Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ DỰ ÁN: CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIỐNG LÚA CỦA NÔNG DÂN TỈNH BẮC KẠN (VM014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.97 KB, 21 trang )

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ
DỰ ÁN: CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG GIỐNG LÚA CỦA NÔNG DÂN
TỈNH BẮC KẠN (VM014)

(Từ 23/5 – 10/6/2011)

Nhóm đánh giá:

Hoàng Văn Phụ (Trưởng nhóm)
Hán Văn Khoát
Phạm Kim Ngọc
Nguyễn Phương Nga

THÁNG 6, 2011


Bảng chữ viết tắt
Chữ tắt

Giải nghĩa

SRI

Hệ thống canh tác lúa cải tiến

TOR

Bản tham chiếu giao việc

UBND



Ủy ban nhân dân

SRD

Trung tâm phát triển nông thôn bền vững

NN&
PTNT

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

BVTV

Bảo vệ thực vật

Mục lục

2


Phần A:
MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh dự án và lý do đánh giá
Trên cơ sở kế thừa những kết quả và khuyến nghị từ dự án “Nâng cao năng lực
cho các nhóm nông dân trong sử dụng, phát triển và bảo tồn đa dạng nguồn giống gen
cây lúa” giai đoạn 2005-2007 tại tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm phát triển nông thôn bền
vững (SRD) đã phối hợp với Sở NN&PTNT Bắc Kạn, trực tiếp là Chi cục Trồng trọt và
Bảo vệ Thực vật tỉnh tiếp tục hỗ trợ nông dân Bắc Kạn nâng cao năng lực chọn lọc,
phục tráng và sản xuất các giống lúa địa phương, thông qua dự án “Củng cố và phát

triển hệ thống giống lúa của nông dân”.
Dự án được thực hiện từ tháng 4/2008 đến tháng 3/2011 trên 8 huyện thị của tỉnh
Bắc Kạn với mục tiêu là nâng cao năng lực về sản xuất giống lúa và sản xuất lúa gạo
một cách bền vững cho nhiều nông dân đặc biệt người nghèo và phụ nữ để cải thiện thu
nhập hộ gia đình và hướng đến nền sản xuất nông nghiệp bền vững. Ngoài ra, dự án còn
hướng đến mục tiêu vận động các cấp chính quyền và các bên đối tác của tỉnh thừa nhận
vai trò của người nông dân trong sản xuất lúa giống lúa đến phát triển các chính sách,
cơ chế hỗ trợ người nông dân chủ động nguồn giống lúa thuần, giảm dần việc sử dụng
lúa lai cũng như giảm dần sự phụ thuộc của người nông dân vào nguồn giống bên ngoài.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra, sau 3 năm triển khai dự án, Trung tâm SRD
phối hợp với Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh Bắc Kạn tổ chức đánh giá cuối cùng dự
án, trong đó tập trung phân tích các tác động của dự án đến năng lực của người dân về
phục tráng, nhân và so sánh giống, cũng như năng lực của người dân trong hợp tác, trao
đổi giống nhằm đa dạng các giống lúa phù hợp với điều kiện của địa phương. Đồng thời
đưa ra những khuyến nghị ở các cấp khác nhau về nhân rộng các kết quả của dự án
trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Kạn, cũng như các bài học kinh nghiệm mà SRD cần rút
ra khi áp dụng tại vùng dự án khác của mình. Hoạt động đánh giá bên ngoài đối với dự
án này thể hiện tính nghiêm túc và chuyên nghiệp của cơ quan hỗ trợ kỹ thuật cho dự án
– Trung tâm phát triển nông thôn bền vững (SRD)
Nhóm đánh giá gồm 3 người: Hoàng Văn Phụ - Đại học Thái Nguyên (chuyên
gia về nông nghiệp), Hán Văn Khoát (chuyên gia về vận động chính sách) và Phạm
Kim Ngọc – Trung tâm giới và gia đình (chuyên gia về bình đẳng giới). Trong đợt công
tác, nhóm đánh giá đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình của cán bộ SRD và các đối tác địa
phương của dự án gồm lãnh đạo UBND tỉnh; lãnh đạo và chuyên viên Sở NN&PTNT,
Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, Trung tâm khuyến nông tỉnh, Công ty cổ phần
giống cây trồng Bắc Kạn; lãnh đạo UBND, Phòng NN&PTNT và cán bộ trạm BVTV
thuộc 2 huyện Chợ Mới và Bạch Thông; lãnh đạo xã và nông dân các xã Nông hạ
(huyện Chợ Mới), xã Tú trĩ (huyện Bạch Thông), Trung tâm học tập cộng đồng xã Xuất
hóa và nhóm nông dân sản giống xã Huyền Tụng (Thị xã Bắc Cạn).
2. Mục tiêu đánh giá

3


1) Dựa vào các mục tiêu của dự án, đánh giá kết quả, mức độ thành công và những
hạn chế của dự án trong việc nâng cao năng lực của nông dân về bảo tồn, sử
dụng và phát triển sản xuất giống lúa thuần tại địa phương (bao gồm nhóm
nghiên cứu tại TTHTCĐ, nhóm sản xuất lúa giống và các hộ dân).
2) Đánh giá tác động về thay đổi nhận thức, về tập quán canh tác và những thay đổi
khác liên quan đến bình đẳng giới, kiến thức kỹ năng xã hội cũng như đến phát
triển sinh kế cải thiện thu nhập trong sản xuất giống và lúa gạo tại cộng đồng đối
với những người hưởng lợi của dự án, đặc biệt là nông dân nghèo và phụ nữ.
3) Đánh giá tác động về những thay đổi trong việc nhìn nhận vai trò của nông dân
trong sản xuất lúa từ phía đối tác, chính quyền và các bên liên quan; những tác
động trong xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống giống
lúa nông hộ của địa phương từ cấp cở sở đến cấp tỉnh.
4) Đánh giá hiệu quả và tính bền vững hệ thống giống lúa của nông dân được thiết
lập thông qua các lớp FFS và Trung tâm học tập cộng đồng cũng như sự tham gia
của các hộ dân trong vùng dự án, đặc biệt vai trò của người phụ nữ.
5) Đưa ra các khuyến nghị đối với những định hướng tương lai cho hệ thống sản
xuất giống lúa thuần tại Bắc Kạn. Đặc biệt những khuyến nghị về những chiến
lược, các chính sách và hoạt động hỗ trợ cho các bên liên quan cho hệ thống
giống lúa của nông dân trong tương lai để duy trì và nhân rộng các kết quả của
dự án. Đồng thời đưa ra khuyến nghị để SRD có thể cải thiện phương pháp tiếp
cận cũng như những hỗ trợ can thiệp phù hợp hơn với người dân, đặc biệt những
người nông dân nghèo, thiệt thòi khi áp dụng ở vùng dự án khác.
3. Phương pháp đánh gía
3.1 Thu thập thông tin thứ cấp
Thông tin thứ cấp phục vụ cho đợt đánh giá đã được thu thập gồm các báo cáo liên
quan đến dự án của SRD, Chi cục BVTV tỉnh Bắc Kạn, báo cáo phát triển kinh tế xã hội
của các huyện, xã trong vùng dự án; các công văn nghị quyết liên quan của HĐND và

UBND tỉnh, các tài liệu, tờ rơi, tờ treo, sổ sách ghi chép của các lớp FFS (xem phần tài
liệu tham khảo).
3.2

Thu thập thông tin sơ cấp

Nhóm đánh giá đã xây dựng định hướng tham vấn và tổ chức đi thực địa, quan sát
cánh đồng lúa vùng dự án, phỏng vấn trực tiếp một số hộ nông dân, thảo luận với nông
dân các nhóm FFS, nhóm sản xuất giống, phỏng vấn cán bộ tỉnh, huyện, xã.
3.3 Tổ chức hội thảo tham vấn, phản hồi, lấy ý kiến chung
Nhóm đánh giá phối hợp với Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh tổ chức Hội thảo
tham vấn, lấy ý kiến phản hồi các nhận định của đoàn đánh giá. Thành phần hội thảo
gồm lánh đạo Sở NN&PTNT, các ban ngành liên quan của tỉnh, huyện, xã, nhóm nông
dân tham gia dự án (danh sách người tham gia hội thảo xem phục lục 3)
3.4

Địa điểm, thời gian đánh giá (Xem Phụ lục 1)

4


Địa điểm: Thị xã Bắc Kạn (xã Huyền Tụng và Xuất hóa), huyện Chợ Mới (xã
Nông Hạ) và huyện Bạch Thông (xã Tú Trĩ)
Thời gian: từ 23/5 đến 10/6/2011

5


Phần B:
CÁC PHÁT HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ

1. Kết quả đạt được của dự án
Trải qua 3 năm thực hiện (2008-2011), Dự án “Củng cố và phát triển hệ thống
giống lúa của nông dân” đã thu được nhiều kết quả. Tại vùng dự án:
-

Năng xuất lúa tăng 20-30% và tăng thu nhập 15-25% qua đó nâng cao đời sống
nhân dân, trong đó có 38 % là nông dân nghèo.

