Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chuyên đề: Anh hưởng của văn học dân gian đến văn học Viết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.08 KB, 21 trang )


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-----    -----


ẢNH HƯỞNG VĂN HỌC DÂN GIAN
VỚI VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM
Người thực hiện : ĐẶNG THỊ HỒØNG ĐÀO
Đơn vò: TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH

A. MỞ ĐÂÀU:
“Từ ngày ăn phải miếng trầu
1
TPTuy hòa, 5 /
2008
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết là thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho thiếp phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha
Làm cho quên cửa quên nhà
Làm cho quên cá dưới ao
Quên trăng dưới nước, quên sao trên trời”
Bài ca dao là một trong những bài ca dao thuộc chủ đề ca dao yêu thương,
tình nghóa, mà cụ thể hơn là một tình yêu trong sáng nhưng cũng pha chút hài hước,
lãng mạn giữa đôi trai gái. Nhà thơ Xuân Diệu đã nói: “Không chờ đợi thơ chính
quy, thơ chuyên nghiệp diễn tả hộ mình, những người lao động đã thế kỉ này qua
thế kỉkhác, diễn tả trực tiếp lòng yêu thương, sướng vui, đau khổ” (Sách Ngữ văn
10NC, trang 102). Như vậy, từ trước lúc “thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp” ra đời
thì những người lao động gởi gắm cả tình cảm, ước mơ lẫn khát vọng vào trong
những vần ca dao ngắn ngủi nhưng lại xúc tích, hàm chứa nhiều điều. Ca dao, hay


nói cách khác là văn học dân gian, đã có một chỗ đứng rất quan trọng trong đời
sống tinh thần cần được bộc lộ của người bình dân, đóng một vai trò khá lớn trong
việc phê phán xã hội phong kiến – nửa thực dân, lên án giai cấp thống trò áp bức,
bóc lột nhân dân. Vậy từ khi “thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp” chính thức ra đời
từ khoảng thế kỉ thứ X thì nó đã giúp cho người bình dân “diễn tả trực tiếp lòng yêu
thương, vui sướn, đau khổ” hay chưa? Liệu văn học dân gian có còn đóng vai trò
quan trọng, hay nói đúng hơn có còn ảnh hưởng đến văn học viết nữa hay không?
Có còn xứg đáng là “bộ sách giáo khoa về cuộc sống” để các tác giả văn học viết
học tập hay không?
I. Văn học dân gian trong tiến trình văn học dân tộc:
- Trong tiến trình văn học dân tộc, văn học dân gian ra đời từ rất sớm, những
thần thoại, những truyền thuyết từ thû lạp nước đến nay (Văn Lang, Âu Lc) thuộc
vào hàng di sản cổ xưa nhất trong nền văn học dân tộc đã minh chứng cho sự ra đời
của văn học dân gian.
- Và khi văn học viết ra đời thì văn học dân gian vẫn tiếp tục phát triển bên
cạnh người bình dân, ảnh hưởng không nhỏ đến các tầng lớp tri thức của văn học
viết. Trong suốt tiến trình ấy, văn học dân gian vẫn gắn bó với đời sống và tư tưởng
“diễn tả trực tiếp lòng yêu thương, sướng vui, đau khổ” của quần chúng lao động
đông đảo trong xã hội.
- Văn học dân gian Việt Nam có nội dung phong phú, phản ánh cuộc sống
thể hiện lý tưởng xã hội và đạo đức của nhân dân lao động các dân tộc cung cấp tri
2
thức có ích về tự nhiên và xã hội, bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp,
chứa đựng cả một kho tàng các truyền thống nghệ thuật dân tộc.
II. Văn học dân gian có một vò trí và vai trò như thế nào đối với văn học viết?
- “Ở Việt Nam, văn học dân gian có vò trí vai trò rất quan. Trong hàng nghìn
năm Bắc thuộc và ở các thời kì dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ
cập, văn học dân gian đã đóng góp to lớn trong việc gìn giữ, mài giũa và phát triển
ngôn ngữ dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của văn
học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học

