Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢNG TA 19461954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.08 KB, 19 trang )

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam

Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP CỦA ĐẢNG TA 1946-1954
GV Hướng Dẫn: Nguyễn Vinh Thắng
Nhóm lớp : 11
Thành viên: Thiều Tấn Đạt

15142171

Huỳnh Văn Hậu

15142183

Lê Minh Khang

15142213

Nguyễn Thanh Tâm

15142309

Trương Quang Toàn

15142344


TP. Hồ Chí Minh 5/2017

MỤC LỤC
1


Lời nói đầu

2

Nội dung

3

I.
1.
2.
II.
III.
1.
2.
3.
4.

Hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp
3
Thuận lợi
3
Khó khăn

Thời cơ cách mạng đến
4
a. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp
4
b. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
4
Đường lối kháng chiến chổng thực dân Pháp của Đảng.
4
Cơ sở của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
4
Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
7
Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng 7
Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

Pháp
10
IV.
Những chiến thắng lớn:
11
1. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947
11
2. Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950
11
3. Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954
12
4. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
13
V.Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp 13
1. Ý nghĩa lịch sử

13
2 Nguyên nhân thắng lợi
14
Kết luận

16

Lời chân thành cảm ơn

17

Tài liệu tham khảo

18

LỜI NÓI ĐẦU
Chiến tranh là một nghệ thuật. Ở đó có sự đối kháng giữa các lưc lượng tham chiến.
Chiến tranh chính là sự đối kháng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học, quân sự. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử các dân tộc ứên thế
2


giới, không có một nước nào dựng nước và giữ nước mà không có chiến tranh. Mỗi
nước tham gia chiến tranh đều có thể đứng ở vị trí nước chủ chiến hoặc nước bị xâm
lược, hoặc cũng có thể là nước can thiệp. Nhưng dù ở bất cứ vị trí nào đi chăng nữa
thì trong chiến tranh việc đưa ra và thực hiện một đường lối chiến tranh đúng đắn sẽ
quyết định phần lớn khả năng chiến thắng của đất nước đó. Đường lối chiến tranh
chính là kết tinh của trí tuệ con người, nó chính là kim chỉ nam cho các hành động,
cho sự quyết định thắng lợi của một đất nước.
Xuyên suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trải qua rất

nhiều cuộc chiến tranh. Và kết quả của những cuộc chiến tranh ấy chính là nền độc
lập dân tộc, là xã hội xã hội chù nghĩa với tính chất công bằng, dân chủ, văn minh
hôm nay. Để đạt được kết quả này, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã đổ rất nhiều
mồ hôi, xương máu và nước mắt. Và một ứong những yếu tố quan trọng không thể
thiếu được để ta đạt thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đó là nhờ ở đường lối lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của nhà lãnh đạo. Nhìn ngược dòng lịch sử về với Việt Nam
những năm kháng chiến chống Pháp, ta sẽ thấy rõ hơn về vai trò của việc đề ra một
đường lối kháng chiến đúng đắn. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, em xin đi vào tìm
hiểu đề tài: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng 1946- 1954.

3


NỘI DUNG
I.
Hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam trước cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp
1. Thuận lợi:
-Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống chủ nghĩa xã hội trên Thế giới đang dần hình
thành và phát triển, bao gồm Liên Xô và các nước Đông Âu.
-Các nước Tư bản chủ nghĩa bị tàn phá nặng nề, phong trào đấu tranh đòi dân chủ ở các
nước Tư bản phát triển mạnh mẽ.
-Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh ở Á - Phi - Mỹ Latinh. - Đặc
biệt, sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám, quần chúng nhân dân ngày càng thêm tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ mà
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Niềm tự hào dân tộc, ý thức đoàn kết quốc gia truyền
thống yêu nước và tinh thần tương thân tương ái sẽ là động lức thúc đẩy con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng gió, thác ghềnh để cập bến bờ thắng lợi.
2. Khó khăn:
2.1 Đối ngoại:

-Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực lượng đế
quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn Đế quốc ra sức đàn áp phong
ứào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, giành giật lại những
thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành đối tượng đàn áp và giành giật của các thế lực Đế quốc
và tay sai.
-Theo quy định của hội nghị Ianta và Pôtxđam, vấn đề giải giáp quân đội Nhật ở Đông
Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như sau : phía Bắc vĩ tuyến 16 giao cho 20
vạn quân Tưởng, mà đằng sau quân Tưởng là nước Mỹ. Còn Nam vĩ tuyến 16 được giao cho
quân Anh, mà đằng sau quân Anh là thực dân Pháp.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù
đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ giải
giáp. Lúc này, Đảng ta nhận định: Việt Nam nằm trong vòng vây trùng trùng điệp điệp của
chủ nghĩa Đế quốc.
Trong tất cả các kẻ thù lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với nền độc
lập của Việt Nam.
2.2 Đối nội
-Về chính trị : Hệ thống chính quyền còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo.
Khối đại đoàn kết toàn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí Minh vừa mới
thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên gặp nhiều khó khăn trong
đối ngoại. Bọn phản động ngóc đầu dậy ráo riết hoạt động.
-về kinh tế - tài chính : Kinh tế - tài chính lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế Việt Nam
tiêu điều, xơ xác, nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm trong tay tư -3- bản
pháp, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính khánh kiệt, ngân quỹ trống rống, kho
bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, trong đó 58 vạn rách nát, ngân hàng Đông Dương vẫn nằm
trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng lại tung thêm tiền quan kim và quốc tệ đang mất giá
khiến tình hình tài chính càng thêm rối loạn. Bức tranh kinh tế - tài chính ảm đạm.
4