-

Môi trường địa phương được cải thiện rõ rệt bằng chứng là nông dân đã áp dụng
hệ thống canh tác lúa cải tiến, thuốc BVTV sử dụng giảm trên 50% (từ 4 lần
phun xuống chỉ còn 1-2 lần phun/vụ)

-

Trên 1.200 nông dân trong 40 lớp FFS (trong đó có 77% phụ nữ, 38 % hộ nghèo)
được nâng cao kiến thức về PGR qua 40 lớp FFS; 7.300 lượt người tham gia tại
126 hội thảo đầu bờ; 192 người trong và ngoài tỉnh tham gia hội chợ lúa gạo với
đời sống và sinh kế cộng đồng; 80 người tham gia tại 2 cuộc chia sẻ kinh nghiệm
về PGR; 60 người tham gia tại 3 chuyến xây dựng mạng lưới hạt giống; 175 lượt
người tham gia trong 5 khoá nâng cao kiến thức về PGR; hơn 120 người tại 3 hội
thảo chia sẻ kinh nghiệm về PGR. Với số lượng lớn nông dân như trên được
cung cấp kiến thức và nâng cao năng lực về kỹ năng bảo tồn nguồn gen, chọn
lọc, so sánh, phục tráng, kỹ thuật sản xuất lúa, và kỹ năng làm việc theo nhóm sẽ
tác động lớn làm thay đổi nhận thức về vai trò của người dân trong phát triển
nông nghiệp và nông thôn bền vững.

-


Tổ chức 2 khoá tập huấn về lập kế hoạch và kỹ năng kinh doanh cho 65 người; 3
khoá nâng cao kỹ năng quản lý cho 120 nông dân nòng cốt và kỹ thuật viên; tổ
chức 1 chuyến thăm quan học tập kinh nghiệm ở Campuchia cho 13 cán bộ và
nông dân; 1 chuyến thăm quan học tập ở Điện Biên cho 30 cán bộ và nông dân;
tổ chức 33 cuộc kiểm tra chéo và chia sẻ kinh nghiệm với 165 người tham gia;
175 cuộc kiểm tra, giám sát được thực hiện bởi 398 người tham gia. Thông qua
các hoạt động này đã nâng cao năng lực cho một lực lượng lớn cán bộ và nông
dân, giúp cho việc tạo nguồn nhân lực có kinh nghiệm phục vụ cho mạng lưới
khuyến nông và phát triển nông thôn của tỉnh.

-

Đã tổ chức được 40 lớp FFS về giống lúa, qua đó hình thành 40 câu lạc bộ PGR,
2 nhóm nòng cốt tại Trung tâm học tập cộng đồng được hình thành với tổng số ?
hộ và một nhóm nông dân sản xuất giống lúa được thành lập với 18 hộ tham gia
(sản xuất trên 2 ha được 14,8 tấn giống bán cho công ty giống, thu nhập tăng 3040 %). Đây là cơ sở hình thành các tập thể tự nguyện của nông dân, tạo điều kiện
tiến tới thành lập hợp tác xã hay công ty cổ phần kiểu mới, qua đó người dân có
cơ hội hợp tác với nhau để nâng cao sức cạnh tranh của nông dân trong thời kỳ
hội nhập.

-

Có tới 178 nghiên cứu đồng ruộng; 244 lượt giống được so sánh khảo nghiệm;
45 lượt giống lúa được phục tráng; 43 lượt giống được nhân giống cung cấp cho
6


các lớp học và 2 giống lúa do nông dân chọn lọc đã được Sở NN&PNT công
nhận và đưa vào cơ cầu giống lúa của tỉnh;; 55 tấn thóc được sản xuất và trên 18
tấn giống lúa được trao đổi. Kết quả này cho thấy năng lực nghiên cứu của người

dân được tăng lên và nguồn giống lúa địa phương đã được người dân quan tâm
và bảo tồn và phát triển.
-

Dự án đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền như đưa tin trong 16 số báo địa
phương, làm 9 VCD và phát sóng 20 lần trên truyền hình địa phương, in ấn 1.500
tài liệu kỹ thuật chọn lọc và sản xuất lúa giống nông hộ và 1.500 tờ tranh treo
tường về kỹ thuật phục tráng giống lúa để cấp phát cho người dân. Các hoạt động
này đã góp phần quảng bá thành quả dự án, tuyên truyền nâng cao nhận thức và
vận động ủng hộ hệ thống giông lúa nông hộ ở Bắc Kạn.

(Xem Phụ lục 2: Bảng so sánh các chỉ tiêu đo lường giữa kế hoạch và kết quả đạt được)
2. Phân tích, đánh giá và các tác động của dự án
2.1 Về thiết kế dự án
 Hầu hết các ý kiến đề xuất trong báo cáo đánh giá giai đoạn 1 của dự án đã được
đưa vào trong các hoạt động của dự án.
Dự án “Củng cố và phát triển hệ thống giống lúa nông dân tỉnh Bắc Kạn giai
đoạn 2008-2011” được kế thừa và tiếp tục của Dự án “Nâng cao năng lực cho các nhóm
nông dân nhằm phát triển bền vững các giống lúa cộng đồng” giai đoạn 2005-2007. Khi
dự án kết thúc, căn cứ vào kết quả đạt được của dự án, nhóm đánh giá dự án đã đưa ra
khuyến nghị: (1) Hỗ trợ một số nhóm nông dân trong sản xuất giống lúa; (2) Củng cố và
mở rộng hệ thống sản xuất giống của nông dân; và (3) Hỗ trợ và xúc tiến việc cấp
chứng nhận giống lúa của nông dân. Các khuyến nghị trên đã được nhóm thiết kế đưa
vào các hoạt động chính của dự án. Điều đó chứng tỏ tính kế thừa và bền vững của các
hoạt động trên.
 Dự án đã xây dựng các mục tiêu, các kết quả mong đợi và các hoạt động trên cơ sở

có sự tham gia của người dân và các tổ chức địa phương.
Quá trình xây dựng và thiết kế dự án đã được thực hiện theo cách tiếp cận từ
dưới lên “bottom-up” do đó đã thúc đẩy được sự tham gia đóng góp của người dân, các

tổ chức cộng đồng và của đối tác về để đảm bảo mục tiêu và các hoạt động của dự án
phù hợp và bền vững.
 Mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách của Nhà nước về phát triển

nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong thời kỳ hội nhập của đất nước.
Xây dựng, phát triẻn Nông nghiêp, Nông dân và Nông thôn là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước nhằm tới một nông thôn đổi mới, một nền nông nghiệp phát triển
bền vững và những người nông dân có khả năng làm chủ trong xây dựng xã hội và phát
triển kinh tế. Các hoạt động của dự án đã hướng tới mục tiêu đó. Đồng thời, trong tiến
trình hội nhập quốc tế nhất là khi Việt Nam là thành viên WTO, Nhà nước sẽ cắt giảm
dần các nguồn hỗ trợ trực tiếp cho nông dân (chính sách trợ giá, trợ cước cho lúa giống)
7


sẽ không còn, dự án sẽ giúp người nông dân chủ động được khâu sản xuất giống họ sẽ
chủ động và tăng năng lực cạnh tranh.
2.2 Đánh giá mục tiêu, kết quả, mức độ thành công và hạn chế của dự án trong việc

nâng cao năng lực nông dân về bảo tồn, sử dụng, và phát triển sản suất giống
lúa địa phương
Các kết quả và thành công
Trên cơ sở thông tin có được qua nghiên cứu thông tin thứ cấp, quan sát thực địa,
phỏng vấn và thảo luận với người dân và tham vấn các cấp chính quyền và các bên đối
tác, nhóm đánh giá có nhận định rằng với sự cố gắng nỗ lực của SRD và Chi cục BVTV
Bắc Kạn, cộng với sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân tham gia, Dự án “Củng cố và
phát triển hệ thống giống lúa của nông dân” đã đạt được mục tiêu và kết quả mong đợi.
Đó là song song với hệ thống giống lúa Nhà nước, hệ thống giống lúa của nông dân
bước đầu được hình thành và phát triển tại Bắc Kạn. Có tới trên 1.200 nông dân đã
được nâng cao năng lực về PGR tại 40 lớp học FFS. Họ đã được trang bị kiến thức về
bảo tồn nguồn gen, so sánh chọn lọc, phục tráng, và kỹ thuật thâm canh lúa nói chung

