Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Văn hóa thời gian của người việt (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.34 KB, 27 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

n nnnLÊ THỊ ĐIỆP
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUYÊN

VĂN HÓA THỜI GIAN
CỦA NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62.31.70.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017


2

Công trình được hoàn thành tại: Trường ĐHKHXH&NV – ĐH Quốc
gia TP.HCM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phan Thị Thu Hiền

Phản biện độc lập:
1.
2.
Phản biện:


1.
2.
3.

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp cơ sở đào tạo

Trường ĐHKHXH&NV – ĐH Quốc gia TP.HCM


3

NHỮNG CÔNG BỐ KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Phương Duyên. “Văn hóa tận dụng thời gian của người Việt miền
Tây Nam Bộ”. In trong: Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa phi vật thể của người Việt
miền Tây Nam Bộ, tháng 12/2010, Khoa Văn hóa học – ĐHKHXH&NV
Tp.HCM, tr 59 - 66.
2. Nguyễn Thị Phương Duyên. “Ngày và văn hóa đo thời gian của người Việt”. TC
Khoa học xã hội TP.HCM, số 7 (191), 2014, tr 46-51 (ISSN: 1859-0136)
3. Nguyễn Thị Phương Duyên. “Quan niệm về giá trị thời gian trong văn hóa người
Việt (qua tục ngữ, thành ngữ)”, TC Văn hóa học, số 3 (13), 2014, tr51-59. (ISSN:
1859- 4859)
4. Nguyễn Thị Phương Duyên. “Văn hóa tổ chức thời gian trong nông nghiệp của
người Việt”. In trong: Kỷ yếu Hội thảo Đào tạo, nghiên cứu văn hóa ứng dụng
với thực tiễn hoạt động văn hóa khu vực phía Nam, tháng 10/2014, Tp.HCM.
5. Nguyễn Thị Phương Duyên. “Quan niệm về nhân quả “Đời trước – Đời sau” trong
gia đình dòng tộc của người Việt qua tục ngữ”. In trong: Văn hóa gia đình dòng
họ và gia phả Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, 2015, tr. 278 – 283. (ISBN: 978604-73-3839-3)



4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian là một phạm trù phổ quát của nhân loại, gắn liền với nhận thức của con người và
chi phối suy nghĩ, hành động, cách ứng xử của con người trên mọi phương diện. Xuất phát từ những
đặc trưng văn hóa khác nhau, mỗi dân tộc có cách tri nhận khác nhau về thời gian, cách tổ chức cuộc
sống và hoạt động gắn với thời gian khác nhau, kéo theo lối ứng xử với thời gian cũng khác.
Mang đặc điểm của một cư dân nông nghiệp lúa nước, lối ứng xử với thời gian của người
Việt sẽ khác với những cư dân có gốc văn hóa phi nông nghiệp, hoặc không phải gốc nông nghiệp
lúa nước. Trong bối cảnh hiện đại, cách ứng xử với thời gian của mỗi dân tộc cũng là một nhân tố
góp phần quyết định mức độ hội nhập của nền văn hóa vào toàn cầu.
Chính vì vậy, từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Văn hóa thời gian của người Việt làm
luận án tốt nghiệp Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, với mong muốn cung cấp góc nhìn khoa học
về mối quan hệ giữa con người với thời gian, cho thấy ý nghĩa nhân sinh sâu sắc của thời gian đối
với cuộc sống người Việt, góp phần khẳng định những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng
thời hướng đến ý nghĩa thiết thực cho việc tổ chức cuộc sống con người phù hợp với điều kiện kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thời gian là một đối tượng luôn có trong nhận thức của các dân tộc, được con người dành
nhiều sự quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về nó. Tuy nhiên đối với vấn đề nghiên cứu về văn hóa ứng xử
với thời gian, mà cụ thể là văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nghiên cứu nội dung này một cách hệ thống, mà chủ yếu chỉ phản ánh những khía cạnh có
liên quan. Trong quá trình tiếp cận nguồn tư liệu đề tài, chúng tôi nhận thấy có hai khuynh hướng
nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án như sau:
A. Các công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử của người Việt nói chung, trong đó có
những đề cập liên quan đến văn hóa ứng xử: Bách khoa thư về nhân học văn hóa (Encyclopedia of
Cultural Anthropology) (1996), đề cập đến Sinh thái học hành vi (Behavioral Ecology), Xã hội học
văn hóa (1997) của Đoàn Văn Chúc, Tâm lý học ứng xử (1998) của Lê Thị Bừng, Văn hóa ứng xử

các dân tộc Việt Nam (2002) của Lê Như Hoa, Cơ sở văn hóa Việt Nam (2004) của Trần Quốc
Vượng.
B. Các công trình nghiên cứu các khía cạnh văn hóa có liên quan thời gian: Đây là hướng
nghiên cứu tập trung phần lớn các tài liệu có liên quan đề tài, có thể chia thành các nhóm sau
- Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thời gian qua phương diện lý luận:
Các tác giả trong nước:


5

+ Các nghiên cứu có đề cập đến “thời gian rỗi”: Đoàn Văn Chúc trong Xã hội học văn hóa
(1997), Trịnh Duy Luận trong giáo trình Xã hội học đô thị (2009), Trần Ngọc Khánh trong Kỷ
nguyên văn minh “thời gian rỗi” (2012).
+ Các nghiên cứu có đề cập đến “thời gian thiêng”, “cái thiêng”: Lý luận về tôn giáo và tình
hình tôn giáo ở Việt Nam”, tác giả Đặng Nghiêm Vạn (2001), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa, Bùi
Quang Thắng (chủ biên) (2008).
Các tác giả nước ngoài:
- Liên quan đến các khái niệm thời gian cá nhân, thời gian xã hội, thời gian công việc, thời
gian rỗi, có thể kể một số công trình sau: Temps cyclique temps linéaire (Thời gian chu kỳ - thời
gian tuyến tính) của Matthieu Gui Ekwa (1995), La sociologie des temps sociaux: une voie de
recherche en éducation (Xã hội học về thời gian xã hội: một hướng nghiên cứu trong giáo dục),
Temps et ordre social - Sociologie des temps sociaux (Thời gian và trật tự xã hội – Xã hội học về
thời gian xã hội) của Roger Sue (1995), Le Temps (Thời gian) của Hervé Barreau (1996), Travail,
temps, valeurs: leurs représentations (Công việc, thời gian, giá trị: những biểu thị của nó) của
Georges Decourt (2002), Temps subjectif et temps social (Thời gian chủ thể và thời gian xã hội) của
Bernard Gaillard (2002), Temps sociaux et pratiques culturelles (Thời gian xã hội và hoạt động văn
hóa) của Gilles Pronovost (2005), Question du temps, pensée des processus (Câu hỏi về thời gian, tư
duy của những quá trình) của Francois Jullien (2012)…Liên quan đến khái niệm thời gian trần tục,
thời gian thiêng, thời gian chu kỳ, thời gian tuyến tính, có công trình Các phạm trù văn hóa Trung cổ
của A.JA. Gurevich (1996).

- Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thời gian qua các phương diện tri thức cụ
thể
+ Lịch sử thời gian: hướng nghiên cứu này tập trung nhiều tri thức của góc nhìn vật lý học,
thiên văn học, gồm các công trình tiêu biểu: Stephen Hawking (2008), Lược sử thời gian; M.Gardner
(2003): Thuyết tương đối cho mọi người, Leofranc Holford-Strevens (2011): Lịch sử thời gian
(Nguyễn Hải Bằng dịch), Daniel J. Boorstin (2001), Những phát hiện về vạn vật và con người, Le
calendrier come norme (Lịch như là một quy chuẩn) của Véronique Le Ru (2012)…
+ Những vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam có liên quan thời gian:
- Các nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh văn hóa tâm linh: thể hiện trong nhiều công trình
nghiên cứu tôn giáo tín ngưỡng của hai tác giả Nguyễn Đăng Duy (Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam
Bộ (1997), Nho giáo với văn hóa Việt Nam (1998), Phật giáo với văn hóa Việt Nam (1999), Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam (2001)…và Nguyễn Duy Hinh (Tư tưởng Phật giáo Việt Nam
(1999), Người Việt Nam với Đạo giáo (2003), Tâm linh Việt Nam (2007)…
- Các nghiên cứu đề cập đến biểu hiện cụ thể của thời gian tục, thời gian thiêng: Nguyễn
Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, (tập 1- tr 140); Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa
Việt Nam: tìm tòi và suy ngẫm, Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (tr. 244,


