Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.88 KB, 107 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
Đảng cộng sản Việt Nam
Doanh nghiệp nông nghiệp
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - xã hội
Kinh tế thị trường
Lực lượng sản xuất
Tổng sản phẩm quốc nội
Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CNH, HĐH


ĐCSVN
DNNN
HĐND
KT-XH
KTTT
LLSX
GDP
QHSX
QHSXXHCN
UBND
XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH

Trang
3

NGHIỆP NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
1.1.

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Những vấn đề chung về doanh nghiệp nông nghiệp

1.2.

Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát


13
13

triển doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội
Chương 2: THỰC

TRẠNG

PHÁT

TRIỂN

DOANH

26

NGHIỆP NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
2.1.

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Thành tựu, hạn chế trong phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.2.

38

38


Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề
đặt ra từ thực trạng phát triển doanh nghiệp nông

nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT

57

TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN
3.1.

TỚI
Quan điểm đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.2.

66

66

Giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


78
95
97
101

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và là thủ đô của cả nước có vị
trí địa lý thuận lợi, có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển nông nghiệp hàng
hóa. Nông nghiệp Hà Nội sẽ phát triển theo hướng CNH, HĐH. Nông nghiệp vẫn
là ngành sản xuất quan trọng bảo đảm nhu cầu lương thực cơ bản của Nhân dân
Thủ đô góp phần ổn định và thúc đẩy KT - XH phát triển. Trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển nông nghiệp ở Hà Nội đòi
hỏi sự tham gia của nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của nhiều thành
phần kinh tế trong đó có DNNN.
Doanh nghiệp Hà Nội ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển
nông nghiệp hàng hóa nói riêng và phát triển KT - XH của Thành phố nói chung.
Thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là
Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp, khuyến khích đẩy mạnh phát triển DNNN; khuyến khích cá nhân, tổ chức
và mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ hỗ trợ đầu vào và đầu ra cho sản
xuất nông nghiệp; áp dụng cơ chế, chính sách phù hợp với cơ chế thị trường; đa
dạng hoá và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển DNNN; đầu
tư, ưu đãi ngày càng nhiều hơn cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp. Nhiều loại hình DNNN đã đi vào hoạt động như: doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh vật tư, máy móc nông nghiệp; doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh phân bón, thức ăn chăn nuôi và thuốc bảo vệ thực vật; doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi; doanh nghiệp thu mua và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp; doanh nghiệp tổng hợp phục vụ nông nghiệp.v.v...
DNNN trực tiếp góp phần cung ứng và nâng cao chất lượng đầu vào và
thu mua, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng và giúp nông dân nâng cao vị thế
của mình trong sản xuất, kinh doanh; đồng thời, tạo việc làm, tăng thu nhập,
3


xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội, xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn Thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong
thời gian qua, DNNN trên địa bàn Thành phố còn kém phát triển, chưa đáp
ứng yêu cầu của phát triển sản xuất và dịch vụ nông nghiệp. Năng lực sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và chất lượng của DNNN còn thấp; khung khổ pháp
lý chưa hoàn thiện, thị trường dịch vụ nông nghiệp còn sơ khai, tự phát, manh
mún, mức độ độc quyền còn cao, nhất là dịch vụ đầu ra cho sản phẩm nông
nghiệp. Phần lớn các DNNN trình độ công nghệ lạc hậu, tay nghề công nhân
thấp, do vậy chất lượng sản phẩm, hàng hóa dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu,
chi phí giá thành cao, đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với
yêu cầu phát triển. Bên cạnh yếu kém về chất lượng sản phẩm hàng hóa thì
việc thiếu hụt về công nghệ thông tin và khả năng ngoại ngữ của người lao
động cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến DNNN chưa thật sự có đủ sức
mạnh cạnh tranh trước yêu cầu của hội nhập. Nguyên nhân của tình trạng này
là do nhận thức của Nhân dân nhất là các DNNN chưa thật đầy đủ về sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp. Các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp còn
thiếu vốn, thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ,
trình độ quản lý thấp, lạc hậu, đặc biệt còn tiềm ẩn nhiều rủi ro,…
Để ngành nông nghiệp từng bước trở thành lĩnh vực kinh doanh thu
hút nhiều doanh nghiệp tham gia; khung khổ pháp lý cho lĩnh vực này ngày
càng hoàn thiện; tiếp tục thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa Hà Nội phát triển,

một trong những vấn đề cần quan tâm giải quyết là phát triển DNNN. Xuất
phát từ lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển DNNN là vấn đề rất quan trọng đối với sự phát triển KT XH của đất nước nói chung; nông nghiệp hàng hóa nói riêng nên trong thời
gian qua vấn đề phát triển DNNN được nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều tác
4