(SRI) và sản xuất giống lúa nói riêng. Từ đó năng lực của nông dân được nâng cao, họ
đã không chỉ tự sản xuất giống lúa cho họ mà còn chủ động cung cấp giống lúa tốt cho
cộng đồng . Điều này được thể hiện ở chỗ trên 90 % các hộ tham gia dự án đã sử dụng
giống lúa thuần mà chính họ chọn lọc và sản xuất ra. Đồng thời xu thế tự sản xuất, trao
đổi giống (có tỉ lệ chênh lệch – trước đây chưa bao giờ có tiền lệ này), và cao hơn nữa
là sản xuất kinh doanh giống đang được hình thành trong cộng đồng nông thôn trải rộng
trên khắp 8 huyện của tỉnh Bắc Kạn.
Phát triển hệ thống giống lúa của nông dân là cách tiếp cận theo hướng nông
nghiệp bền vững. Các mục tiêu và các hoạt động của dự án là phù hợp với chủ trương
phát triển nông nghiệp, nông thôn, và nông dân (“tam nông”) và công nghiệp hóa nông
thôn của chính phủ Việt Nam. Đó là một khi có hệ thống giống nông hộ, người dân có
thể chủ động giống lúa phù hợp với đặc điểm đất đai và tiểu khí hậu của địa phương
mình, giảm thiểu rủi ro, trình độ canh tác lúa của người dân được nâng lên sẽ sử dụng
hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có của họ, bảo vệ môi trường sinh thái ủng hộ cho nền
nông nghiệp phát triển bền vững; đó là một xã hội nông thôn phát triển với quan hệ xã
hội vững chắc trên cơ sở tăng cường sự tham gia của người dân, các nhóm cộng đồng
được củng cố, bình đẳng giới được phát huy; đó là đời sống nông dân được cải thiện,
năng lực của nông dân được nâng lên, và qua đó tác động làm thay đổi nhận thức của
các cấp chính quyền về vai trò của nông dân có thể tham gia sâu hơn không chỉ trong
sản xuất mà cả nghiên cứu khoa học cũng như ra quyết định sản xuất và quản lý xã hội
nông thôn.
Hệ thống giống lúa nông hộ sẽ thúc đẩy tiến trình “công nghiệp hóa nông thôn”
và “liên kết 4 Nhà” ở một tỉnh miền núi. Nhóm nông dân được các nhà khoa học
chuyển giao công nghệ chọn lọc, phục tráng và nhân giống lúa. Họ tiếp thu được
phương pháp thâm canh lúa cải tiến (SRI) và sản phẩm của họ làm ra đã được các nhà
kinh doanh giống tìm đến để tiêu thụ. Đồng thời tỉnh có chính sách khuyến khích trao
đổi giống với tỉ lệ chênh lệch 1 giống =1,5 thóc thịt. Đó chính là sự gắn kết 4 nhà: Nhà
8



nông – Nhà Khoa học - Nhà kinh doanh – Nhà quản lý. Mức độ, qui mô của các liên kết
này mặc dù chưa nhiều, nhưng mô hình do dự án xây dựng đã phản ánh được cách làm
mà Nhà nước đang rất quan tâm, bởi lẽ nó yêu cầu người dân chuyển đổi từ sản xuất ‘tự
cung tự cấp’ sang sản xuất theo hướng công nghiệp và hàng hóa, tăng cường làm việc
tập thể và sản xuất quy mô lớn, tạo điều kiện cho sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân,
doanh nghiệp, khoa học và quản lý.
Dự án đã xây dựng cách tiếp cận thông qua các nhóm nông hộ. Đây là một
phương thức tiếp cận hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế hay kỹ thuật đơn thuần mà
chính là thông qua cách tiếp cận này đã giúp cho các cộng đồng hình thành nên tổ chức
của nông dân, tạo nên sự gắn kết và thúc đẩy sự tham gia của nhiều người trong một tổ
chức. Các nhóm nông hộ này, dù tham gia trong hoạt động nào: Nhóm TTHTCĐ, nhóm
sản xuất giống hay nhóm FFS, họ đều có trách nhiệm tham gia vào hoạt động tập thể,
trở thành động lực thúc đẩy cho cả cộng đồng. Sự gắn kết các thành viên trong nhóm
tạo cho họ cơ hội chia sẻ, cộng đồng cùng tham gia và cùng chịu trách nhiệm về tổ chức
của họ. Đây chính là tiền thân của các câu lạc bộ, của Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
của hình thức hợp tác trong sản xuất mà Đảng và Nhà nước đang khuyến khích xây
dựng.
Các hoạt động của dự án đã thu hút được sự tham gia tích cực của đối tác, được
người dân và các cấp chính quyền ủng hộ. Năng lực của người dân, của các tổ chức
cộng đồng và của cán bộ tham gia dự án ở địa phương được nâng lên rõ rệt. Với sự trợ
giúp của dự án 40 lớp FFS đã hình thành 40 câu lạc bộ PGR, trong đó có 2 nhóm nằm
trong 2 trung tâm học tập cộng đồng, và một nhóm nông dân sản xuất giống lúa (Huyền
Tụng) được thiết lập đã hình thành một mạng lưới rộng lớn và đủ mạnh về PGR, làm cơ
sở cho việc vận động chính sách cho hệ thống giống lúa nông dân.
Dự án đã thực hiện thành công chiến lược và tiến trình có sự tham gia của người
dân, các tổ chức cộng đồng vào các hoạt động của dự án. Đặc biệt là dự án đã sử dụng
cách tiếp cận cây lúa để thu hút sự tham gia và nâng cao nhận thức cho người nghèo và
phụ nữ. Những người nông dân tham gia trong các nhóm dự án thường xuyên cùng học
hỏi, cùng chia sẻ với nhau về các kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất và đời sống, họ
hiểu nhau hơn và gắn bó với nhau hơn. Các kết quả mà họ tạo ra là các giống lúa có độ

thuần cao, có năng xuất và chất lượng tốt, họ không chỉ trao đổi ở trong nhóm mà còn
trao đổi với moi thành viên khác trong cộng đồng, thậm chi không tính đến chênh lệch
giữa thóc thịt và thóc giống, hành động này của họ đã tăng thêm sự gắn kết tình làng
nghĩa xóm, sự chia sẻ và đùm bọc trong cộng đồng.
Kết quả của dự án là cơ sở để các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương đưa ra
các quyết định, các chủ trương, chính sách phát triển sản xuất. Dự án không chỉ làm
thay đổi nhận thức, tư duy về sản xuất cây lúa của người tham gia trực tiếp mà còn có
tác động tới phần lớn các nông dân khác ở trong vùng, góp phần vào giảm chi phí sản
xuất và tăng thu nhập cho người dân. Người dân nắm bắt được qui trình phục tráng, so
sánh giống và chọn lựa giống lúa thích hợp với điều kiện tự nhiên và trình độ thâm
canh, chủ động trong việc sản xuất giống lúa, không còn bị phụ thuộc vào bên ngoài,
giảm được chi phí, tăng thu nhập cho gia đình và cộng đồng. Các kết quả của dự án về
sản xuất giống lúa tại chỗ và áp dụng các biện pháp thâm canh là cơ sở để giúp cho lãnh
đạo các cấp chính quyền địa phương đưa ra các quyết định, các chủ trương và chính
9


sách phát triển cây lúa nói riêng, phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nói
chung trên địa bàn.
Dự án có tính bền vững cao vì các hoạt động của dự án được xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn của người dân, từ mong muốn của cộng đồng và từ chủ trương phát triển
nông nghiệp, nông thôn của các cấp chính quyền địa phương.
Dự án đã tạo nên môi trường sản xuất lành mạnh, tạo sự chia sẻ, gắn kết trong
cộng đồng. Sản xuất theo phương thức SRI chính là tạo ra môi trường phù hợp cho cây
lúa, giữ cho đất được mầu mỡ, tiết kiệm nước và đặc biệt là giảm hẳn sự độc hại của
thuốc BVTV và thuốc trừ cỏ. Đó chính là môi trường lành mạnh trong sản xuất, không
chỉ là môi trường cho cây lúa mà còn là môi trường sống cho con người.
Hầu hết các tiêu chí đặt ra đều đạt hoặc vượt. Các hoạt động của dự án đã đảm
bảo tiến độ về thời gian và ngân sách hoạt động.
Các hạn chế:

Nhìn chung năng lực về bảo tồn, sử dụng, và phát triển sản suất giống lúa địa
phương của người dân tham gia dự án được tăng lên. Tuy nhiên năng lực này vẫn chưa
đủ mạnh để giúp người dân giải thoát tâm lý trông trờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc
của dự án. Tâm lý trông chờ ỷ nại luôn thường xuyên đeo bám họ. Qua thảo luận nhóm
và phỏng vấn cá nhân nhóm trưởng nhóm sản xuất giống lúa Huyền Tụng cũng như
nhóm nông dân lớp FFS tại Nông hạ hay Tú Trĩ cho thấy họ còn rất lúng túng không
biết làm sao có thể duy trì hoạt động của nhóm sau khi dự án kết thúc.
Công tác tuyên truyền vận động chính sách chưa được quan tâm thỏa đáng, do đó
các cấp chính quyền từ xã, đến huyện và tỉnh chưa biết nhiều về dự án, kết quả là giảm
tác động đến việc thay đổi nhận thức trong họ về vai trò của nông dân trong việc hình
thành mạng lưới giống nông hộ.
Sự kết nối, hợp tác tham gia dự án giữa các đối tác địa phương như các các đơn
vị của Sở NN&PTNT và các phòng chức năng của huyện chưa được quan tâm chặt chẽ,
đã tạo nên sự lỏng lẻo trong cơ chế điều hành dự án và phối hợp lồng ghép nguồn lực
cũng như tiếng nói chung để ủng hộ cho hệ thống giống lúa nông hộ.
2.3 Đánh giá về thay đổi nhận thức về tập quán canh tác...liên quan đến bình đẳng
giới, phát triển sinh kế trong sản suất lúa của cộng đồng nông dân nghèo, nữ
 Người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc lựa chọn, phục tráng và
nhân giống các giống lúa phù hợp với điều kiện của họ
Những năm trước khi có dự án, một bộ phận nông dân được chính phủ hỗ trợ
tiền mua thóc giống (lúa lai Trung Quốc), diện tích gieo trồng lúa lai chiếm trên 40%.
Do điều kiện đồng ruộng của Bắc Kạn hầu hết là khe, thung lũng ven đồi bị cớm nắng,
trình độ thâm canh hạn chế, điều kiện để đầu tư có hạn nên không khai thác được tiềm
năng của lúa lai, năng xuất bình quân chung cả tỉnh chỉ đạt 45 tạ/ha. Các giống lúa địa
phương chiếm tỷ lệ cao hơn nhưng do tập quán tự để giống của người dân, không chọn
lọc, thay đổi hàng năm nên hầu hết các giống đều ở tình trạng thoái hóa, kém phẩm
chất.
10



Sau khi tiếp cận với dự án, một bộ phận nông dân đã được đào tạo, tập huấn về
kiến thức, kỹ thuật chọn lọc, phục tráng và nhân giống, nông dân đã chọn lọc được 16
giống phù hợp, phục táng được 13 giống, trong đó có 2 giống đã được tỉnh công nhận
và đưa vào cơ cấu giống của tỉnh. Những giống mà nông dân chọn lựa cho năng xuất
không kém lúa lai gieo trồng trên địa bàn của tỉnh.
Việc chọn lọc, phục tráng và nhân giống tại chỗ đã giúp cho nông dân có giống
lúa tốt, giảm được chi phí, chủ động trong sản xuất, không bị lệ thuộc vào bên ngoài.
 Bảo tồn được nguồn gien cây trồng và tạo nên tính đa dạng trong sản xuất
Với 45 lượt giống lúa được phục tráng; 43 lượt giống được nhân giống cung cấp
cho các lớp học, 13 loại giống được chọn tạo và 2 giống lúa do nông dân chọn lọc đã
được Sở NN&PNT công nhận và đưa vào cơ cầu giống lúa của tỉnh, việc chọn giống,
phục tráng giống và nhân giống không chỉ giúp cho nông dân có giống lúa thích hợp để
sản xuất mà thông qua việc chọn lọc, phục tráng đã giữ lại được nguồn gien và tạo nên
tính đa dạng về giống lúa của địa phương. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa đối với
một số nông dân tham gia chọn lọc giống mà nó còn có ý nghĩa lớn hơn trong việc gìn
giữ, bảo tồn nguồn gien mà người xưa đã tạo nên, làm phong phú tính đa dạng của
nguồn giống.
 Người dân đã có thay đổi rõ rệt trong nhận thức và tập quán canh tác lúa
Những người nông dân tham gia nhóm sản xuất giống lúa, nhóm TTHTCĐ,
nhóm FFS đã được tiếp cận với phương pháp canh tác thâm canh lúa cải tiến SRI, thực
hành trên đồng ruộng và đã đạt được kết quả cao trong sản xuất. Theo phương pháp SRI
mà người dân tham gia dự án thực hiện, lượng thóc giống giảm 50-70%, thuốc BVTV
giảm 50%, công chăm sóc giảm 30%, năng xuất lúa tăng 20-30%, thu nhập tăng 1520%. Từ thực tiễn đó, nhận thức của người dân đã chuyển đổi, tập quán sản xuất truyền
thống trước đây như cấy mạ già, cấy nhiều dảnh, cấy mau…được thay thế bằng phương
pháp cấy mạ non, cấy 1-2 dảnh, cấy thưa, điều tiết nước hợp lý…
Qua trao đổi, phỏng vấn các hộ nông dân trong nhóm sản xuất giống lúa, trong tổ
TTHTCĐ, các học viên lớp FFS, các tổ chức và các nhân thuộc các ngành, các cấp khác
nhau đều cho ý kiến nhận xét chung là các hoạt động của dự án đều cho kết quả cao,
đặc biệt là hoạt động chọn lọc, phục tráng giống và các lớp FFS.



Các lớp học đồng ruộng (FFS), phát huy vai trò cao nhất trong việc thay
đổi nhận thức về tập quán canh tác của người nông dân, đem lại sự tự tin cho những
“kỹ sư đồng ruộng” là phụ nữ, người nghèo và dân tộc thiểu số.

Có 40 lớp tập huấn cho nông dân, trong đó tỷ lệ tham gia của nam nông dân là
23%, nữ nông dân 77% (chỉ tiêu về tỷ lệ này là 40/60). Trên thực tế, lý do của tình trạng
này là: nam giới thường tham gia khâu cày, bừa và thu hoạch, trong khi nữ giới đảm
nhiệm phần lớn các khâu kỹ thuật chính trong canh tác lúa.1

1

Trao đổi của ông Nguyễn Bá Quân, Chi cục trưởng Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, tỉnh Bắc Kạn
11


- Nam giới:

Có 276 người,

chiếm 23/ %

- Nữ giới:

Có 924 người,

chiếm 77 %

- Số hộ nghèo:


Có 460 hộ,

chiếm 38 %

- Số hộ TB:

Có 744 hộ,

chiếm 62 %

- Dân tộc Kinh: 100 người,

chiếm 8,3 %

- Dân tộc Tày:

873 người,

chiếm 72,8 %

- Dân tộc Dao:

119 người,

chiếm 9,9 %

- Dân tộc Nùng: 103 người,

chiếm 8,6 %


- Dân tộc khác:

5 người, chiếm 0,4 %

Nguồn: Báo cáo tổng kết ba năm thực hiện dự án VM014 – Chi cục TT&BVTV
Bắc Kạn
Các lớp FFS được người nông dân, cả nam lẫn nữ đánh giá cao về phương pháp:
“Lớp học cho nông dân tạo không khí cởi mở, cả lớp được bàn bạc thảo luận, lập kế
hoạch, rút kinh nghiệm”.2 Không chỉ kiến thức, kỹ năng thực hành mà lớp học cung cấp
khiến cho người nông dân trở nên tự tin, trở thành những “chuyên gia trên đồng ruộng”,
mà chính môi trường, bầu không khí của hình thức đào tạo nông dân này tác động rất
nhiều đến những người nông dân rụt rè, ít có cơ hội bày tỏ ý kiến, đặc biệt là những nữ
nông dân. Trong tất cả các buổi thảo luận nhóm, chị em nông dân đều có một quan điểm
đồng nhất về việc tham gia lớp học giúp mình cởi mở, giao lưu và mạnh dạn phát biểu.
Một điều rất thú vị là các chị em nông dân tham gia thảo luận nhóm ở cả ba xã
(Huyền Tụng, Nông Hạ và Tân Tiến) nhìn nhận giống với nhận xét của một thành viên
Ban quản lý dự án là: “Phụ nữ nông dân có thể sẽ bận hơn, song bù lại, họ biết cách sắp
xếp, bố trí thời gian hợp lý, chỉ có một vài buổi ban đầu còn vất vả”3.