viết từ nội dung đến hình thức” (Sách NV 10 nâng cao, tập trung I trang 6). Từ thû
nghìn năm Bắc thuộc, văn học dân gian đã có một vò thế quan trọng trong đời sống
tinh thần của quần chúng lao động khi chữ viết “chưa có hoặc chưa phổ cập”, văn
học dân gian đã “gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc”, nuôi dưỡng tâ
hồn nhân dân”. Bỡi có một vò trí như thế nên văn học dân gian có vai trò như
“người diễn tả hộ” tình cảm lẫn tư tưởng của nhân dân lao động. Tương truyền,
trước khi diễn ra cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Trưng Trắc đã đọc
thề, về sau được viết thành thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn sở công lênh này”
Bốn câu thơ trên được trích từ “Tiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế kỉ
XVII” đã thể hiện được mục đích của cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng là “đền nợ
nước, trả thù nhà”, quét sạch bọn xâm lược Hán ra khỏi nước Âu Lạc và để nhớ về
lời thề nguyện của bà, nhân dân đã gói gọn trong bốn câu thơ. Chả thế mà đến Lê
Văn Hư, nhà sử học thế kit XIII, cũng phải khen rằng “Trưng Trắc, Trưng Nhò là
phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng
65 thành ở tỉnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn
tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp Bá vương”!
III Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết:
- “Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo,
tài hoa văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển
của văn học viết từ nội dung đến hình thức”. Văn học dân gian ra đời sớm hơn văn
học viết nhưng lại tồn tại song song với văn học viết, truyền cho văn học viết một
sức sống mới, tặng cho người đọc những bài viết, tác phẩm có sức lay động tình
3
cảm người bình dân. Có nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm hay chữ quốc
ngữ sở dó có sức tồn tại lâu dài là bỡi được phổ cập rộng rãi trong các tầng lớp nhân
dân một phần do tác giả tiếp thu một cách sáng tạo giá trò nội dung và kinh nghiệm

nghệ thuật của vănhọc dân gian. Và trong sự nghiệp xây dựng nền văn học đậm đà
bản sắc dân tộc hiện nay thì văn học dân gian vẫn luôn được coi là một nguồn nước
vô tận cho sự sáng tạo nghệ thuật. Văn học dân gian giống như một người anh song
sinh của văn học viết, vì sinh ra trước cho nên chòu một ít “gian khổ” là lẽ đương
nhiên. Và vì “sinh sau đẻ muộn” từ văn học dân gian. Vì thế, một số trí thức của
văn học viết (như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…) đã sáng tác những
tác phẩm để đời là nhờ một phần tư tưởng và sinh hoạt gần gũi với nhân dân lao
động, hiểu và vận dụng một cách tài tình ngôn ngữ mang tính bình dân.
1. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của văn học dân gian trong các tác phẩm của Nguyễn
Du:
“Học như mọi người, thu hoạch như tất cả người thu hoạch ca dao, học tính
giai cấp trong đó, học lập trường của những người lao động, học cái hiện thực của
việc đời qua mấy nghìn năm trong đó học các tương quan xã hội, học các tương
quan nam nữ trong các chế độ cũ, học tên đất, tên nước, tên sao, tên cá, tên chim
muông, tên hoa cỏ… học máu và mồ hôi, nước mắt và nụ cười của những con người…
Nhưng nói hẹp hơn, các nhà thơ học được thơ ở trong ca dao” (Xuân Diệu) “Các
nhà thơ học những gì ở ca dao?” (tạp chí Văn học, số 1-1967). Như vậy, nhà thơ
Xuân Diệu muốn các nhà thơ thế hệ sau học tập tất cả những gì có thể học được từ
ca dao, từ những cái đơn giản nhất “tên đất, tên nước, tên sao, tên cá, tên chim
muông, tên hoa cỏ” cho đến những cái phức tạp “học tính giai cấp, học lập trường,
học cái hiện thực của việc đời…”
- Nhờ có cuộc sống phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc (1786-1796) rồi về ở
ẩn tại quê nội Hà Tónh (1796-1802), nên Nguyễn Du có được vốn kiến thức sâu
rộng, am hiểu văn hoá dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi
nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm
thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Sự ngiệp văn học của Nguyễn
Du gồm những tác phẩm có giá trò bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm nhưng tác phẩm mà
ông dành nhiều thời gian và tâm sức nhất là “Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu
nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương tiện ngôn ngữ, thể loại. Với “Truyện
Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ, thế