giả quan tâm nghiên cứu, trong đó nổi lên một số công trình khoa học tiêu
biểu liên quan là:
* Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp nói chung
Đặng Kim Sơn (2008),“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam
- Hôm nay và mai sau”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong công trình
nghiên cứu này, tác giả Đặng Kim Sơn đã đề cập đến phát triển nông nghiệp
hàng hóa theo hướng bền vững dưới góc độ an ninh lương thực quốc gia và
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, trong đó có đề cập đến phát
triển DNNN.
Đặng Kim Sơn (2012), “Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng
giá trị tăng cao”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả đã làm
rõ những đóng góp của nông nghiệp Việt Nam trong quá trình đổi mới và công
nghiệp hóa thời gian qua, kinh nghiệm của quốc tế về phát triển nông nghiệp giá trị
cao và một số mô hình tổ chức sản xuất thành công trong nước; chỉ ra những thách
thức, khó khăn của nông nghiệp Việt Nam hiện tại và tương lai. Trên cơ sở đó đề
xuất quan điểm, định hướng, nội dung tái cấu trúc ngành, vùng trong nông nghiệp
nhằm nâng cao giá trị gia tăng và các giải pháp chiến lược.
Nguyễn Thị Yến (2012), “Phát triển nông nghiệp, nông thôn với giảm
nghèo ở tỉnh Thái Nguyên”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả của luận án chỉ rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn vai trò của sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn là

nhằm nâng cao đời sống và giảm nghèo ở nông thôn; từ đó đề ra các quan
điểm, giải pháp nhằm phát triển nông thôn để giảm nghèo ở Thái Nguyên và
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Đồng Thị Hạnh (2012), “Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng
Nai”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả luận văn
đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế nông nghiệp nói
chung, vị trí vai trò của phát triển kinh tế nông nghiệp ở Đồng Nai nói riêng;
5


nội dung, thực trạng kinh tế nông nghiệp, các nhóm nhân tố tác động đến kinh
tế nông nghiệp. Từ đó, tác giả đưa ra các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai.
Đỗ Kim Chung và Kim Thị Dung, "Nông nghiệp Việt Nam, những
thách thức và một số định hướng cho phát triển bền vững", Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, số 196 (10/2013). Tác giả đã tập trung luận giải một số thành tựu
và thách thức đặt ra cho nước ta khi tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn. Từ đó, các tác giả đưa ra những quan điểm và định hướng cho phát triển
nông nghiệp bền vững, đáng chú ý trong định hướng phát triển các tác giả
nhấn mạnh đến chiến lược quy hoạch nông nghiệp dài hạn, bảo tồn quỹ đất
nông nghiệp; tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và thu hút mạnh hơn đầu tư
của toàn xã hội vào nông nghiệp, nông thôn; gắn phát triển nông nghiệp với
bảo vệ môi trường sinh thái trong tương lai.
Võ Văn Đức,“Một số giải pháp phát triển thị trường nông thôn góp phần
với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
4/2013. Tác giả khẳng định, có nhiều nhân tố tác động đến thị trường nông thôn
hiện nay và để phát triển thị trường nông thôn đòi hỏi sự tham gia đồng hành vào
cuộc của nhiều lực lượng, nhiều thành phần kinh tế và nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh trong đó có vai trò quan trọng của DNNN.
Trần Hữu Hiệp, "Tái cơ cấu nông nghiệp - nhìn từ vựa lúa quốc gia",
Tạp chí Cộng sản, số 98 (2 - 2015). Theo tác giả vấn đề tái cơ cấu ngành nông

nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long rất cần được xem xét từ thực trạng,
những lợi thế so sánh, nhu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp
trên cơ sở liên kết vùng, từ đó định ra các khuyến nghị chính sách và đề xuất
phương hướng, giải pháp thực hiện.
* Nghiên cứu về các loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong
nông nghiệp
Chu Văn Vũ (1995),“Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam”, Nxb
6


KHXH, Hà Nội. Đề tài đã trình bầy hệ thống lý luận cơ bản về kinh tế hộ,
khái quát bức tranh toàn cảnh về kinh tế hộ ở nông thôn, tập trung làm rõ
những hạn chế, bất cập trong quá trình phát triển của kinh tế hộ. Đồng thời,
chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển của kinh tế hộ trong
tương lai. Trong đó, đề cập mục tiêu phát triển kinh tế hộ thành DNNN.
Vũ Thị Ngọc Hân (1997),“Phát triển kinh tế nông hộ sản xuất hàng
hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng”, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Đề tài đã
phác họa bức tranh toàn cảnh về kinh tế nông hộ sản xuất hàng hóa ở vùng
đồng bằng sông Hồng, chỉ ra thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu,
hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất phương hướng, mục tiêu và một hệ
thống giải pháp mang tính khả thi cao để phát triển kinh tế nông hộ sản xuất
hàng hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng trong tương lai.
Nguyễn Quý Thọ (2011),“Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở
tỉnh Gia Lai”, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế phát triển, Đại học Đà
Nẵng. Luận văn đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn. Đồng
thời, đề ra những chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông
sản của tỉnh Gia Lai theo yêu cầu bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hồ Quý Hậu (2011),“Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến
nông sản với nông dân ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản

lý, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Đề tài trình bày một cách hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản về liên kết giữa DNNN với sự phát triển của kinh
tế hộ; khảo sát thực trạng liên kết giữa DNNN với sự phát triển của kinh tế hộ
nông nghiệp ở Việt Nam; đánh giá thành tựu và hạn chế, tìm ra nguyên nhân
trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển.
Nguyễn Thị Minh Phượng (2012),“Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản ở tỉnh Nghệ An” Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Nội. Đề tài trình bày một cách khá cụ
7


thể, hệ thống những lý luận cơ bản về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của
DNNN trong sản xuất và chế biến nông sản; khảo sát thực trạng, đánh giá thành
tựu hạn chế, chỉ ra nguyên nhân, phát hiện những mâu thuẫn cần được giải quyết,
xác định phương hướng cơ bản đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục
phát triển năng lực cạnh tranh của DNNN.
* Nghiên cứu về doanh nghiệp nông nghiệp ở thành phố Hà Nội
Quyền Đình Hà (2011),“Nâng cao năng lực quản lý cho lãnh đạo các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành nông nghiệp Thành phố Hà Nội”, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ thực trạng năng lực quản
lý của lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành nông nghiệp thành phố Hà Nội
có tác động mạnh đến kết quả sản xuất, kinh doanh của DNNN, chỉ ra mạnh, yếu
và đề xuất các giải pháp khắc phục.
Phạm Tiến Dũng (2012),“Thực trạng mối liên kết bốn nhà trong sản
xuất và tiêu thụ lúa chất lượng cao ở Thành phố Hà Nội”, Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội. Trong công trình này, tác giả đã khái quát bức tranh tổng thể về lợi
ích và mối quan hệ giữa nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ lúa chất lượng cao ở Thành phố Hà Nội; chỉ
ra những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân của thành tựu, hạn chế.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất phương hướng và các giải pháp khắc phục.

Đỗ Kim Chung (2013),“Nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh
nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Hà Nội”, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội. Trong công trình này, tác giả trình bầy hệ thống môi trường đầu tư. Đó
là, môi trường kinh tế, môi trường kỹ thuật, môi trường pháp lý, môi trường
chính trị - xã hội Btác động đến hoạt động của DNNN, chỉ rõ những hạn chế,
bất cập đang là rào cản trên con đường phát triển của DNNN. Từ đó, đề xuất
với Đảng, Nhà nước và Thành phố Hà Nội hệ thống giải pháp khắc phục
những rào cản đó.

8


Phạm Thị Ngọc Lan (2015), “Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu
gạo của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Lương thực thực phẩm Hà Nội”,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện nông nghiệp Hà Nội. Đề tài đã trình bầy cơ
sở lý luận và thực tiễn về thị trường xuất khẩu gạo của Công ty Cổ phần xuất
nhập khẩu Lương thực thực phẩm Hà Nội; chỉ ra thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và giải pháp trong thời
gian tiếp theo.
Đinh Thị Thu Hương (2015), “Nghiªu cøu thÞ trêng tiªu thô
n«ng s¶n chÕ biÕn cña C«ng ty Cổ phần thùc phÈm Minh D¬ng
- Hoµi §øc - Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện nông nghiệp Hà
Nội. Đề tài đã đi sâu phân tích, làm rõ khái niệm, quan niệm về thị trường, vai
trò và các nhân tố tác động đến thị trường; thực trạng thị trường tiªu thô
n«ng s¶n chÕ biÕn cña C«ng ty Cổ phần thùc phÈm Minh D¬ng
- Hoµi §øc - Hà Nội hiện nay, những thành tựu và hạn chế của Công ty
trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và đề xuất phương hướng hoạt động
trong thời gian tới.
Mai Thanh Cúc, “Vai trò của doanh nghiệp trong phát triển thương hiệu
hoa Tây Tựu, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội”, Tạp chí nông thôn mới,

số 352/2014. Tác giả khẳng định, để phát triển thương hiệu hoa Tây Tựu, xã
Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội hiện nay cần sự hỗ trợ của nhiều lực lượng.
Song, quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng và quảng bá được hình ảnh
thông qua vai trò của DNNN. Vì vậy, tác giả đã đề xuất một hệ thống giải
pháp phát triển DNNN.
Nội dung các bài viết trên đã đề cập và luận giải ở những góc độ khác
nhau về sự cần thiết, những thành tựu và hạn chế, một số vấn đề đặt ra cho phát
triển nông nghiệp nói chung, doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp nói riêng
theo hướng chất lượng, hiệu quả, bền vững và hiện đại trong điều kiện nền kinh
tế đang CNH, HĐH, mở cửa và hội nhập quốc tế. Sự đóng góp khoa học của các
9