Tham gia các hoạt động dự án đem lại năng lực kỹ thuật cũng như năng
lực xã hội cho người nông dân, mà trong đó đa số lại là chị em phụ nữ.
Người nông dân nhắc đến những thuật ngữ như “phục tráng giống”, “chọn dòng
phân ly” một cách tự tin. Có thể thấy được sự tự hào khi quan sát, tiếp xúc với những
người nông dân (cũng chủ yếu là phụ nữ), khi họ nói về hoạt động nghiên cứu giống lúa
như những nhà khoa học.
Có những chị trong quá trình tham gia dự án đã tham gia hoạt động xã hội, đoàn
thể tích cực hơn, trở thành trưởng thôn, chi hội trưởng phụ nữ, nông dân. Nam giới
cũng vậy, chủ tịch xã Mỹ Phương hiện tại cũng xuất phát từ việc tham gia dự án, đã
được nhân dân và chính quyền tín nhiệm4.
Vai trò và sự đóng góp của hai Trung tâm học tập cộng đồng- nên có sự phân tích cụ

thể, chi tiết hơn nữa.
Thảo luận nhóm nông dân xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới
Trao đổi của bà Nguyễn Thị Hồng, Trưởng phòng trồng trọt, Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, tỉnh Bắc Kạn.
4
Trao đổi của bà Nguyễn Thị Hồng, Trưởng phòng trồng trọt, Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, tỉnh Bắc Kạn.
2
3

12


 Vai trò quyết định của người phụ nữ nông dân được nâng cao
Phụ nữ nông dân trực tiếp làm những khâu kỹ thuật, lại được tiếp thu kiến thức,
kỹ thuật nên trở thành người ra quyết định, trước đây nam giới là người quyết định.
Theo nhận định của cán bộ dự án, tâm lý của cả cán bộ khuyến nông lẫn người
nông dân ở Bắc Kạn vẫn theo lối canh tác truyền thống: cấy càng dày, càng tốt, mục
đích là để chắc chắn rằng mất cây nọ thì có cây kia. Tuy nhiên, sau các khóa học, người
nông dân đã chuyển hướng sang cấy lúa theo phương pháp SRI, cấy thưa, chỉ 1, 2 dảnh.
Chính người phụ nữ nông dân đã đã mạnh dạn, tự quyết định cho những thay đổi ấy.
“Có những vụ con dâu đi cấy, mẹ chồng đay nghiến cả một vụ” 5. Tương tự như vậy, có
chị áp dụng SRI, sử dụng rất ít giống, trong khi bố chồng phải dùng đến 20-25 kg thóc
giống cho 2 bung diện tích trồng lúa của gia đình (2000 m2). Ban đầu bố chồng không
tin tưởng, sau đó chị đã thành công và gia đình thay đổi tập quán canh tác.6
Về khía cạnh văn hóa, đặc thù giới ở các dân tộc ít người tại Bắc Kạn được thể
hiện như nhận xét sau: “Phụ nữ là người ít quyền hành trong gia đình cũng như ngoài
xã hội. Tuy nhiên, người Tày Bắc Kạn ít thể hiện quyền gia trưởng của nam giới. Vì thế,
vị trí của phụ nữ tuy không thể hiện thật rõ rệt ra bên ngoài, nhưng có vai trò không
kém vị trí của đàn ông. Người Tày có câu “Mẻ hăng rằng chắng mạc” (vợ năng nổ thì
tổ mới chắc)”7
Có thể thấy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, người nữ nông dân có được vị

thế đáng nể khi thể hiện sự năng nổ, mạnh dạn và quyết đoán trong các công việc mình
đang đảm nhiệm.
Chị Tạ Thị Rinh, dân tộc Tày, phó chủ tịch Hội Nông dân xã Nông Hạ, tham gia
hầu hết các chương trình hoạt động của dự án. Năm 2009, chị tham gia FFS, được
hướng dẫn về SRI trong hơn 3 tháng. Chị cho rằng với nông dân, khóa học rất
phù hợp vì thực sự cầm tay chỉ việc cho người dân. Theo chị, có nhiều lợi ích khi
tham gia dự án về mặt kinh tế-tiết kiệm chi phí, về kiến thức khoa học kỹ thuật,
phụ nữ nông dân dám phát biểu nhờ giao lưu, tuyên truyền; phục vụ mục tiêu xóa
đói giảm nghèo cho dân. Nhà chị có 1600 m2 ruộng, chị dành 600 m2 trồng một
vụ khang dân và màu, còn 1000 m2 canh tác 2 vụ khẩu nua lếch (gạo nếp địa
phương) và khang dân theo kỹ thuật canh tác SRI. Về sự thay đổi của chị em phụ
nữ khi tham gia dự án chị nói “Có nhiều chị em không bao giờ được đi giao lưu,
ít nói, ngại ngùng, nay đã mạnh dạn hơn, hiểu biết hơn và biết trao đổi trong các
cuộc họp. Nếu trước đây cứ khúm núm thì thái độ nay đã thể hiện sự tự tin, bình
đẳng. Tiến bộ này giúp cho những va chạm trong gia đình cũng giảm đi, do chị
em có cách thức ứng xử khéo léo hơn và cũng mạnh mẽ hơn”.
(Phỏng vấn sâu, xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)

Trao đổi của bà Nguyễn Thị Hồng, Trưởng phòng trồng trọt, Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, tỉnh Bắc Kạn.
Thảo luận nhóm nông dân xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới.
7
Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bắc Kạn, 2003, Các dân tộc ở Bắc Kạn.
5
6

13


Tập quán canh tác lúa của người dân đã có sự thay đổi rõ rệt từ chỗ họ phụ thuộc
vào sự hỗ trợ của Nhà nước về cả giống lúa lai và lúa thuần, nay họ đã có thể không chỉ

tự sản xuất cho mình mà còn biết kinh doanh giống lúa.
Người
dân tham gia nhóm đã bày tỏ rằng trước khi tham gia nhóm họ rất quan ngại là
diện tích cấy lúa ít, chỉ đủ thóc ăn cho cả gia đình, nếu bán thì lấy gì mà ăn, trong khi
họ lại không có kinh nghiệm quản lý tiền bán thóc, hoặc tâm lý đổi giống lấy lợi nhuận
trong cộng đồng là không thể được, mặt khác thóc thu được từ việc đổi có chất lượng
khác nhau do đó ban đầu họ rất ngại và dụt dè tham gia. Tuy nhiên, sau 2 năm do lợi
ích bán giống mang lại (giá thóc giống = 1,5 giá thóc thịt) và nhận thức được nâng lên,
họ đã biết sử dụng tiền bán thóc giống để mua thóc thịt ngay từ đầu vụ, hoặc đầu tư vào
chăn nuôi, hoặc có nhiều tiền hơn để cho con đi học
Phỏng vấn nhóm sản xuất giống lúa Huyền Tụng

2.3 Đánh giá tác động về những thay đổi nhìn nhận về vai trò nông dân của chính
quyền, các bên liên quan và thực hiện hệ thống chính sách hỗ trợ hệ thống giống
lúa nông hộ
Với tính phức tạp về địa hình, đất đai của Bắc Kạn đã tạo ra nhiều tiểu vùng sinh
thái khác nhau, và mỗi tiểu vùng có quy mô diện tích nhỏ. Ở điều kiện như vậy, hệ
thống giống lúa Nhà nước khó có thể phù hợp bởi nó yêu cầu nhiều loại giống nhưng
với số lượng rất ít. Trong khi đó hệ thống giống lúa nông hộ là rất phù hợp bởi vì hệ
thống này có quy mô nhỏ, hoạt động rất uyển chuyển, người dân rất hiểu điều kiện sản
xuất của họ, do đó họ có thể chọn và sản xuất các giống lúa phù hợp cho chính họ để
khai thác hiệu quả đất đai ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau.
Dự án đã đóng góp làm thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền về vai trò
của giống lúa. Từ chỗ khuyến khích, ưu tiên, hỗ trợ giống lúa lai nay đã chuyển sang
khuyến khích người dân sử dụng giống lúa thuần địa phương. Chủ trương này đã xóa bỏ
sự bất bình đẳng giữa lúa lai (trợ giá giống lúa lai) và lúa thuần, tạo cơ hội và nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các nhóm nông dân sản xuất giống lúa thuần.
Từ lâu nay việc sản xuất giống lúa nói riêng và giống cây trồng nói chung, các
địa phương thường giao cho trung tâm giống và công ty vật tư nông nghiệp đảm nhận.
Vai trò của nông dân trong lĩnh vực này ít được đề cập và quan tâm. Khi chế độ bao cấp

bị phá vỡ, nền kinh tế thị trường hình thành, đặc biệt là khi Chính phủ xóa bỏ chính
sách trợ giá giống lúa, các cơ quan nói trên không đủ khả năng cung ứng giống cho tất
cả nông dân trong vùng. Nhiều nông dân đã tự để giống và trao đổi giống với nhau,
hình thành nên một mạng lưới sản xuất và cung ứng giống mang tính tự phát theo cơ
chế thị trường. Trong thực tế, người nông dân không chỉ là người sản xuất thuần túy mà
họ còn có khả năng sản xuất ra giống cây theo yêu cầu của xã hội hoặc theo đơn đặt
hàng của các đơn vị kinh doanh.Hoạt động của Dự án về củng cố và phát triển hệ thống
sản xuất giống lúa của nông dân đã tạo cơ hội cho các nhóm nông tiếp cận với kỹ thuật
sản xuất giống lúa, nâng họ lên một tầm cao hơn về kiến thức và kỹ thuật khoa học,
giúp cho họ có thể sản xuất được các giống có chất lượng cao.

