông Hậu cho vợ chồng ông
Hùng bà Nhân mượn lại căn nhà đó để sử dụng, khi cho mượn hai bên không làm giấy
tờ gì.
Hiện nay ông Hậu có nhu cầu sử dụng phần diện tích đất đó và yêu cầu vợ
chồng ông Hùng, bà Nhân trả lại căn nhà cũng như thực hiện thủ tục chuyển quyền sử
dụng theo quy định của pháp luật cũng như theo thỏa thuận chuyển nhượng của hai bên
vào ngày 30 tháng 5 năm 2004 nhưng vợ chồng ông Hùng, bà Nhân không chấp nhận
với lý do là họ không chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ cầm cố cho ông Hậu,
nên giờ chỉ chấp nhận trả cho ông Hậu số tiền là 1 tỷ đồng.
Tranh chấp đã được hòa giải tại xã Vân Phú 2 lần nhưng không thành, ngày 24
tháng 7 năm 2011 ông Hùng đã có đơn khởi kiện yêu cầu gửi Tòa án nhân dân huyện
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ


chồng ông Hùng và bà Nhân vào ngày 30 tháng 5 năm 2004 và trả lại căn nhà cấp 4 mà
ông đã cho ông Hùng, bà Nhân mượn.
Ngày 10 tháng 8 năm 2011 Tòa án nhân dân huyện Việt Trì đã ra thông báo thụ
lý số 97/TB để thụ lý vụ án trên.
II.

CÂU HỎI DỰ KIẾN TẠI PHIÊN TÒA.


1. Hỏi nguyên đơn:
Giữa ông và vợ chồng ông Hùng bà Thanh có mối quan hệ làm ăn với nhau
không? Hai bên có ai nợ tiền ai không?
Sau khi cho vợ chồng ông Hùng bà Nhân mượn nhà ông có thường xuyên tới thăm
nhà không?
-

Căn nhà hiện nay so với hiện trạng trước đây ông xây dựng có thay đổi gì không?

- Tại sao tại thời điểm chuyển nhượng các bên lại không tiến hành thủ tục sang tên
theo quy định của pháp luật mà lại làm giấy tay?
-

Khi ông tiến hành xây dựng nhà có cơ quan nào xử phạt ông không?

2. Hỏi bị đơn
2.1.

Hỏi ông Hùng

Tại thời điểm ký giấy thỏa thuận chuyển nhượng ngày 30 tháng 5 năm 2004 ông
có nhận được số tiền là 1 tỷ đồng không? Số tiền này do ai đưa? Ông đã dùng số tiền
này vào mục đích gì?
Giữa ông Hậu và ông có mối quan hệ làm ăn với nhau thế nào? Ông nói ông có nợ
ông Hậu số tiền 1 tỷ do quan hệ làm ăn vậy ông có chứng cứ gì chứng minh việc ông
nợ ông Hậu số tiền này không?
- Tại thời điểm năm 2005 khi ông Hậu xây nhà thì ông và vợ ông có ý kiến phản đối
gì không? Việc vợ chồng ông tích cực giúp đỡ cho ông Hậu xậy dựng nhà trên đó theo
lời khai của ông Hậu và các nhân chứng ông có phản đối ý kiến đó không? Ông cho

rằng ông Hậu không trả tiền mua đất cho ông nhưng tại sao khi ông Hậu xây dựng nhà
thì vợ chồng ông không những không phản đối mà lại tích cực giúp đỡ?
2.2.

Hỏi bà Nhân.

- Bà cho biết là tại ngày 30 tháng 5 năm 2004 bà có cùng chồng nhận số tiền 1 tỷ tiền
bán đất cho ông Hậu không? Hiện ông Hậu khai là đã cho bà số tiền còn thiếu là 200
triệu nhưng do quan hệ thân thiết nên không có biên nhận, bà có ý kiến gì về vấn đề
này không?
- Bà có biết được mối quan hệ làm ăn của ông Hùng với ông Hậu không?