công trình, các bài viết trên vào sự phát triển nông nghiệp Việt Nam là rất hữu
ích. Song, trước những biến đổi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và những vấn đề mới đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và tổng quát về DNNN, bảo
đảm sự phát triển đúng định hướng XHCN, phục vụ có hiệu quả CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh. Tuy
nhiên, ở phạm vi địa phương, theo nhận biết của tác giả, đến nay chưa có đề tài,
công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề DNNN trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở thành phố Hà Nội dưới dạng một luận văn khoa học kinh tế
chính trị. Để thực hiện đề tài này, tác giả có lựa chọn và kế thừa một số kết quả
nghiên cứu đã được công bố, kết hợp khảo sát thực tiễn phát triển DNNN thành
phố Hà Nội trong những năm qua để phân tích, từ đó đề xuất các giải pháp phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương trên cơ sở đường lối, quan điểm, chủ
trương, chính sách phát triển KT - XH của Đảng, Nhà nước và của Thành phố Hà
Nội. Do đó, đề tài tác giả lựa chọn không trùng lắp với các công trình nghiên
cứu khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích:
Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển DNNN, trên cơ
sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển DNNN trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về phát triển DNNN: Quan niệm, nội dung, đặc
điểm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển DNNN trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội thời
gian qua.

10


- Đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển DNNN trên địa
bàn thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng:
Phát triển DNNN dưới góc độ kinh tế chính trị học Mác – Lênin.
Phạm vi:
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển DNNN trong
phân ngành trồng trọt; chăn nuôi; thủy sản thuộc ngành nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Về không gian: Phát triển DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu khảo sát số liệu,
tư liệu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại

hội đại biểu Đảng bộ và của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội về
phát triển DNNN và kế thừa kết quả các công trình khoa học đã công bố, tư
liệu, tài liệu của các cơ quan chức năng có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Quá trình làm luận văn, tác giả điều tra, khảo sát nghiên cứu, lấy số liệu
tại địa phương làm tư liệu cho luận văn. Chủ động làm việc với UBND các
cấp, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thành phố Hà Nội lấy tư liệu
cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu, bao gồm: Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị Mác 11


Lênin (phương pháp trừu tượng hóa khoa học), cùng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá và phương pháp
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài được thực hiện thành công góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học
cho việc phát triển DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu khoa học, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin ở các nhà
trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

12



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về doanh nghiệp nông nghiệp
1.1.1. Doanh nghiệp và Doanh nghiệp nông nghiệp
* Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một phạm trù đa nghĩa, vì thế nói đến doanh nghiệp có
nhiều cách hiểu khác nhau dựa trên những tiêu chí khác nhau. Theo kinh tế học
vi mô, “Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu
cầu thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
cao nhất”[29, tr.17].
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý: Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp, ban hành ngày 29 tháng 1 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về
doanh nghiệp như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh”[36, tr.113].
Luật Doanh nghiệp bổ xung, sửa đổi năm 2014 khẳng định: Doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh. Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động
kinh tế theo một kế hoạch nhất định nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Hiện nay, khái niệm phổ biến nhất về doanh nghiệp được hiểu là đơn vị
kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân, được tổ chức theo pháp luật có nhiệm vụ
sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của thị trường nhằm
thu lợi nhuận tối đa.
* Doanh nghiệp nông nghiệp
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tiếp cận dưới góc độ quản lý kinh tế
nông nghiệp có thể hiểu: Trong nền kinh tế thị trường, DNNN là đơn vị sản xuất


13


kinh doanh cơ sở trong nông nghiệp để khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu
tố, các điều kiện tự nhiên của sản xuất nông nghiệp nhằm sản xuất ra nông sản
hàng hóa và thực hiện dịch vụ theo yêu cầu của xã hội đảm bảo có lãi và lấy đó
làm hoạt động chính.
Ngoài ra, còn có một định nghĩa bao quát được toàn bộ các lĩnh vực
hoạt động của các DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế tham gia vào
sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, tham gia toàn bộ vào thị trường đầu vào
và đầu ra, được tổ chức và hoạt động phù hợp với Luật Doanh nghiệp mà
Nhà nước ban hành. Khác với các nông hộ, trang trại, doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở đăng ký kinh doanh, được tổ chức theo quy định của Luật
Doanh nghiệp. Doanh nghiệp tham gia toàn bộ vào thị trường đầu vào và
đầu ra. Doanh nghiệp nông nghiệp có thể thuộc loại hình sở hữu tư nhân, Nhà
nước, tập thể hoặc có vốn đầu tư nước ngoài.
Tùy theo tính chất tổ chức của doanh nghiệp mà còn có các tên
gọi khác nhau như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty liên doanh.
Như vậy có thể hiểu: DNNN là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở,
tức là tế bào của nền kinh tế quốc dân; vừa là chiếc cầu nối liền giữa các
khoa học, vừa là nơi thực hiện - áp dụng những thành tựu khoa học về tự
nhiên, kinh tế, xã hội và kỹ thuật nông nghiệp để đạt được các mục tiêu về
sản xuất nông sản hàng hóa và dịch vụ cho xã hội, theo yêu cầu của thị
trường, đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và góp
phần phát triển tốt môi trường sinh thái cho sự sống.
DNNN là một đơn vị hoạt động sản xuất, kinh doanh và phân phối, tức
là nơi sáng tạo ra của cải vật chất và dịch vụ, đồng thời là nơi phân phối giá
trị của cải và dịch vụ cho các thành viên tương ứng với sự đóng góp sáng tạo
ra của cải, dịch vụ. Là một đơn vị hoạt động sản xuất, DNNN hướng vào sử