14


Từ kết quả hoạt động của các nhóm nông dân sản xuất giống lúa đã gây chú ý
cho các nhà kinh doanh và những người làm chính sách, nhìn nhận về vai trò và năng
lực của nông dân trong lĩnh vực sản xuất giống. Công ty vật tư nông nghiệp, đơn vi kinh
doanh giống đã có những hợp đồng ký kết với nông dân về sản xuất và thu mua lượng
giống do nông dân sản xuất. Các nhà quản lý đã có chính sách khuyến khích nông dân
tham gia vào chương trình sản xuất giống như xác định vùng giống, xác định và công
nhận một số giống do nông dân chọn lọc và phục tráng (đề án chiến lược phát triển
nông nghiệp Bắc kan giai đoạn 5 năm 2010-2015 của bí thư tỉnh)
Nông dân có khả năng thích ứng và chủ động trong việc nắm bắt kỹ thuật để
chọn lọc, phân lập , phục tráng và sản xuất giống lúa cho gia đình và cộng đồng, không
bị phụ thuộc vào chính sách cắt giảm hỗ trợ của Nhà nước khi gia nhập WTO
Các cấp chính quyền, đặc biệt là lãnh đạo ngành nông nghiệp của tỉnh đã nhìn
nhận thấy vai trò của nông dân trong sản xuất giống lúa, đã có một số chủ trương, biện
pháp khuyến khích, hỗ trợ nông dân tham gia sản xuất giống lúa và áp dụng các biện
pháp thâm canh cải tiến. Việc Sở nông nghiệp và PTNT của tỉnh đưa 2 giống lúa do
nông dân chọn lọc vào cơ cấu sản xuất, việc công nhận và tạo điều kiện cho công ty vật

tư ký hợp đồng với nông dân sản xuất giống lúa là một minh chứng cho thành công của
dự án. Hơn thế nữa, Hội đồng nhân dân tỉnh đã có một số kết luận ban đầu về việc đưa
một số giống thuần vào sản xuất, chỉ đạo xây dựng phục tráng giống địa phương và giao
cho Sở nông nghiệp và PTNT hướng dẫn về cơ cấu giống, chủ động sử dụng giống lúa
thuần thay vì các giống lúa lai nhập từ TQ.
Thành công của mô hình sản xuất giống lúa với sự hỗ trợ của các nhà khoa
học/cán bộ kỹ thuật, với sự tham gia của các nhà kinh doanh, sự ủng hộ của chính
quyền cơ sở và sự cam kết thực hiện của nông dân là cơ sở để giúp cho các nhà hoạch
định chính sách đưa ra các chủ trương, chính sách phù hợp, khuyến khích nông dân
tham gia vào mạng lưới sản xuất giống
Tóm lại: Có thể nói đã có sự thay đổi trong nhận thức của các cấp chính quyền
và các bên đối tác về vai trò của nông dân tham gia nghiên cứu và sản xuất giống lúa,
tuy nhiên sự thay đổi này chưa đủ lớn để tạo ra cuộc cách mạng trong hệ thống giống
lúa tại địa phương. Nguyên nhân của sự hạn chế này chính là thiếu sự chỉ đạo chung và
phối hợp giữa các bên. Mặc dầu mối quan hệ này được thể hiện trong văn kiện dự án.
2.4 Đánh giá hiệu quả bền vững của hệ thống giống nông hộ và sự tham gia của
người dân, phụ nữ
 Người nông dân tham gia dự án đánh giá cao lợi ích của hoạt động sản xuất giống
nông hộ
Tất cả các nông dân, khi được hỏi về lợi ích của việc sản xuất giống, đều rất hài
lòng vì đã thu được những kiến thức và kỹ thuật liên quan đến khâu giống, như nhân
giống, so sánh /chọn lọc giống, phục tráng giống.
Việc chủ động về giống đối với người nông dân là một yếu tố cực kỳ quan trọng
trong hoạt động nông nghiệp, xét về mặt kinh tế và tính xã hội. Chi phí mua một cân
15


giống lúa lai có khi lên tới 89.000 đồng/kg. Tự sản xuất lúa giống sẽ giúp người nông
dân giảm chi phí này, hơn nữa giữa các hộ có thể trao đổi giống với nhau, tạo sự đa
dạng, tìm kiếm được những giống phù hợp với từng hộ gia đình. Việc trao đổi giống lúa

cũng góp phần gắn kết cộng đồng, duy trì tình làng, nghĩa xóm.
Nhận thấy giống lúa thuần phù hợp với điều kiện canh tác ở địa phương, lại có
những đặc tính về chất lượng được ưa thích, các nông hộ càng quan tâm đến việc phục
tráng, lưu giữ các giống lúa địa phương, lúa thuần.
Một điều rất quan trọng được bà con nhắc đến là sự chủ động, không phụ thuộc
vào các công ty giống. “Tự có giống cho địa phương, không phải phụ thuộc vào công ty
giống”8.
Chị em nông dân thường đổi công cho nhau trong hoạt động nông nghiệp, vì thế
việc truyền lại những kỹ thuật, kiến thức học được từ dự án cũng được phổ biến trong
cộng đồng chòm xóm thông qua cách này. Thậm chí những người chưa hề được tham
gia các lớp học, lại áp dụng rất hào hứng, tích cực các kỹ thuật canh tác SRI.9
 Người nông dân chủ động, tự tin ứng dụng một cách linh hoạt những kỹ thuật phù
hợp trong canh tác, thể hiện tính bền vững cao nhất.
Tham gia các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm về giống và canh tác, người
nông dân có thể chủ động các khâu trong sản xuất, đầu tư lao động có hiệu quả, đặc biệt
trở thành những nông dân “thông thái”, biết linh hoạt áp dụng kỹ thuật phù hợp với
đồng ruộng. “Chị đã thử nghiệm rồi, ở đây phải cấy ba dảnh mới phù hợp, đủ để không
bị cỏ lấn át…”10
Trường hợp anh Viết ở xã Huyền Tục là sự thể hiện rất rõ ràng sự tự tin và tự chủ
của người nông dân khi đã có kiến thức, kỹ thuật và sự năng động.

Anh Viết có 2.300 m2 đất canh tác lúa, đa phần được sử dụng cho 2 vụ lúa.
Sau một lần tham quan, dự hội thảo về giống lúa anh xin được chục bông lúa
giống thuần loại hạt đỏ. Anh nhân ngay và đến vụ xuân này anh đã dành một
khoảnh ruộng để tiếp tục nhân giống. Các diện tích còn lại anh dành cho lúa lai
và lúa thuần, áp dụng kỹ thuật SRI. Đúng thời gian này, tỉnh có chủ trương thử
nghiệm mô hình gieo xạ ở một số xã, trong đó có Huyền Tụng. Anh Viết đã
được động viên nhiều lần, rồi gần như bị phê bình, nhưng anh vẫn kiên quyết
không áp dụng gieo xạ vì cho rằng kỹ thuật này không phù hợp. Ra thăm đồng
nhà anh, ai cũng có thể nhận thấy lúa khỏe, đẹp ở cả ruộng lúa lai, lẫn khang

dân và lúa hạt đỏ.
(Ghi chép & quan sát, xã Huyền Tụng, huyện Bạch Thông)

Khả năng duy trì bền vững mô hình hệ thống giống lúa nông dân được
thể hiện rõ trong những mong đợi của người dân về việc tiếp tục phát triển các hoạt
động dự án.
Thảo luận nhóm nông dân xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới.
Thảo luận nhóm nông dân xã Tân Tiến, huyện Bạch Thông.
10
Thảo luận nhóm nông dân xã Tân Tiến, huyện Bạch Thông.
8
9