Tháng năm trong làng đã mùa gặt

Lòng dân sung sướng, thóc mênh mông
Có người đi lính, hiền như đất
Mùa hạ tưng bừng thương núi sông

-

Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972
-Về văn hóa - xã hội : Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là 95% dân số mù chữ,
các tệ nạn xã hội tràn lan.
Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải cùng lúc đối phó
với nhiều kẻ thù đến như vậy. Vận mệnh dân tộc ở trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Tổ
quốc lâm nguy.
II.
THỜI CƠ CÁCH MẠNG ĐẾN
a. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp:
- Pháp bội ước:
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp đánh vào các vùng tự do của ta.
+ Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: tháng 11 - 1946, Pháp khiêu khích ở Hải Phòng, Lạng Sơn.
Tháng 12 - 1946, Pháp đóng chiếm Đà Nẵng, Hải Dương.
+ Ở Hà Nội, Pháp khiêu khích, ném lựu đạn, nổ súng gây đổ máu ở nhà thông tin Tràng
Tiền, trụ sở tài chính,...
Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, Pháp gửi tối hậu thư cho ta yêu cầu ta phải giải tán lực lượng vũ
trang và giao lại quyền kiểm soát thủ đô cho Pháp. Ngày 20 - 12 - 1946, Pháp sẽ hành động
nếu không trả lời.

b. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng:
- Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, trung ương Đảng họp phát động toàn quốc kháng chiến.
- Đêm 19 - 12 - 1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Tháng 9 - 1947, cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh được in.
- Đường lối kháng chiến: toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự viện

trợ của quốc tế.
III.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
1. Cơ sở của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng:
Sau cách mạng tháng Tám 1945, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong đối nội
nhưng Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn luôn luôn chú trọng đến
công tác giải quyết những vấn đề đối ngoại. Đặt chủ trương giải quyết các vấn đề đối nội và
đối ngoại một cách song song. Trong đường lối đối ngoại của mình, Đảng xác định rõ :
Trong các kẻ thù của Việt Nam lúc bấy giờ thi Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đe dọa
trực tiếp, hằng ngày, hằng giờ đến nền độc lập vừa mới giành được của Việt Nam.
Xét về mặt vị thế, Pháp là một Đế quốc với tiềm lực kinh tế, chính ữị và quân sự hùng
mạnh, là một tên Đế quốc già và đã có vị thế nhất định trên thế giới. Trong khi lúc này, Việt
Nam vừa mới dành được nền độc lập, trải qua hàng ngàn năm đấu tranh, lại là một dân tộc
nhỏ bé với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước lạc hậu, Việt Nam thực sự còn rất non trẻ. Có
thể nói so với Pháp, Việt Nam đứng ở thế yếu. Tuy nhiên, sức mạnh tiềm tàng và cũng là thế
mạnh của Việt Nam mà Pháp hay bất cứ thế lực nào khác cũng không thể tác động đó là sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, sức mạnh của niềm tự tôn dân tộc, sức mạnh của truyền thống
5


yêu nước hàng ngàn năm lịch sử, sức mạnh của ý thức tự giải phóng đất nước, giải phóng
con người.
Bạn ta đó
Chết trên dây thép ba từng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Oải từng con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công
Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972
Hon nữa, lúc này, khi mà dư âm thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám đang sục sôi, ý