dụng các nguồn lực tự nhiên như đất, nước, khí hậu, vốn, lao động, công
14


nghệ và tư liệu sản xuất mua vào từ những thị trường khác nhau tạo ra các
nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường, tức là biến đổi đầu vào thành sản
phẩm đầu ra, sao cho có giá trị gia tăng, có lợi nhuận.
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể khẳng định: DNNN là
một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thu lợi nhuận và thúc đẩy nông nghiệp
hàng hóa phát triển.
DNNN là loại hình doanh nghiệp hoạt động lao động mang tính xã hội,
tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tồn tại dưới hình thái vật thể hoặc phi
vật thể nhằm thoả mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt
của con người. DNNN là một loại hình doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ trong nông nghiệp chuyên cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra
cho sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Nhằm mục đích nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của
hộ gia đình và xã hội.
Từ sự phân tích trên ta nhận thấy DNNN tham gia trong tất cả 4 khâu
của quá trình tái sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp: Sản xuất, phân phối,
trao đổi và tiêu dùng. Bên cạnh đó, DNNN bao gồm cả các yếu tố của LLSX
và QHSX trước hết là giữa các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
trong lĩnh vực nông nghiệp với các chủ thể sản xuất nông nghiệp và giữa các
chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông nghiệp.
* Phân loại doanh nghiệp: Phân loại doanh nghiệp theo ngành, nghề;
phân loại doanh nghiệp theo quy mô; phân loại doanh nghiệp theo tính chất sở
hữu; phân loại theo trách nhiệm pháp lý của chủ doanh nghiệp (công ty đối
nhân, công ty đối vốn, công ty cổ phần); các hình thức tổ chức doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật ở nước ta hiện nay (doanh nghiệp nhà nước, hợp

tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
doanh nghiệp liên doanh, nhóm công ty, công ty hợp danh và doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài).

15


Các loại hình DNNN bao gồm: Doanh nghiệp tham gia sản xuất và
kinh doanh vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp; doanh nghiệp
tham gia sản xuất và kinh doanh phân bón, thức ăn chăn nuôi và thuốc bảo
vệ thực vật; doanh nghiệp tham gia sản xuất và kinh doanh giống cây trồng,
vật nuôi...; doanh nghiệp tham gia sản xuất và kinh doanh dịch vụ nông
nghiệp tổng hợp; doanh nghiệp tham gia thu mua, chế biến và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp,…
* Đặc điểm của doanh nghiệp nông nghiệp
Một là,DNNN là những doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trên địa bàn
nông thôn, gắn với mùa vụ, bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên và yêu cầu vệ sinh
an toàn thực phẩm
Với gần 93 triệu dân trong đó có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn,
trong đó gần 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Bởi vậy,
hoạt động của các ngành sản xuất phụ và sản xuất bổ trợ nói chung, DNNN
nói riêng hậu thuẫn, hỗ trợ cho các hoạt động của nông dân và lĩnh vực nông
nghiệp diễn ra chủ yếu trên địa bàn nông thôn. Có thể khẳng định rằng, đây là
thị trường đầy tiềm năng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nói chung, DNNN nói riêng cả trong hiện tại và tương lai. Các DNNN
có thể có trụ sở giao dịch ở thành phố, thị xã, các khu công nghiệp,… Song,
hoạt động của các trụ sở này luôn hướng về nông thôn và lấy nông dân là đối
tượng phục vụ.
Đồng thời, nông thôn là địa bàn sinh sống và hoạt động chủ yếu của
nông dân. Trong đó, diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong

các phân ngành cụ thể: Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Thực tiễn chứng minh
rằng, hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản gắn liền với sản xuất mùa vụ.
Vì vậy, đi cùng với quá trình phát sinh, phát triển của các hình thức này là quá
trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Cụ
thể là, phát triển về số lượng, chất lượng, cơ cấu của từng loại hình sản xuất,
16


kinh doanh, dịch vụ. Do vậy, quá trình phát phát triển của DNNN cũng gắn
với mùa vụ.
Bên cạnh đó, phát triển DNNN có mối quan hệ với điều kiện tự nhiên
chi phối phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trên thực tiễn, đối tượng sản xuất
nông nghiệp là sinh vật. Đó là những cây trồng, vật nuôi mà chính bản thân
chúng đã là các yếu tố hoàn toàn tự nhiên, là một bộ phận quan trọng của
môi trường tự nhiên, cho nên quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng
tuân theo những quy luật tự nhiên riêng của mỗi loài và quá trình đó không
thể tách rời các điều kiện tự nhiên. Do đó sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông
nghiệp có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc rất nhiều vào môi trường tự nhiên,
trong đó đặc biệt là thời tiết, khí hậu, nguồn nước và thổ nhưỡng... là những
điều kiện, các yếu tố tự nhiên có tác động ảnh hưởng nhiều nhất, trực tiếp và
rõ rệt nhất, thậm chí có thể quyết định đến sự phân bố và quá trình phát triển
của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, phát triển DNNN Hà Nội luôn phải bám
sát các điều kiện tự nhiên chi phối để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông
nghiệp giúp cho quá trình sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao.
Hơn nữa, đối tượng của DNNN là nông nghiệp, nông dân mà sản phẩm
của nông nghiệp hoàn toàn là tự nhiên bị chi phối chủ yếu bởi điều kiện thời
tiết, khí hậu, nguồn nước và thổ nhưỡng,… Do vậy, nông phẩm rất rễ bị
xuống cấp nếu không tuân theo quy trình nghiêm ngặt của sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ khép kín trên cơ sở các tiêu chuẩn chất lượng của ISO 9001
năm 2015; ISO 22000; Vietgap; Luật an toàn thực phẩm số 55/2010 /QH12