16


Các lớp tập huấn FFS, chuyến tham quan học hỏi tỉnh bạn – nước bạn, tài liệu
truyền thông, hoạt động hội chợ, các cuộc thi thúc đẩy sự háo hức, tìm tòi và sáng tạo
của người nông dân. Chính vì vậy, nhóm nông dân nào cũng thể hiện mong muốn có
thêm nhiều lớp tập huấn để nhiều nông dân được tiếp cận. “Bọn chị muốn nhân nhiều
mô hình trong toàn xã, làm điểm nông thôn mới cho 14/14 thôn, bản” 11
Trong dự án, chỉ có xã Huyền Tụng bước đầu tiếp cận hoạt động phát triển kinh
doanh giống. Cùng với sự tự tin và mơ ước cho một hoạt động quy mô và hiệu quả kinh
tế cao hơn, các nông dân “lành nghề” mong muốn tổ chức thành làng nghề “làm giống
lúa”, xây dựng tổ sản xuất chủ động đầu vào, ra, bao tiêu sản phẩm. 12
Nguyện vọng được tiếp thu thêm các kỹ thuật khác, như gieo xạ, làm phân ủ 13
thể hiện phần nào tác động tích cực của dự án, truyền cảm hứng ham học hỏi, muốn tìm
hiểu của người nông dân, đặc biệt là những nữ nông dân.
Chị Hoàng Thị Tường, 1957, tham gia Bí thư chi bộ thôn Còi Mò nhiệm kỳ
2004-2006. Từ 2007 chị làm trưởng thôn, đồng thời tham gia chi Hội phụ nữ

thôn. Theo chị, chị em không được tiếp cận tập huấn 100% là một thiệt thòi
lớn, mà “tất cả phụ nữ cần được tham gia, tiếp cận khoa học kỹ thuật”. Chị
cũng cho rằng: “Chỉ chia sẻ chưa đủ, bản thân phụ nữ cần có tiếng nói để gia
đình mình vào cuộc, nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên tầm cao”. Chị có kiến
thức vững vàng về canh tác lúa, ứng dụng các kỹ thuật của lớp học nông dân.
Trước dự án, chị cũng đã có cơ hội tham dự tập huấn về “Bảo tồn gen” nên
việc tham gia các hoạt động dự án rất thuận lợi đối với chị. Trong gia đình, chị
là người chủ động trao đổi với các thành viên khác trong gia đình, lập kế hoạch
và cũng là tay hòm chìa khóa. Chị thực hiện cấy khang dân đột biến trên diện
tích 4 bung rưỡi của gia đình. Chị mong muốn: “Tất cả phụ nữ cần được tham
gia tập huấn, tiếp cận khoa học kỹ thuật, vì chia sẻ kiến thức giữa chị em với
nhau chưa đủ”. Chị đề nghị “Các tổ chức xã hội, chi cục Bảo vệ thực vật giúp
cho 100% bà con nông dân được tiếp cận kỹ thuật canh tác SRI và các kỹ
thuật về giống”.
Phỏng vấn sâu, xã Tân Tiến, huyện Bạch Thông

Dự án đã bước đầu xây dựng được mô hình Hệ thống giống nông hộ tại Bắc cạn.
Mô hình này có khả năng bền vững và nhân rộng bởi các lý do sau đây:
-

Tập quán tự để giống lúa đã tồn tại lâu đời trong nhân dân, đặc biệt là người dân
miền núi. Họ có nhiều kinh nghiệm để giống trong dân gian cộng với kiến thức được
học tại các lớp FFS sẽ là cơ sở vững chắc cho việc duy trì và mở rộng hệ thống giống
nông hộ tại Bắc Kạn.

- Sự tham gia nhiệt tình của người dân, đặc biệt là phụ nữ, tại các lớp FFS trong thời

gian thực hiện dự án cũng như nguyện vọng của họ mong muốn được tiếp tục duy trì
Thảo luận nhóm nông dân xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới.
Thảo luận nhóm nông dân xã Nông Hạ, huyện Chợ Mới.

13
nt
11

12

17


mô hình giống nông hộ cho thấy sức sống của mô hình này đã thấm sâu vào tuy duy,
nhận thức, và hành động của người dân trong việc chủ động ra quyết định về giống
cho mình và cộng đồng.
Kết luận
Từ khi xây dựng cho đến giai đoạn thực hiện, Dự án luôn thể hiện rõ cách tiếp
cận dựa vào cộng đồng, huy động sự tham gia chủ động và tích cực của người nông
dân, đối tượng hưởng lợi chính của dự án, đặc biệt chú ý tới tỉ lệ tham gia của nam và
nữ, của các nhóm dân tộc, người nghèo.
Việc thực hiện các chiến lược đề ra, cùng các báo cáo thống kê về tỷ lệ tham gia
của các nhóm khác nhau đã chứng minh những nỗ lực của các bên liên quan nhằm đảm
bảo sự tham gia công bằng, hiệu quả và tích cực của người dân trong toàn bộ tiến trình
dự án.
Các mục tiêu Nâng cao năng lực về sản xuất giống lúa và Cải thiện sinh kế và
kiến thức xã hội của người nông dân, đặc biệt là người nghèo và phụ nữ đã đạt kết quả
mong đợi.
2.5 Khuyến cáo
Khuyến cáo về định hướng và chiến lược hỗ trợ hệ thống giống lúa nông dân ở Bắc Kạn
- Về quan điểm và nhận thức: Với đặc điểm đặc thù của một tỉnh miền núi với nhiều

tiểu vùng sinh thái khác nhau, yêu cầu bộ giống lúa khác nhau, cộng với nhận thức
của người dân còn hạn chế và còn theo hướng sản xuất “tự cấp tự túc” và điều kiện

đầu tư thâm canh còn có hạn chế, phù hợp với việc sử dụng giống lúa thuần địa
phương. Ở điều kiện như vậy, một hệ thống giống lúa Nhà nước không thể thỏa mãn
những yêu cầu “có tính chất địa phương và quy mô nhỏ” như trên. Trong khi đó khai
thác những ưu điểm bền vững của cộng đồng nông thôn, đặc điểm “tự cấp tự túc với
quy mô xã, huyện hay tiểu vùng sinh thái” để tổ chức hệ thống giống cộng đồng là
việc làm khôn ngoan và rất phù hợp, vừa chủ động khai thác thế mạnh của tiểu vùng
sinh thái, vừa nâng cao năng lực cho người dân.
- Kết quả dự án đã minh chứng rằng người nông dân kể cả người nghèo, dân tộc thiểu

số, phụ nữ, họ không chỉ biết sản xuất mà còn có khả năng tham gia nghiên cứu và
sản xuất kinh doanh giống lúa. Tuy nhiên, sự thật này được thông tin đầy đủ đến đội
ngũ cán bộ các cấp các ngành trong tỉnh, do đõ nó chưa phải đã có trong suy nghĩ và
niềm tin của họ để họ có thể ủng hộ xu hướng này. Do vậy cần phải tiếp tục hỗ trợ
một số nhóm/câu lạc bộ mạnh để nhóm không chỉ là “mô hình tồn tại với sự hỗ trợ”
mà trở thành các tổ chức nông dân nghiên cứu và sản xuất giống thực sự, dần dần
tiến tới “hợp tác xã” hay cao hơn là “công ty cổ phần sản xuất giống cộng đồng”
trong qua đó đẩy mạnh tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của cán bộ các cấp.
- Về định hướng: Nên thay đổi tên “Hệ thống giống lúa nông hộ” thành “hệ thống

giống lúa nhóm hộ hay cộng đồng” để nêu bật được yếu tố “tập thể” trong nhóm.
Đồng thời tiếp tục tìm các nhân tố mới (cả cá nhân và nhóm) để bồi dưỡng thêm cho
họ kiến thức quản lý, kinh doanh, thị trường...
18


- Các cơ quan như Sở NN&PTNT và Công ty giống của tỉnh phải vào cuộc, coi các

nhóm này như là “nhân tố mới” và là “cách tiếp cận mới” của Bắc Kạn trong việc
giải quyết vấn đề giống của tỉnh. Đồng thời, xác định diện tích các tiểu vùng sinh thái
với nhu cầu giống tương ứng để quy hoạch vùng sản xuất giống “cấp địa phương/tiểu

vùng sinh thái” và đặt hàng sản xuất với các nhóm này. Trước mắt, hướng các nhóm
tập trung phục tráng các giống lúa thuần bản địa, nếp... và chọn lựa giống lúa thuần
phù hợp ở quy mô xã, huyện, sau đó đến quy mô toàn tỉnh.
- Sở NN&PTNT phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ xây dựng các quy định, quy

trình, quy phạm và các tiêu chuẩn “cấp địa phương” riêng cho tỉnh (không copy quy
định chung của Nhà nước, vì để thỏa mãn các tiêu chuẩn này thì tổ chức cộng đống
không thể thỏa mãn) và ưu tiên cấp kinh phí nghiên cứu cho các nhóm và các đề tài
phục vụ chọn lọc và sản xuất giống theo hướng địa phương và cộng đồng. Kết hợp
ưu tiên đầu tư, Sở NN&PTNT và Công ty giống cử cán bộ và giam nhiệm vụ hỗ trợ
và giám sát chặt chẽ việc tuân thủ quy trình, quy phạm của tỉnh về sản xuất giống.
Khuyến cáo về chính sách và hoạt động hỗ trợ cho hệ thống giống lúa nông dân
- Các kết quả hoạt động của dự án, đặc biệt là nhân tố mới và cách làm mới như các

nhóm nghiên cứu giống lúa ở Trung tâm học tập cộng đồng, nhóm sản xuất giống lúa
nông dân, và mạng lưới 40 câu lạc bộ FFS chưa được lãnh đạo tỉnh, huyện biết đến
nhiều. Dự án cần thực hiện nhiều hơn nữa các hình thức truyền thông để quảng bá kết
quả, đặc biệt là hình thức hội thảo đầu bờ với thành phần tham gia rộng rãi, bao gồm
cả lãnh đạo huyện, tỉnh.
- Cần phải có các báo cáo tổng kết, đánh giá kết quả kịp thời gửi cho các cấp và tới tay
các vị lãnh đạo có thẩm quyền về ban hành chính sách
- Số lượng giống hàng hóa do nông dân sản xuất ra mới chỉ đáp ứng được rất ít so với