thức về nền độc lập dân tộc, về giải phóng cá nhân lại càng mạnh mẽ hơn bất cứ lúc nào
ứong người dân Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự đã thu phục niềm tin của nhân dân. Vì yậy, Đảng, Chính phủ
và nhân dân Việt Nam nhất định bằng mọi giá sẽ phải giữ vững và nhất định giữ vững nền
độc lập dân tộc.
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngã đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Sau cách mạng tháng Tám, trước vòng vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa Đế quốc và
các thế lực phản động, Đảng đã tích cực thực hiện các biện pháp chống ngoại xâm và nội
phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngay sau
khi Nhật đầu hàng đồng minh, chính phủ Đờ Gôn quyết định thành lập một đạo quân viễn
chinh tiến hành xâm lược Việt Nam. Đếm ngày 22, rạng sáng ngày 23/9/1945, pháp nổ súng
tấn công Trụ sở ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố, mở đầu cuộc xâm
lược Việt Nam lần thứ hai. Đảng ta đã nêu chủ trương đánh Pháp để bảo vệ Nam Bộ, tổ
chức lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ.
Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về “kháng chiến - kiến
quốc”, yạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Ở Miền Bắc, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp chống Đế quốc và bọn phản
cách mạng. Trong mối quan hệ với quân Tưởng và tay sai, chúng ta chủ trương tránh mọi
xung đột. Với Tưởng, ta nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao
thông, đồng thời đấu tranh hòa bình với chúng. Đối với bọn Việt quốc, Việt cách, chúng ta
thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với chúng, nhường 70 ghế ữong Quốc hội, trong đó
có một ghế phó chủ tịch nước cho chúng. Đổi lại, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức Chủ tịch nước,
lực lượng cách mạng vẫn nắm ưu thế trong Chính phủ và Quốc hội. Với bọn phản cách
mạng, ta kiên quyết vạch trần và trừng trị theo pháp luật. Ngày 11/11/1945, Đảng cộng sản
Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh

đạo phong trào cách mạng.
6


Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, đặt nước ta trước một tình
hình mới. Lúc này, nếu chúng ta cầm súng chống Pháp có nghĩa là cùng lúc chúng ta sẽ
cùng phải đối phó với cả Pháp, cả Tưởng và quân đồng minh. Đây là điều hoàn toàn không
có lợi cho ta. Vì vậy, giải pháp tốt nhất là chúng ta phải nhượng bộ có điều kiện với Pháp.
Lúc này, Pháp cũng đang muốn đàm phán với Việt Nam để xúc tiến nhanh chóng việc đưa
quân ra Miền Bắc, loại bỏ Tưởng. Đó chính là cơ sở dẫn đến việc ký kết Hiệp định Sơ bộ
(6/3/1946) giữa Việt Nam và Pháp. Trong hiệp định ta đã nhân nhượng Pháp, cho Pháp đưa
15000 quân ra Bắc thay Tưởng giải giáp quân đội Nhật, số quân này đóng tại những địa
điểm quy định và rút dần trong vòng 5 năm. Nhưng mặt khác, Hiệp định thể hiện sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng ta, nó chính là sự thừa nhận của Chính phủ Pháp về sự tồn tại của
Việt Nam với tư cách một quốc gia dân chủ cũng như thừa nhận địa vị đại diện cho nhân
dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đập tan âm mưu liên kết chống Việt Nam của
Pháp và Tưởng. Tuy ta đã hết sức nhân nhượng nhưng Pháp vẫn lấn tới, chúng liên tục vi
phạm: vi phạm lệnh ngừng bắn ở Miền Bắc, cho quân đánh chiếm trái phép một số vùng ở
Bắc Bộ, thành lập chính phủ Nam kỷ tự trị hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Các cuộc
đàm phán hòa bình giữa Việt Nam và Pháp không thành công do dã tâm của Pháp. Trước
nguy cơ cuộc chiến tranh Việt - Pháp đang đến gần, Chính phủ ta quyết định nhân nhượng
với Pháp thêm một lần nữa, ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, tiếp tục nhân
nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam để tạo thời gian hòa
hoãn cho ta xây dựng, chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi,
chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Đảng và Chính phủ ta đã tỏ rõ thiện chí hòa bình, cố gắng làm những việc có thể để đẩy lùi
chiến tranh. Trong khi chúng ta đã hết lòng nhân nhượng và chấp hành đúng những gì đã
thỏa thuận, ký kết thì thực dân Pháp lại liên tục bội ước. Chúng xem sự nhân nhượng của ta
là hành động hèn nhát đàu hàng, chúng kiêu căng ngạo mạn về sức mạnh của mình, cho nên
càng ngày chúng càng lấn tới. Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành

chính sách việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 20/11/1946, quân Pháp
mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nắng.
Ngày 16/12/1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Đương đã họp tại Hải Phòng bàn
triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày 17 và 18/12/1946,
tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta tại phố Hàng Bún, Yên Ninh, đòi kiểm
soát an ninh trật tự ở thủ đô. Trắng ữợn hơn, chúng còn gửi tối hậu thư buộc ta phải giao
quyền kiểm soát thủ đô cho chúng, nếu không, chậm nhất là sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ
hành động.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng hòa hoãn
không còn. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế
không thể nhân nhượng thêm được nữa, vì nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân
sẽ ưở lại cuộc đời nô lệ. Trong thời điểm lịch sử quyết đoán này,Hội nghị của Ban Thường
vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc - Hà Đông ngày 19/12/1946 đã quyết định hạ
quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc
20h ngày 19/12/1946,tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Rạng sáng
ngày 20/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
phát đi trên đài tiếng nói Việt Nam.
7