ngày 17/06/2010 mà Quốc hội đã thông qua dẫn đến mất vệ sinh an toàn
thực phẩm gây hậu quả nghiêm trọng đến phát triển kinh tế, xã hội nói
chung, nông nghiệp hàng hóa nói riêng. Vì vậy, quá trình phát triển của
DNNN phải tuân theo và gắn chặt với yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hai là, các DNNN chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phục vụ cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và
kinh tế nông thôn

17


Hiện nước ta có gần 9.000 doanh nghiệp nông nghiệp đang hoạt động
sản xuất kinh doanh, chiếm 3,5% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc. Trên
98% số DNNN là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số lao động bình quân làm
việc trong một DNNN là trên 40 người. Trên 90% số DNNN có vốn dưới 10
tỷ đồng; 6,5% số doanh nghiệp có vốn từ 10 đến 50 tỷ đồng và trên 1% số
doanh nghiệp có mức vốn trên 200 tỷ đồng. Vốn sản xuất kinh doanh tính
bình quân cho 1 lao động trong các DNNN là 200 triệu đồng, bằng gần 1/4 số
vốn bình quân cho 1 lao động trong các doanh nghiệp của tất cả các ngành
kinh tế”[29, tr.3]. Thông qua mức đầu tư vốn tại các DNNN cho thấy, quy mô
sản xuất của các DNNN còn ở mức nhỏ bé so với nhu cầu thực tế và so với
doanh nghiệp các ngành kinh tế khác. Như vậy, có thể khẳng định rằng
DNNN chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào kinh doanh
các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và kinh
tế nông thôn. Với quy mô vốn nhỏ sẽ rất khó khăn trong việc mở rộng phát
triển sản xuất kinh doanh và thị trường. Do vậy, những điểm nghẽn, lực cản
và bài toán cần tháo gỡ ngay hiện nay để DNNN phát triển đó là đất đai, vốn
và thị trường.
Ba là, so với doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ kinh doanh cùng loại
sản phẩm, doanh nghiệp nông nghiệp có chi phí khởi tạo doanh nghiệp và kinh

doanh cao hơn
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn vốn là đối tượng yếu thế dễ bị
tổn thương trong xã hội và ít được quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp.
Bởi, đây là thị trường phải đầu tư vốn lớn, lợi nhuận thấp, với thời gian dài,
khả năng thu hồi vốn chậm và đặc biệt còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khi mà
sản phẩm nông nghiệp chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường và điều kiện
thời tiết, khí hậu. Thực tiễn chứng minh rằng, thị trường và đối tượng phục
vụ của DNNN là nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Cụ thể là những địa
bàn thuộc các địa phương, vùng, miền còn gặp rất nhiều khó khăn và kém
18


phát triển cả về kinh tế, văn hóa, xã hội; hạ tầng giao thông, năng lượng, bưu
chính viễn thông, giáo dục, y tế,… chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của
thực tiễn đang đặt ra. Vì vậy, khi DNNN đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ bao giờ cũng có chi phí khởi tạo doanh nghiệp cao hơn so với
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ kinh doanh cùng loại sản phẩm trên
địa bàn thành phố, thị xã,…Vấn đề đặt ra ở đây, là phải giảm bớt chi phí khởi
tạo cho DNNN để góp phần giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh của DNNN làm cơ sở, tiền đề thúc đẩy nông nghiệp hàng
hóa lớn phát triển và xây dựng nông thôn mới trong quá trình CNH, HĐH
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN mở cửa, hội
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Bốn là, hoạt động của DNNN gắn với xu hướng liên kết không gian
kinh tế vùng và hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay đòi hỏi từng địa phương, các ngành, các thành
phần kinh tế và mỗi vùng, miền phải huy động, khai thác và sử dụng một cách
hiệu quả nhất các nguồn lực (Vốn, Lao động, Công nghệ - kĩ thuật, Các nguồn
tài nguyên) đồng thời tranh thủ ngoại lực để tận dụng thời cơ, vượt qua thách