yêu cầu. Nông dân có thể sản xuất ra lượng giống nhiều hơn nếu họ thấy có lợi. Để có
nhiều lượng giống hàng hóa cần phải có chính sách cụ thể, đặc biệt là việc quảng bá
thương hiệu, phương thức trao đổi và có đơn vị đứng ra hỗ trợ cho các nhóm này.
- Chưa có chính sách cụ thể về xây dựng mạng lưới sản xuất giống nông hộ. Ngành

nông nghiệp cần có báo cáo đánh giá, tổng kết và có các đề xuất cụ thể để trình lên
UBND tỉnh ban hành chính sách cụ thể về xây dựng, phát triển mạng lưới sản xuất

giống nông hộ, trong đó cần có các hướng dẫn cụ thể như giá giống, hỗ trợ về qui
hoạch, kiến thiết đồng ruộng và các kỹ thuật bảo quản giống.
- Cần có chính sách ưu tiên cao hơn về tỉ lệ quy đổi giống do nông dân sản xuất ra để
kích thích và khuyến khích họ cam kết tuân thủ tiêu chuẩn nghiêm ngặt quy trình sản
xuất giống. Đồng thời đầu tư một số trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, sản xuất và
bảo quản giống cho nhóm theo phương thức “đầu tư có điều kiện” và đầu tư “theo
nhóm” (nghĩa là đưa ra một số tiêu chí cơ bản nếu nhóm đạt được mới đầu tư và
không đầu tư cho cá nhân mà đầu tư theo nhóm cộng đồng).
- Sở nông nghiệp cần sớm qui hoạch các vùng giống và giao cho công ty vật tư nông
nghiệp ký kết hợp đồng với nông dân trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho các bên trong
việc sản xuất và cung ứng giống hàng hóa
19


- Chưa có các hướng dẫn về thẩm định, công nhận các giống do nông dân phục tráng.

Sở nông nghiệp và PTNT cần thành lập hội đồng thẩm định, nghiệm thu các giống do
nông dân phục tráng.
- Hướng dẫn nông dân lập tờ trình về kết quả chọn lọc, phục tráng giống và cấp chứng

chỉ công nhận giống do nông dân chọn lọc.
- Tham gia vào mạng lưới giống quốc gia và mạng lưới vùng còn hạn chế. Sở nông

nghiệp nên tiến hành đăng ký tham gia thành viên trong mạng lưới giống quốc gia và
mạng lưới vùng.
- Tăng cường trao đổi các thông tin, chia sẻ và học hỏi các kinh nghiệm và trao đổi
giống để làm phong phú bộ giống của địa phương
- Tổ chức hệ thống khuyến nông của Bắc Kạn còn nhiều bất cập và lực lượng mỏng.
Tỉnh cần quan tâm khai thác thanh quả của dự án là đã đào tạo được một số lượng lớn
nông dân, trong đó có nhiều thanh niên, phụ nữ trẻ rất năng động. Đội ngũ này nếu

được chọn lọc, bồi dưỡng thêm và sử dụng hợp lý sẽ là nguồn lực vô cùng quý giá
cung cấp nhân lực cho mạng lưới khuyến nông cơ sở từ cấp thôn đến cấp xã và cho cả
cấp huyện.
Khuyến nghị về phương pháp tiếp cận của SRD
- SRD đã có những cơ sở vững chắc và đầy thuyết phục để sử dụng việc phát triển hệ

thống giống lúa nông dân làm phương pháp tiếp cận để nâng cao năng lực của người
dân và vận động chính sách vì mục tiêu phát triển nông thôn bền vững bởi vì cây lúa
là cây trồng quan trọng nhất và giống lúa là mối quan tâm hàng đầu của người dân
cũng như của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
nhìn tổng thể, có sự mất cân đối trong mối quan tâm và cơ cấu hoạt động. Các hoạt
động được ưu tiên nhiều ở cấp cơ sở, trong khi đó các hoạt động thông tin cho các cấp
cao hơn và kết nối giữa các bên đối tác còn hạn chế. Do đó trong bối cảnh Việt Nam
nói chung và nhất là điều kiện một tỉnh miền núi, SRD cần ưu tiên nhiều hơn trong
các hoạt động vận động chính sách, tìm mọi cách thu hút sự tham gia nhiều hơn của
các cấp chính quyền địa phương mới có thể tác động làm thay đổi nhận nhức.
- Bên cạnh mục tiêu nâng cao năng lực, phát triển sinh kế cho người dân, mục tiêu bình
đẳng giới và tăng cường sự tham gia của các nhóm dễ bị tổn thương đã được đặt ra.
Tuy nhiên, để phát huy tác động của việc tăng cường năng lực và tạo quyền năng cho
phụ nữ, nên có chiến lược cung cấp lồng ghép kiến thức về sức khỏe sinh sản, đặc biệt
trong môi trường sản xuất nông nghiệp khi người nông dân, mà đa số là nữ tiếp xúc
trực tiếp với nguồn nước ô nhiễm, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón.
- Những kiến thức về bình đẳng giới (cả khía cạnh pháp luật và thực tế) cũng như kiến
thức về sức khỏe sinh sản rất cần được đưa đến người nông dân trong các hoạt động
lồng ghép với các sinh hoạt cộng đồng, hoạt động văn hóa, hoặc đưa vào lịch hoạt
động của các tổ, nhóm, câu lạc bộ nông dân. Để làm được điều này cần hỗ trợ nữ và
nam nông dân kỹ năng tổ chức nhóm, làm việc theo nhóm để chủ động xác định
những nhu cầu thực tế trong cộng đồng mình.
- Tỷ lệ nữ nông dân tham gia nhiều trong các hoạt động của dự án thể hiện rõ thực trạng
về lực lượng lao động trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, nên cũng không cần chú ý

20


đến tăng tỷ lệ nam nông dân, song lại cần chú ý để nâng cao năng lực và tạo điều kiện
để phụ nữ tham gia vị trí quản lý, phụ trách các nhóm, tổ, hợp tác xã nông dân và cao
hơn nữa.
- Quan điểm của Ban quản lý dự án về sự tham gia giám sát, kiểm tra chéo của nông

dân trong hoạt động dự án là “Tổ chức phức tạp, nông dân đi lại khó khăn, nên cắt, để
cán bộ tốt hơn vì được đi học”14 là một thách thức lớn đối với tiếp cận dựa vào sự
tham gia của cộng đồng. Những bài học về sự tham gia của người dân trong dự án cần
được rút ra với sự nhìn nhận của cả hai phía quản lý dự án (cơ quan nhà nước) và
người nông dân. SRD nên chú ý hơn trong việc nâng cao nhận thức về sự tham gia
của người dân cho đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện dự án cũng như cho người
nông dân.
- Bên cạnh việc nâng cao năng lực phát triển hệ thống giống lúa nông hộ, nên tìm hiểu
những nhu cầu và điều kiện phát triển sinh kế của các địa phương khác nhau để có
những thông tin phổ biến và hỗ trợ bổ sung, làm động lực thúc đẩy và gắn kết của
cộng đồng với nhiều bên tham gia. Đã có một số ý kiến từ người nông dân tham gia
dự án muốn có thêm kiến thức, kỹ thuật liên quan đến cây ăn quả, kỹ thuật canh tác
khác, phân ủ. Việc có sẵn thông tin giới thiệu, tạo cơ hội cho người nông dân lựa chọn
và tự tìm đến với những mô hình và chủ động thực hiện là yếu tố thúc đẩy cho sự bền
vững của dự án.
- SRD đã thực hiện rất tốt các hoạt động vận động chính sách, nâng cao năng lực vận
động chính sách cho đối tác cấp tỉnh, nên cũng có thể chú ý thêm đến việc nâng cao
năng lực vận động chính sách cho các đối tác cấp thấp hơn, đặc biệt là chính người
nông dân, những người không có mấy cơ hội phát biểu ý kiến.
- Các chương trình phát triển hệ thống lúa nông hộ của SRD đã tạo nên tác động của dự
án ở khía cạnh “nông dân không bị phụ thuộc vào các công ty giống”, cũng nên hướng
tới một tác động khó khăn hơn “nông dân không bị phụ thuộc vào các công ty thuốc

bảo vệ thực vật”.
Các phụ lục kèm theo
Kiến nghị định hướng tiếp theo của các lớp FFS và hai trung tâm HTCĐ: nên làm gì, như thế
nào và hướng can thiệp hỗ trợ tiếp theo

14

Trao đổi của ông Nguyễn Bá Quân, Chi cục trưởng Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật, tỉnh Bắc Kạn.
21



×