“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước
,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!”
Lúc này, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh chống Pháp với vai trò bảo vệ Tổ
quốc, tính chất của cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh nhân dân

bảo vệ hòa bình, chống lại kẻ thù xâm lược, nhân dân ta có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Mặt
khác, ứải qua một quá trình lâu dài thực hiện hòa hoãn với Pháp, giờ đây ta đã loại bỏ được
các kẻ thù, chỉ còn lại kẻ thù duy nhất là Pháp, các công tác đối nội cũng đã được giải quyết
về cơ bản, các điều kiện cần thiết chuẩn bị cho chiến tranh đã sẵn sàng, Đảng và nhân dân
có đủ niềm tin để chiến đấu và chiến thắng. Trong khi đó, lúc này Pháp vấp phải không ít
khó khăn về kinh tế, chính trị, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương, những khó khăn
này không dễ gì chúng khắc phục được ngay trong ngày một, ngày hai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng vấp phải một số khó khăn
nhất định. Lực lượng của ta so với Pháp còn yếu, vũ khí trang bị lạc hậu hơn. Ta bị cô lập,
bao vây bốn phía, chưa được công nhận địa vị trên trường quốc tế.
Trong khi Pháp lại có vũ khí tối tân và đã chiếm đóng được Lào, Cămpuchia và một số nơi
ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và những thuận lợi, khó khăn đó chính là cơ sở để Đảng
xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
2. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng:
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thảnh từng bước qua thực tiễn đối phó với âm
mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp
Ngay sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị thị về kháng chiến - kiến
quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung mũi nhọ đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng
chiến, trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Đảng đã đưa ra những chủ trương, chỉ thị
chỉ đạo kháng chiến thích hợp, kịp thời. Những văn kiện này đã cấu thành đường lối kháng
chiến chống Pháp của Đảng ta. Những nội dung cơ bản trong đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn kiện: Chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc
(25/11/1945) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến
(12/12/1946) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(19/12/1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác phẩm Kháng chiến nhất định thẳng lợi (9/1947)
của đồng chí Trường Chinh và Chỉnh cương của Đảng lao động Việt Nam sau này.
3.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng toát lên những nội

dung cơ bản sau:
- về mục đích kháng chiến:
Kế tục và phát ứiển sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám, đánh phản động thực dân Pháp,
giành thống nhất và độc lập.
- về tính chất kháng chiến:
8


Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến ứanh cách mạng của nhân dân, chiến
tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Là một cuộc chiến ứanh
tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc
giải phóng và dân chủ mới.
- Chính sách kháng chiến:
Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và
các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân.
Thực hiện toàn dân kháng chiến... Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến:
Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí... Động viên nhân lực,
vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng
chiến. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.
Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ... Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc...
-Phương châm tiến hành kháng chiến
Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiên kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính.
+ Kháng chiến toàn dân:
Xác định kháng chiến toàn dân, Đảng dựa vào cơ sỏ lý luận và thực tiễn:
*
Cơ sở lý luận:
Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, do nhân dân tiến hành. Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc,

mỗi khi đất nước đứng trước những thử thách to lớn, để chiến thắng được kẻ thù thì điều cơ
bàn là phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
*
Cơ sở thực tiễn:
• Tiếp tục kế thừa và phát ứiển truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Đó là
truyền thống cả nước chung lòng, toàn dân đánh giặc. Truyền thống yêu nước này đã từ
hàng ngàn năm lịch sử với những Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung, những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... Muốn tiến hành kháng chiến toàn
dân thì phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, phải xây dựng được những hình thức
mặt trận tương ứng, phải phát động kháng chiến toàn diện. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người ứẻ. Hễ là người Việt Nam phải
đứng lên đánh thực dân Pháp”, làm sao cho mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là
một pháo đài, mỗi phố phường là một trận địa.
Đoàn Thủ đô thề xung phong quyết tử
Nguyện sả mình mong Tổ quốc quyết sinh
Nên bao lần vì đất nước điêu linh
Nghe sôi dậy trong tim Dòng máu Việt
Máu anh dũng của giống nòi Nam Việt
Vẫn lưu truyền muôn vạn kiếp về sau…
"Thủ đô huyết thệ" của Lương Ngọc Trác
• Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng đặt ách áp bức, bóc lột vô cùng giã
man và tàn bạo lên toàn thể nhân dân ta, theo quy luật thông thường, có áp bức - có đấu
9


ứanh, toàn thể nhân dân Việt Nam sẽ vùng lên đấu tranh chống Pháp. Mặt khác, tương quan
lực lượng giữa ta và địch là rất lớn. Pháp có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều
lần, do đó buộc ta phải huy động sức mạnh toàn dân. Kháng chiến toàn dân sẽ đem lại cho
cách mạng Việt Nam một sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần, góp phần đánh thắng
mọi kế hoạch của Pháp.