nên tác phẩm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng
lớp độc giả là lẽ đương nhiên!
- Trước tiên, tôi xin mạn phép được đưa mọi người quay trở về quá khứ của
Nguyễn Du, cái thời kì mà xã hội phong kiến đã dần suy yếu nhưng còn đủ sức để
ngực trò con người. Những bọn quan lại đại thần miệng nói nhân nghóa nhưng lại
khôn khéo:
4
“Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc
Mà xé thòt người nhai ngọt xớt!”
Cả “Truyện Kiều” là một bản cáo trạng cái xã hội phong kiến áp bức; nàng
Thuý Kiều tài tình xinh đẹp, thanh q bò đem bán như món hàng, như thú vật đắt
tiền nào đó. Mã Giám Sinh đến mua đã tàn nhẫn:
“Cò kè thêm bớt một hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Thì mò Bạc Hạnh đem Kiều bán đi còn tàn nhẫn hơn:
“Xem người đònh giá vừa rồi
Mối hàng một đã ra mười, thì buông!”
(Trước khi “buông” thì phải nắm thật chặt! Một vốn bốn lời, năm lời, sáu lời,
bảy lời vẫn không buông. Một mười lời, tức thì buông ra không chút quyến luyến,
không thương tiếc!)
- Câu chuyện về cuộc đời cô Kiều là một hiện thực vó đại, là một cuốn tiểu
sử của một xã hội thối nát. Sau cảnh vu oan, tra tấn, hối lộ vỡ lòng là một dây kéo
theo những oan khốc, cảnh buôn người, cảnh làm gái lầu xanh, đánh đập, cảnh lừa
gạt một phụ nữ, cảnh đánh ghen lạ đời, cảnh lừa giết một anh hùng… Cái xã hội gì
mà “đầu trâu mặt người ào ào như sôi” mà “khốc quỷ kinh thần mọc ra” còn như
“thây vô chủ bên sông” thì bất kể ngày đêm, lúc nào cũng sẵn có! Cái uy quyền gì
mà người ta đến mách cho một vài tin tức thì đã “đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng”
cốt lập thâm mưu về sau! Cái thứ “mặt sắt” Hồ Tôn Hiến gì mà cũng “ngây vì tình”
ng trang bằng rượu, khiến ông tơ hồng phải động theo, vơ lấy tơ mà xe nhăng xe
nhít. Còn đồng tiền thì thật đáng kinh tởm, dính đầy máu và nước mắt của người

lương thiện: Tú BÀ “máu tham hễ thấy hơi đồng là mê”, bọn quan lại thì đòi trám
miệng, nhăng nhít như đám ruồi nhặng bu vào miếng thòt:
“Là gì cái thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Những mụ Tú Bà giờ đây không còn nữa nhưng ai có một lần đọc qua
“Truyện Kiều” thì mụ vẫn có sống mãi trong tâm trí người đọc với cái cơn nổi tam
bành có một không hai cùng cái giọng the thá:
“Này này sự đã giả nhiên
Thôi đà cướp sống chồng mi đi rồi!”
Bảo rằng: đi dạo lấy ngưới
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn
5
Tuồng vô nghóa, ở bất nhân
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi
Màu hồ đã mất đi rồi
(bù lu, bù loa) Thôi thôi vốn liếng đi đơi nhà ma!
(nanh nọc) Con kia đã bán cho ta
Nhập gia phải cứ phép nhà ta đây
Lão kia có giở bài bây
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!
Cớ sao chòu tốt một bề
(đay nghiến) Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
“Phải làm cho biết phép ta!”
Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay!
Trời đất ơi! Tú Bà nói chưa đầy nửa phút mà bọt mép của mụ văng ra mãi
đến ngàn năm! Tưởng như “mưa bay” tới tấp vào mặt ấy, mụ nói cứ như xé rách cả
trang giấy viết của Nguyễn Du ấy! Tuy nhiên xã hội ta vẫn chưa diệt hết hạng
người áy, chứng cứ sống dai khiến người ta nhớ như in dáng điệu không lẫn vào đâu
“Thoắt trông nhờn nhợt màu da/Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao” của mụ! Không còn
cô Hoạn Thư trong cái cách sai tay chân đi đốt nhà, bắt người về hành hạ nhưng cái