- Bà cho rằng tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bà đã bị
ép buộc vậy bà có thể cho biết ai đã ép buộc bà, và hành vi ép buộc cụ thể như thế nào?
Bà có chứng cứ gì chứng minh là chồng bà đã nợ ông Hậu số tiền trên ?
- Bà cho rằng vợ chồng bà có nợ tiền ông Hậu vậy từ trước tới giờ vợ chồng bà đã bao
giờ ý thức được việc trả nợ không? Việc đó được thể hiện như thế nào?
III.

BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ.

Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị đại diện Viện kiểm sát thưa tất cả mọi người
dự khán trong phiên Tòa ngày hôm nay!
Tôi là luật sư Nguyễn Quyết Quyền đến từ Văn phòng Luật sư QQlawyer,
Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh, hôm nay tham gia phiên tòa với tư cách là luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn – ông Trần Văn Hậu, trong vụ án
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất..
Sau khi nghiên cứu hồ sơ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở lời trình bày
và phần hỏi công khai tại phiên tòa ngày hôm nay tôi xin khẳng định yêu cầu của phía

nguyên đơn là có căn cứ và đúng với quy định pháp luật bởi các lẽ sau:
Thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30 tháng 5 năm 2004 giữa
ông Hùng, bà Nhà với ông Hậu là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp
đồng này được pháp luật công nhận vì:
Tại thời điểm chuyển nhượng ông Hùng, bà Nhân đề có đủ năng lực hành vi
dân sự để thực hiện việc chuyển nhượng.
Việc chuyển nhượng hoàn toàn do các bên tự nguyện xác lập, không có sự ép
buộc, đe dọa điều đó đã thể hiện rõ tại phiên Tòa ngày hôm nay.
Mục đích chuyển nhượng của các bên không vi phạm với cái điều cấm của
pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.
Quyền sử dụng đất của ông Hùng bà Nhân mặc dù chưa được cấp giấy chứng
nhận QSDĐ nhưng đã có tên trong sổ địa chính tại xã, đây được xem là giấy tờ hợp lệ
theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 50 Luật đất đai. : “. Cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau
đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng
đất:

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;”


Về hình thức hợp đồng, mặc dù hợp đồng không được công chứng, chứng thực
theo quy định của pháp luật tại thời điểm chuyển nhượng tuy nhiên theo hướng dẫn tại
điểm b1 tiểu mục 2.3 mục II Nghị Quyết 02/2004/NQQ-HĐTP ngày 10 tháng 08 năm
2004 hướng dẫn việc áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và
gia đình của Hội đồng thẩm phán. Điều luật quy định rõ: “b.1. Đối với hợp đồng được
giao kết trước ngày 01-7-2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu
mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được

quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh
tranh chấp, nếu từ ngày 01-7-2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là
hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.”
Cũng tại điểm b.3 tiểu mục 2.3 của Nghị quyết có quy định: “b.3. Đối với hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm
a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên
chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển
nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất
còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng,
trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết
hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.”
Sau khi nhận chuyển nhượng ông Hậu đã tiến hành việc xây dựng nhà cửa kiên
cố và sử dụng phần diện tích trên trong khoảng thời gian dài, vợ chồng ông Hùng, bà
Nhân không những không phản đối mà còn có những giúp đỡ nhất định cho ông Hậu
tiến hành việc xây dựng, vì các lẻ nêu trên tôi kính đề nghị hội đồng xét xử căn cứ vào
điểm b.1, b.3 tiểu mục 2.3 mục II nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của thân chủ tôi, công nhận hợp đồng chuyển nhượng ngày 30 tháng 5 năm
2004.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự chú ý lắng nghe của hội đồng xét xử và của quý
vị dự khán.
Trân trọng!
IV. PHẦN NHẬN XÉT DIỄN ÁN




×