thức, biến sức mạnh ngoại lực thành năng lực nội sinh của chính mình. Trên
cơ sở đó, không ngừng mở rộng tái sản xuất để phát triển cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cả trước mắt và
lâu dài. Vì vậy, việc liên kết không gian kinh tế để phát triển là một tất yếu
khách quan của các chủ thể kinh tế nói chung, DNNN nói riêng.
Bên cạnh đó, để tồn tại và phát triển một cách bền vững trong nền kinh
tế thị trường hiện đại thì việc tận dụng lợi thế so sánh của các nền kinh tế trên
thế giới để huy động vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công
nghệ - kĩ thuật, nâng cao năng lực quản trị, mở rộng thị trường,…là một đòi
hỏi tất yếu theo đúng các quy luật vận động của kinh tế thị trường. Hiện nay,
19


trước xu hướng và yêu cầu cấp bách của hội nhập kinh tế quốc tế đối với từng
quốc gia lãnh thổ, từng khu vực nói chung và các ngành kinh tế cụ thể nói
riêng thì việc phát triển DNNN gắn với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế là
một thực tế hiển nhiên không cần bàn, cãi.
1.1.2. Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển là một quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày
càng hoàn thiện. Cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái lạc
hậu, lỗi thời.
Phát triển DNNN là quá trình biến đổi lâu dài của DNNN trong phát
triển KT - XH nói chung, phát triển nông nghiệp hàng hóa nói riêng. Thực
chất của sự phát triển là khả năng thích ứng của DNNN trong quá trình sản
xuất nông nghiệp hàng hóa. Do đó, phát triển DNNN không chỉ tăng lên về
mặt số lượng, cơ cấu mà điều quan trọng là tăng lên về mặt chất lượng, trong
quá trình phát sinh, phát triển của nó.
Từ sự tiếp cận trên, dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng:
Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp là sự tăng lên về số lượng, chất

lượng với cơ cấu hợp lý của các doanh nghiệp nông nghiệp nhằm giải
quyết việc làm, mang lại thu nhập ngày càng cao cho doanh nghiệp; góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đáp ứng yêu cầu nền sản
xuất nông nghiệp hàng hóa.
* Sự cần thiết phát triển doanh nghiệp nông nghiệp
Một là, xuất phát từ vai trò của doanh nghiệp nông nghiệp
Thứ nhất, Phát triển DNNN trực tiếp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Cụ thể là, Phát triển DNNN góp phần tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; vận tải hàng hóa; bán buôn, bán lẻ
20


hàng nông phẩm; dịch vụ nông nghiệp... đồng thời, lao động trực tiếp trong
nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm; lao động trong công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng. DNNN phát triển sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất cây lương thực, tăng
tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, rau quả, cây công nghiệp, đa dạng hóa ngành
nghề; tạo điều kiện phát triển toàn diện và hình thành các vùng chuyên canh
về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản với sản phẩm bảo đảm về số lượng, chất
lượng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp
hàng hóa lớn. Bởi vì, sự phát triển của DNNN đòi hỏi phải tập trung ruộng
đất, phải đẩy mạnh cơ giới hóa và ứng dụng những thành tựu khoa học – công
nghệ vào sản xuất, phải hình thành những cánh đồng mẫu lớn chuyên canh,
những khu chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tập trung, sản phẩm phải được tiêu
thụ ở cả trị trường trong nước và nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc
hình thành chuỗi hoạt động dịch vụ khép kín và chuỗi liên kết giá trị nông
phẩm trong sản xuất nông nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường

định hướng XHCN mở của và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, phát triển DNNN trực tiếp góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế và xây dựng nông thôn mới.
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Trước
hết là, trong nội ngành nông nghiệp, cụ thể là ở ba phân ngành: Trồng trọt,
chăn nuôi, thủy sản sẽ hình thành chuỗi dịch vụ khép kín từ đầu vào đến đầu
ra, tiếp đến là thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ nhất là
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp chế tạo máy móc, vận
tải hàng hóa, năng lượng, bưu chính viễn thông,… cũng như các ngành sản
xuất phụ và ngành sản xuất bổ trợ. Tất cả các ngành này sẽ có nhiều việc làm
mới. Trên cơ sở đó, mở rộng tái sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, tiến
đến nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
21


động góp phần tích cực xóa đói, giảm nghèo tiến đến mục tiêu xa hơn đó là
phát triển LLSX cùng với củng cố và hoàn thiện QHSX xã hôi chủ nghĩa
trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh
việc tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Phát triển DNNN sẽ tạo sự lan tỏa trực tiếp trong huy động các nguồn lực
phát triển hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế,… xóa đói, giảm nghèo ở
nông thôn, cùng với giữ vững và bảo vệ môi trường sinh thái về đất đai, nguồn
nước, khí hậu, củng cố, tăng cường, tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, giữ gìn và phát huy giá trị đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
tại nông thôn. Chính những điều này, đã tạo cơ sở, tiền đề để xây dựng nông thôn
mới theo quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 04 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
Thứ ba, Phát triển DNNN trực tiếp góp phần ổn định chính trị, xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Phát triển DNNN trực tiếp góp phần ổn định chính trị, xã hội. Bởi vì,
chính sự phát triển của DNNN đã mang lại nhiều việc làm mới cùng với thu
nhập ổn định và ngày càng cao góp phần trực tiếp cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của Nhân dân đã tạo tiền đề, điều kiện làm thay đổi bộ mặt nông
thôn nói riêng, xã hội nói chung và trở thành động lực mạnh mẽ trong các
phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào nông dân thi đua sản xuất
kinh doanh giỏi và giúp nhau làm giầu chính đáng, xóa đói, giảm nghèo cùng
với nó là phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư. Như vậy, sự phát triển của DNNN đã trực tiếp góp phần ổn định chính trị xã hội trên địa bàn nông thôn nói riêng, cả nước nói chung.
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần củng cố quốc phòng, an ninh. Bởi
vì, chính sự phát triển của DNNN đã trực tiếp góp phần nâng cao trình độ,
năng lực, phẩm chất, rèn luyện kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, tác
22