• Chúng ta tiến hành chiến tranh nhằm mục đích bảo vệ Tổ quốc, do đó cuộc chiến tranh
của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại
chiến tranh phi nghĩa. Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh nhân dân do đó phải dựa vào
dân, phải kháng chiến toàn dân.
+ Kháng chiến toàn diện:
Cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam phải tiến hành một cách toàn diện. Có thể
nói, chiến ứanh bao giờ cũng là cuộc đối đầu toàn diện giữa hai bên tham chiến. Ở đây, thực
dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam trên tất cả mọi phương diện. Vĩ thế, cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam cũng sẽ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Kháng chiến trên mọi
lĩnh vực biểu hiện:
• Về chính trị:
Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân
dân; Đoàn kết Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do hòa bình.
• Về quân sự:
Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy,
là “Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài,...Vừa
đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”. Lần lượt đánh bại các kế
hoạch, chiến lược chiến tranh của Pháp, tiêu diệt lực lượng địch trên đất nước ta, đè bẹp ý
chí xâm lược của chúng, giành độc lập cho đất nước.
• Về kinh tế:
Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng. Chúng ta đưa ra khẩu hiệu: ‘
‘Xây dựng kinh tế ta, phá hoại kinh tế địch”, chống lại kế hoạch “lấy chiến ứanh nuôi chiến
tranh” của Pháp.
• Về văn hóa:
Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến. Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên
tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Thực hiện khẩu hiệu: “Văn hóa hóa kháng chiến, kháng
chiến hóa văn hóa”.
• Về ngoại giao:

Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản
động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập. Thoát khỏi
thế bị bao vây cô lập.
Có thể nói, kháng chiến toàn diện chính là một biểu hiện của kháng chiến toàn dân. Kháng
chiến toàn diện giúp phát huy triệt để lợi thế của mỗi giai cấp, mỗi cá nhân ừong cuộc kháng
chiến chống Pháp xâm lược.
+ Kháng chiến trường kỳ:
10


Chúng ta thực hiện kháng chiến trường kỳ là để chống lại âm mưu của Pháp. Khi bắt đầu
cuộc chiến tranh, tương quan lực lượng có lợi cho Pháp, do đó Pháp muốn thực hiện chiến
lược đánh nhanh, thắng nhanh. Để có thời gian phát huy yếu tố “Thiên thời, địa lợi, nhân
hòa”, ta phải thực hiện đánh lâu dài để vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng, làm
tiêu hao lực lượng địch, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch, đánh thắng địch, “Biến lớn thành nhỏ, biến nguy thành an”(Hồ Chí Minh).
Kháng chiến trường kỳ nhưng không có nghĩa là mãi mãi, trong suốt quá trình tiến hành
cuộc kháng chiến cần phải xác định thời cơ để tạo ra những bước ngoặt thúc đẩy kháng
chiến đến thắng lợi, hạn chế tối đa hao tốn sức người, sức của của nhân dân.
Trường kỳ nhưng phải tất thắng, phải có niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
+ Kháng chiến dựa vào sức mình là chính:
Chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến trong thế bị bao vây cô lập bốn phía, chưa được một
nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, cũng như chưa được một nước nào giúp đỡ
nên phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Lịch sử cũng đã chứng minh: Không
có nước nào trên thế giới chỉ dựa vào nước ngoài mà có độc lập thực sự, vì “Có tự lập mới
có độc lập, có tự cường mới có tự do”. Do đó, ta cần phải đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Mặt khác, khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự sự giúp đỡ của các nước, sự đồng tình của
bạn bà quốc tế. Song, lúc đó cũng không được ỷ lại, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời
đại để dành thắng lợi trong cuộc kháng chiến.
- Triển vọng kháng chiến:

Đường lối kháng chiến xác định mặc dù kháng chiến diễn ra lâu dài, gian khổ, khó khăn
song nhất định thắng lợi.
thể nói, chiến ứanh bao giờ cũng là cuộc đối đầu toàn diện giữa hai bên tham chiến. Ở đây,
thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam trên tất cả mọi phương diện. Vĩ thế, cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam cũng sẽ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực.
4.
Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
Đường lối kháng chiến với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo.
Đường lối kháng chiến chống Pháp là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự
truyền thống của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến ưanh cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến chính là
sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh
nghiệm quân sự của nước ngoài vào Việt Nam. Đây là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến
tranh chính nghĩa “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chính nghĩa thắng hung
tàn”.
Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến
nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện theo tinh thần của đường lối, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân đấu tranh chống Pháp trên tất cả các lĩnh vực và đặc biệt giành thắng lợi vẻ vang trên
mặt trận quân sự tại chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947 và chiến dịch Biên giới 1950,
giáng đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của địch, giành
được thế chù động ứên chiến trường chính Bắc Bộ. Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới
và cách mạng Đông Dương có nhiều biến chuyển mới. Nước ta được các nước xã hội chủ
nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương
11


giành được những thắng lợi quan trọng. Mỹ lợi dung lúc Pháp gặp khó khăn để can thiệp
trực tiếp vào cuộc chiến Đông Dương. Điều kiên lịch sử đặt Đảng ta trước yêu cầu bổ sung
và hoàn chỉnh đường lối cách mạng. Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai

của Đảng họp tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa
- Tuyên Quang) thông qua “Báo cáo chính trị” do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và báo
cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” do Trường Chinh trình bày. Bản báo cáo của Tổng bí thư
Trường Chinh sau này đi vào lịch sử dân tộc với tên gọi: “Chính cương của Đảng lao động
Việt Nam”, xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta và đường lối này tiếp tục được bổ
sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo, như Hội nghị Trung ương lần thứ
nhất (tháng 3/1951), Hội nghị Trung ương lần thứ hai (từ ngày 27/9 đến ngày 5/10/1951),
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1/1953), Hội nghị trung ương lần thứ năm (tháng
11/1953).
Nhờ việc đề ra và thực hiện triệt để thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng chúng ta đã
giành thắng lợi vẻ vang ứong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, đỉnh cao là
thắng lợi trong Đông - Xuân 1953 - 1954 vói chiến dịch Điện Biên Phủ. Bảo vệ thắng lợi
của cách mạng tháng Tám, làm thất bại âm mưu xâm lược của Pháp và can thiệp Mỹ, buộc
chúng công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, nó cũng mang trong minh ý nghĩa quốc
tế cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng thuộc địa và là tiếng chuông báo tử cho
hệ thống tử cho hệ thống thực dân cũ trên toàn Thế giới
I. Những chiến thắng lớn:
1.
Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947:
-Pháp tấn công Việt Bắc:
+ Tháng 4 - 1947, cao ủy Đông Dương Bô-la-e vạch ra kế hoạch đánh Việt Bắc nhằm đánh
phá căn cứ địa cách mạng, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt
đường liên lạc với quốc tế.
+ Với ý đồ như vậy, Pháp đã huy động 1200 quân và hầu hết các máy bay ở Đông Dương
và do tướng Va-luy chỉ huy.
-Quân ta chiến đấu chống cuộc tiến công của địch:
+ Đảng có chỉ thị phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc. Quân ta đã chiến đấu
khắp các mặt trận, từng bước đẩy lùi giặc Pháp.

+ Mặt trận đường 3, ta đánh trên 20 trận, bao vây đánh tỉa quân dù khiến chúng phải rút
khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã. Đến cuối tháng 11 - 1947, trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch lên đến
Việt Bắc.
+ Mặt trận đường 4, ta phục kích tiêu diệt địch. Tiêu biểu là trận đèo Bông Lau ( 30 - 10 1947 ), ta phá hủy được 27 xe, bắt sống 240 tên địch.
+ Mặt trận sông Lô, ta bao vây chặn đánh địch trên nhiều đoạn sông.
=> Hai gọng kìm Đông và Tây bị bẻ gẫy, không gặp nhau được ở Đài Thị.
+ Cuộc chiến đấu hơn hai tháng rất ác liệt giữa ta và địch được kết thúc bằng cuộc rút chạy
của Pháp ( 19 - 12 - 1947 ).
+ Các mặt trận khác cũng phối hợp với Việt Bắc đánh địch như ở Hà Nội, Sài Gòn, ta tập
kích vào các vị trí, đồn bốt của giặc.
12


- Kết quả và ý nghĩa:
+ Với Pháp:
Việt Bắc trở thành mồ chôn quân Pháp với hơn 6000 tên địch bị loại, bắn rơi 16 máy bay,
bắn chìm 11 ca nô và tàu chiến và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác. Kế hoạch
đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp bị thất bại.
+ Với ta:
Cơ quan đầu não được an toàn, bộ đội chủ lực trưởng thành, cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn mới.
2.
Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950:
* Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến:
-Thuận lợi:
+ Ngày 1 - 10 - 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập. Từ đây, Việt Nam
thoát khỏi sự bao vây của chủ nghĩa đế quốc.
+ Các nước XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam như Trung
Quốc ( 18 - 1 - 1950 ), Liên Xô ( 30 - 1 - 1950 ) và nhiều nước XHCN khác.
-Khó khăn:

+ Mĩ bắt đầu giúp Pháp can thiệp sâu vào chiến tranh ở Đông Dương thông qua kế hoạch
Rơve: ngày 7 - 2 - 1950, Mĩ công nhận chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Ngày 8 - 5 - 1950, Mĩ
viện trợ 10 triệu USD cho Pháp. Tháng 7 - 1950, Mĩ đặt phái đoàn cố vẫn quân sự ở Việt
Nam, từng bước điều kiển chiến tranh ở Đông Dương.
+ Từ 6 - 1949, Pháp đưa nhiều vũ khí vào Việt Nam, đưa quân từ Trung Bộ và Nam Bộ ra
Bắc, tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập hành lang Đông - Tây ( Hải
Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La ), bao vây chuẩn bị đánh Việt Bắc lần hai.
* Cuộc tiến công địch ở biên giới phía Bắc của quân ta:
-Tháng 6 - 1950, ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh
lực địch, mở đường liên lạc với quốc tế, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc để tạo đà
phát triển cho cuộc kháng chiến. Hồ Chủ tịch đã trực tiếp lên trận địa để chỉ đạo chiến dịch.
-Diễn biến:
+ Ngày 16 - 9 - 1950, ta đánh Đông Khê thì đến 18 - 9 là giành thắng lợi khiến Pháp phải
rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4, địch từ Thất Khê lên Đông Khê để đón cánh quân từ
Cao Bằng về.
+ Từ 1 - 10 đến 8 - 10 - 1950, ta mở cuộc bao vây, đánh chặn ở Cốc Xá, đồi 477, tiêu diệt
cả hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa-giơ khiến địch phải rút khỏi Thất Khê ( 8 - 10 - 1950 )
và rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn ( 13 - 10 - 1950 ).
+ Từ 13 - 10 đến 22 - 10 - 1950, Pháp lần lượt rút khỏi Lộc Bình, An Châu, Đình Lộc.
=> Chiến dịch trên mặt trận Biên giới kết thúc.
+ Các mặt trận khác cũng phối hợp với Biên giới đánh địch ở tả ngạn sông Hồng, đường 6,
đường 22. Tháng 11 - 1950, Pháp rút khỏi Hòa Bình.
+ Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Liên khu V, Bình Trị Thiên và Nam Bộ.
- Kết quả và ý nghĩa:
+ Kết quả:
13


Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 tên, thu và phá hủy hơn 3000 vũ khí, giải phóng tuyến
biên giới dài 750 km từ Đình Lộc lên Cao Bằng, chọc thủng hành lang Đông - Tây, kế hoạch

Rơ-ve bước đầu bị phá sản.
+ Ý nghĩa:
Khai thông con đường nước ta với thế giới XHCN. Quân đội ta được trưởng thành, ta
giành được thế chủ động ở chiến trường chính, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng
chiến.
3.
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954:
-Chủ trương của ta:
Tập trung lực lượng, tiến công theo những hướng quan trọng về chiến lược nhưng ở đó
địch yếu, sơ hở nhằm giải phóng đất đai, tiêu diệt sinh lực địch và buộc chúng phải phân tán
lực lượng để đối phó với ta.
-Diễn biến:
+ Ngày 10 - 12 - 1953, ta tấn công theo hướng Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, Sơn La và
uy hiếp Điện Biên Phủ.
+ Đầu tháng 12 - 1953, liên quân Việt - Lào tiến công ở Trung Lào, giải phóng nhiều đất
đai và uy hiếp Xê-nô. Pháp điều quân tiếp viện cho Xê-nô nên Xê-nô đã trở thành nơi tập
trung lực lượng thứ 3 của địch.
+ Cuối tháng 1 - 1954, liên quân Việt - Lào tiến công ở Thượng Lào, giải phóng những
vùng đất đai rộng lớn, uy hiếp Luông-pha-băng. Pháp điều quân tiếp viện cho Luông-phabăng nên Luông-pha-băng trở thành nơi tập trung binh lực thứ 4 của địch.
+ Tháng 2 - 1954, ta tiến công theo hướng Bắc của Tây Nguyên, giải phóng Kom Tum và
uy hiếp Plây-cu. Pháp điều quân từ Tuy Hòa tiếp cứu cho Plây-cu nên Plây-cu trở thành nơi
tập trung binh lực thứ 5 của địch.
+ Sau lưng địch: chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam
Trung Bộ và Nam Bộ.
- Kết luận:
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954-15- , ta đã chủ động mở hàng loạt
chiến dịch và đã đạt được mục đích đề ra, khiến Pháp phải phân tán lực lượng thành 5 cứ
điểm.
4.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ:

-Âm mưu của Pháp và Mĩ:
+ Điện Biên Phủ có vị trí đặc biệt: nằm ở phía Tây của Tây Bắc, giáp biên giới với Lào. Có
thể nói đây là vị trí then chốt ở Đông Dương.
+ Sau cuộc tiến công đông - xuân 1953 - 1954, Pháp điều chỉnh coi Điện Biên Phủ là khâu
chính của kế hoạch Nava. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ là căn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương về lực lượng, vũ khí.
+ Phân làm 3 phân khu: phân khu phía Bắc, khu trung tâm và phân khu Nam nhằm hút chủ
lực của ta đến đây để tiêu diệt.
-Chủ trương của ta:

14


+ Tháng 12 - 1953, bộ Tổng tư lệnh và Trung ương Đảng họp quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng Tây Bắc và tạo điều kiện giải phóng
Bắc Lào.
+ Ta chuẩn bị gấp rút cho Điện Biên Phủ:
Lực lượng 55.000 quân gồm 4 đại đoàn bộ bình, 1 đại đoàn pháo binh và nhiều tiểu đoàn
công binh, 27.000 tấn gạo, 628 ô tô tải và 2.100 xe đạp,...
-Diễn biến:
+ Đợt 1 ( từ 13 đến 17 - 3 - 1954 ): ta đánh vào phân khu phía Bắc bao gồm Bản Kéo, đồi
Độc Lập, Him Lam, loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 địch.
+ Đợt 2 ( từ 30 - 3 đến 26 - 4 - 1954 ): ta đánh vào khu trung tâm Mường Thanh.
+ Đợt 3 ( từ 1 - 5 đến 7 - 5 - 1954 ): ta đánh khu trung tâm và phân khu phía Nam, chiếm
được những cứ điểm còn lại.
+ Những chiến trường khác đã phối hợp với Điện Biên Phủ đánh địch nhằm phân tán, tiêu
háo, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
-Kết quả và ý nghĩa:
+Kết quả:
Loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 địch và thu được 19.000 súng các loại và phá 162 máy

bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
Riêng ở Điện Biên Phủ, loại 16.200 tên địch, phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí,
phương tiện chiến tranh.
II. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp:
1. Ý nghĩa lịch sử:
-Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp
trong gần một thế kỉ. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng
XHCN, tạo cơ sở để nhân dân ra giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
-Ráng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược và âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau
chiến tranh thế giới II, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi và Mĩ La - tinh.
-Tuy nhiên, miền Nam chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh
gian khổ chống đế quốc Mĩ nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.
2. Nguyên nhân thắng lợi:
-Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch: đường lối đúng đắn và sáng tạo, toàn
quân, toàn dân đoàn kết một lòng trong chiến đấu.
-Có chính quyền dân chủ nhân dân khắp cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được củng
cố.
-Lực lượng vũ trang được xây dựng, có hậu phương vững chắc, củng cố,...
-Có sự liên minh chiến đấu của ba dân tộc: Việt, Lào, Miên,... và có sự ủng hộ của Liên
Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác, nhân dân tiến bộ Pháp và đông đảo dư luận thế
giới.
- Tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, không sợ hi sinh vì đất nước của quân đội
nhân dân ta
15


Những đồng chí, thân chồn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai

Ào ào vũ bão
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên-Tố Hữu

16


KẾT LUẬN
Đường lối cách mạng chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi
của cuộc cách mạng. Nó là cơ sở để dẫn dắt cuộc cách mạng đi đến thành quả cuối cùng.
Một đường lối cách mạng đúng đắn kết hợp với việc thực hiện ừiệt để sẽ dẫn tới một
cuộc cách mạng thành công và ngược lại, một đường lối cách mạng chưa xác định chính
xác những vấn đề chính của cách mạng thi sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng không đạt kết
quả như mong đợi. Đảng ta đã căn cứ vào những điều kiện cụ thể của đất nước ta, vân
dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin để vạch ra đường lối cách mạng
đúng đắn, sáng tạo, đưa kháng chiến đến thắng lợi yẻ vang. Có thể nói, Đường lối kháng
chiến chống Pháp Đảng ta chính là kết tinh của trí tuệ con người, thể hiện năng lực lãnh
đạo vững vàng của Đảng ta. Nó góp phần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn
toàn xứng đáng với vai trò lãnh đạo dân tộc Việt Nam

17


LỜI CHÂN THÀNH CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Vinh Thắng – giảng viên bộ môn –
đã giảng dạy rất tận tình cho chúng em trong học phần này.
Do thời gian, điều kiện cùng những tài liệu tham khảo còn hạn chế, bài tiểu luận của
em chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót…Em rất mong nhận được sự chỉ
bảo, đánh giá cùng những ý kiến đóng góp hết sức quý báu của Thầy để đề tài của em
có thể được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Thầy.
Nhóm Sinh viên thực hiện


Tài liệu tham khảo
18


1. Giáo trình đường lối cánh mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam- NXB chính trị

Quốc gia-Sự thật, 2014
2. />3. />%BFn-46-54
4. />%C4%90%BB3%A1ng_chi%E1%BA%BFn_ch%E1%BB%91ng_th%E1%BB
%B1c_d%C3%A2n_Ph%C3%A1p_v%C3%A0_%C4%91%E1%BA%BF_qu
%E1%BB%91c_M%E1%BB%B9_x%C3%A2m_l%C6%B0%E1%BB
%A3c_(1945-1975)
5. />%9Dng-l%E1%BB%91i-ch%E1%BB%91ng-th%E1%BB%B1c-dan-Phap-n
%C4%83m-46-54
6. />7. />8. />9. />q=tieu+luan+duong+loi+khang+chien+chong+phap+4654&rlz=1C1PRFI_viVN7
36VN736&oq=tieu+luan+khang+chien+chong+phap&aqs=chrome.2.69i57j0l5.16
012j0j4&sourceid=chrome&ie=UTF-8
10. />%C4%91%E1%BB%81+t%C3%A0i+%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng+l
%E1%BB%91i+kh%C3%A1ng+chi%E1%BA%BFn+c%E1%BB%A7a+
%C4%91%E1%BA%A3ng.htm

19



×