mưu mô của mụ thì quả là sâu sắc, khi ta cợt nghó đến vẫn còn “sởn da gà”. Nhân
vật Hoạn Thư là một sáng tạo thật ly kì, thật hiếm có nhưng lại rất thật! Nhưng nếu
cuộc đời ta đang xây dựng không còn những anh Thúc Sinh thì không bao giờ còn
mụ Hoạn Thư! Cái anh Thúc Sinh sợ vợ, không chút khí phách đàn ông nhưng lại
tốt bụng hiền lành. Còn cái tên “Sở Khanh, thật đúng với cái tên của hắn. Từ anh
Sở Khanh cưỡi ngựa chuồn mất trong “Truyện Kiều” đến những anh Sở Khanh
trong đời thường không đi ngựa mà đi bộ, đi xe đạp hay ô tô mà người ta vẫn cứ
nhớ cái “Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!” Bỡi nó rất điển hình cho tính “anh
hùng rơm” của gã, chỉ biết đấm ngực kêu thời nhưng rốt cuộc chỉ là cái mắt mo mà
nàng Kiều muốn lờ đi.
Nếu nói về cách sử dụng ngôn từ, ca dao , tục ngữ một cách nhuần nhuyễn
trong tác phẩm “Truyện Kiều” thì không thể tìm người thứ hai ngoài Nguyễn Du.
Tôi lấy ví dung trong đoạn trích” Chò Em Thuý Kiều”
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làm thu thuỷ nét xuân sơn
6
Hoa ghen tha thắm liểu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Chỉ trong sáu câu thơ mà Nguyễn Du sử dụng một điển tích và hai hình ảnh
ẩn dụ. Nguyễn Du sử dụng điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” để phụ hoạ làm
nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, khiến nười ta cũng phải say mê đến nổi mất thành,
mất nước.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”, lại một hình ảnh ẩn dụ miêu tả vẻ đẹp trời cho
của nàng, đôi mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày như nét của mùa
xuân. Chả thế mà đến thiên nhiên cũng phải “Hoa ghen”, “liễu hờn”. Các bức
tranh của Nguyễn Du mang cái đặc tính và nhưựoc điểm của văn chương cổ điển: tả
người một cách tuyệt đối hoá, tất phải đẹp nhất và tài nhất, đàn ông thì văn chương
nết đất, thông minh tính trời còn đàn bà thì “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”.