phong làm việc công nghiệp cho người lao động. Đây sẽ là nguồn lực quan
trọng nhất để huy động nhân lực cho quốc phòng khi chiến tranh xảy ra. Bên
cạnh đó, sự phát triển của DNNN sẽ góp phần tăng thu nhập cho người lao
động, tăng GDP cho nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với tăng cường
tiềm lực kinh tế cho quốc phòng. Mặt khác, sự phát triển của DNNN đã làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thuận lợi cho việc áp dụng công nghiệp lưỡng
dụng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng và kinh tế. Hơn nữa, sự phát
triển của DNNN đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố, vùng, miền trong cả nước. Đây sẽ là tiền đề, điều kiện đề huy động
nhân lực, vật lực, tài lực khi có tác chiến xảy ra.
Phát triển DNNN trực tiếp góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Bởi vì, chính sự phát triển của DNNN đã đặt ra những yêu cầu, đòi
hỏi lớn về vốn, lao động, công nghệ - kỹ thuật và thị trường cả trước mắt và
lâu dài. Điều này chỉ có thể được đáp ứng khi và chỉ khi chúng ta kết hợp

được sức mạnh nội lực với sức mạnh ngoại lực; sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức; tận dụng lợi thế so sánh
của nền kinh tế các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới để biến sức mạnh
ngoại lực thành năng lực nội sinh của nền kinh tế. Điều này đồng nghĩa với
việc góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển theo
tinh thần nghị quyết đại hội XII của ĐCSVN.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới, nâng cao đời sống của nông dân. Đó là con đường tất yếu phải tiến
23


hành đối với nước ta có điểm xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại thì vấn đề mấu chốt là phát
triển nền nông nghiệp hàng hóa để cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng sản
xuất lớn, hiện đại. Trước mắt cũng như lâu dài, phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH là cơ sở để đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ đồng thời cũng là quá trình
chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ
theo hướng lao động công nghiệp, dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, còn lao
động nông nghiệp giảm tuyệt đối và tương đối. Điều này chỉ biến thành hiện
thực khi và chỉ khi chúng ta đẩy mạnh phát triển DNNN.
Mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn, bảo đảm sự hài
hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó

khăn, nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với trình độ
nông dân của các nước tiên tiến trong khu vực, đủ bản lĩnh chính trị, năng
lực làm chủ nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn có năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tăng cường. CNH, HĐH sẽ tạo tiền đề vật chất, kỹ
thuật và kinh tế, xã hội để cải biến nền kinh tế nông nghiệp còn kém phát
triển thành nền kinh tế có cơ cấu ngày càng hợp lý trên cơ sở lao động sử
dụng máy móc và kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến. CNH, HĐH tạo
24


nền tảng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc xác lập, củng cố, hoàn thiện
QHSX mới XHCN và củng cố hệ thống chính trị, tăng cường an ninh quốc
phòng ở khu vực nông thôn...Để biến mục tiêu này thành hiện thực, phải
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó có phát triển DNNN.
Nước ta là nước đông dân cư sống ở nông thôn, với gần 70% dân số
sống ở nông thôn, gần 50% lao động làm nông nghiệp; tốc độ tăng dân số ở
nông thôn hiện vẫn cao; ruộng đất bình quân đầu người thấp và có xu hướng
giảm do quá trình đô thị hóa, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng; trình độ sản
xuất nông nghiệp còn thấp, kỹ thuật thủ công là chủ yếu... Nông nghiệp, nông
thôn góp một phần quan trọng trong quá trình tích lũy vốn cho CNH, HĐH; là
khu vực kinh tế, xã hội có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, liên quan đến
việc giải quyết những vấn đề đời sống cơ bản của đại đa số dân cư, như tạo
việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, tăng

sức mua của thị trường nông thôn, tăng tỷ trọng trong GDP và tăng đóng góp
vào ngân sách nhà nước. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa ra khỏi
tình trạng yếu kém, chậm phát triển. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi
mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất
nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Đời
sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn chưa được cải thiện đáng
kể, chưa tương xứng với thành quả của công cuộc đổi mới đất nước; tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa;
chênh lệch giàu - nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn,
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Bởi vậy, để giải quyết triệt để vấn đề
này phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong đó phát triển
DNNN là nội dung quan trọng.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế

25


×