Tuy nhiên, Nguyễn Du có phóng đại về nội dung, mà hình thức văn thì kiệm, ít lời
nhiều chất thể nên người đọc vẫn còn thấy phải chăng.
Còn Thuý Vân:
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
“Thốt” cũng có nghóa là nói, nhưng nếu để “Hoa cười ngọc nói” thì chữ “
Nói” bò ảnh hưởng của chữ cười, thế thì hoá ra “Cười nói” mà cười nói nói chẳng
hoá ra nói nhiều. Chữ “ Thốt” là thỉnh thoảng mới nói ( Lấy từ câu tục ngữ “ Biết
thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” ) đáng mới nói, nghó rồi mới thốt ra, có
thể mới “ Đoan trang”. Thuý Vân cũng rất đẹp, điều đó không còn bàn cãi gì nữa,
nhưng lại đẹp một cách phúc hậu “Khuôn trăng đầy đặn” nói nôn na ra là “Phinh
phính đôi má bánh đúc”, cho nên “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thua
xong, nhường xong là yên ổn. Còn Thuý Kiều cũng rất đẹp nhưng đẹp theo lối
“Chim sa cá lặn” ( Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ). Hoa cũng phải ghen,
liễu cũng phải kém Thuý Kiều, chúng nó “hờn”, “ghen” và chúng sẽ trả thù và
nàng Kiều sẽ phải lắm phen long đong, lận đận, truân chuyên với chúng! Thật là
một kết quả dự báo gần như là chính xác đối với thời điểm đó!
- Điển tích mà Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm của mình không phải lời
ít, mà ngược lại rất phong phú đằng khác. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích”, mở đầu là câu “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”. Điển tích mà Nguyễn Du
sử dụng ở đây là điển tích “Khoá xuân toả nhò Kiều” nói về việc vua Tần cho bắt
nhốt hai người con gái đẹp nhất là Đại Kiều và Tiểu Kiều vào trong cung để họ
phải chết mòn mỏi. Không biết là hữu hay vô ý mà cô Kiều của chúng ta lại có tên
giống hệt người con gái trong điển tích. Há chẳng phải Nguyễn Du có ý rằng nàng
7
Kiều sau lần tự tử không chất, bò mụ Tú giam vào lầu Ngưng Bích như “cá cắn
câu”, “chim vào lồng” đó sao? Hay điển tích “Sân Lai” trong câu “Sân Lai cách
mấy nắng mưa” (Lão Lai Tử dù đã có tuổi nhưng vẫn còn mặc áo sặc sỡ để mua vui
cho cha mẹ) cũng thể hiện được sự hiếu thuận của nàng Kiều, một lòng hướng về
cha mẹ hay sao? Còn trong đoạn:

“Nàng rằng: nghóa nặng nhìn non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”
“Sâm Thương” chính là sao Kim, một hành tinh trong hệ Mặt Trời, nhưng
người xưa cho là hai ngôi sao, một ở phía đông và một ở phía tây, sao này mọc, sao
kia lăn. Nguyễn Du dùng “Sâm Thương” để chỉ sự cách biệt không bao giờ gặp
nhau giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh. Thúc Sinh đi rồi, Kiều không thể nào làm “vẹn
chữ lòng”. “Người cũ” và “cố nhân” đều đồng nghóa với nhau và đều chỉ Thúc
Sinh, thể hiện sự biết ơn của nàng trước hành động nghóa hiệp của Sinh: cứu nàng
ra khỏi lầu xah lần thứ nhất.
- Do có cả một thời gian chỉ sống giữa nhân dân cho nên Nguyễn Du có hẳn
cảmột kho tục ngữ, ca dao để vận dụng vào trong thơ của mình. Ví như đoạn Thuý
Kiều gợi nhắc đến Hoạn Thư trong lúc đối thoại với Thúc Sinh trong đoạn trích
“Thuý kiều báo ân, báo oán”
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng thoả nghóa sâu cho vừa”
Nhắc đến Thúc Sinh, Kiều không thể không nhớ đến ả Hoạn Thư, cái kẻ đã
cho bọn ưng, Khuyển đốt nhà, bắt cóc nàng về để đánh ghen. Khi cái anh chàng sợ
vợ kia đã nói thực lòng mình:
“Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi”
thì cũng chính là lúc mà nàng Kiều bắt đầu cho một đời làm a hoàn, hoa nô cho nhà
họ Hoạn. Ả năm lần bảy lượt hành hạ Kiều một cách khốc liệt nhất, bắt nang đánh
đàn cho hai vợ chồng ả nghe, nhưng thực ra:
“Cùng trong một tiếng tơ đồng
người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”
8

×