6

266), Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học (2002), Những vấn đề nhân học tôn
giáo (2006), Ma thuật, khoa học và tôn giáo...
+ Những vấn đề triết học, y lý có liên quan thời gian: Chữ Thời của Kim Định (1967), Những
khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay
của Trần Đăng Sinh (2001), Hệ thức thời gian độn giáp, nền văn minh nông nghiệp châu Á cổ đại,
Khám phá những quy luật thời gian của Bùi Biên Hòa (2002), (2003), Bàn về thời gian của Francois
Jullien (2004), Không tuổi tác, không thời gian – Quan điểm lượng tử về sự già đi của con người của
Deepak Chopra (2004), Chu kỳ cuộc sống - 99 điều cần biết của Hoàng Thanh Minh (2005)…
Các tác phẩm, bài viết có liên quan đã đề cập đến một số khía cạnh của văn hóa ứng xử, một
vài góc độ về văn hóa ứng xử với thời gian của con người, song vẫn chưa có một công trình nào

nghiên cứu về văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt một cách trọng tâm, có hệ thống và toàn
diện. Với phương pháp liên ngành, trên cơ sở vận dụng những tư liệu này, chúng tôi mong muốn
nghiên cứu một cách thấu đáo, toàn diện về văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
(1). Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu hệ thống những chuẩn mực ứng xử với thời gian mà con
người thể hiện thông qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý…trong quá trình phát triển và
hoàn thiện đời sống, nhằm tìm ra đặc điểm văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt. Trên cơ sở
đó, khẳng định những giá trị ứng xử gắn với văn hóa truyền thống người Việt và gợi mở những vấn
đề ứng xử với văn hóa thời gian trong thời đại ngày nay.
(2). Đối tượng nghiên cứu của luận án chính là những nội dung trọng tâm: khái niệm thời
gian, cách hiểu văn hóa thời gian chính là văn hóa ứng xử với thời gian (khái niệm văn hóa khi hiểu
theo nghĩa hẹp, giới hạn theo hoạt động chính là văn hóa ứng xử), quan niệm về các kiểu cấu trúc
thời gian (thời gian vũ trụ, thời gian đời người, thời gian cá nhân, thời gian xã hội, thời gian trần tục,
thời gian thiêng), và biểu hiện của những mối quan hệ ứng xử với thời gian của người Việt.
(3). Phạm vi nghiên cứu: văn hóa thời gian của người Việt được giới hạn theo hoạt động, do
đó cũng chính là văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt, trọng tâm là văn hóa truyền thống, đặt
trong sự liên hệ những biến đổi từ truyền thống đến hiện đại, và tập trung vào chủ thể là người Việt ở
các vùng Bắc - Trung - Nam, không mở rộng đến cộng đồng người Việt sống ở các quốc gia khác
trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Theo hướng tiếp cận địa văn hóa, sử văn hóa; vận dụng phương pháp hệ thống, phương pháp
liên ngành, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát, thống kê; chú trọng so sánh nội văn hóa
(so sánh đặc điểm văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt giữa các vùng Bắc – Trung - Nam),
bên cạnh đó, liên hệ so sánh xuyên văn hóa (so sánh giữa đặc điểm văn hóa ứng xử với thời gian của
người Việt và một số tộc người khác trên thế giới) để có thể hiểu đầy đủ hơn về đối tượng nghiên
cứu, thấy được những giá trị, đặc trưng của văn hóa ứng xử với thời gian người Việt; đồng thời quan


7


tâm về so sánh loại hình để thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa ứng xử với thời gian
của người Việt với những cư dân có gốc văn hóa phi nông nghiệp, hoặc không phải gốc nông nghiệp
lúa nước, dựa trên nguồn tư liệu tổng hợp các góc độ nghiên cứu, từ khoa học tự nhiên, thực nghiệm
(như vật lý học, thiên văn học, y học…) đến khoa học xã hội nhân văn (triết học, văn học, sử học,
tôn giáo học, dân tộc học, nhân học…).
5. Kết quả và đóng góp mới của luận án
Về ý nghĩa khoa học
(1). Góp phần hệ thống hóa các tri thức lý luận về văn hóa ứng xử với thời gian và văn hóa
ứng xử với thời gian của người Việt.
(2). Góp phần mở rộng tri thức liên ngành khi đề tài tiến hành nghiên cứu văn hóa ứng xử với
thời gian từ nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau.
Về ý nghĩa thực tiễn
(1). Luận án đóng góp vào việc hệ thống hóa tri thức văn hóa truyền thống của người Việt, có
ý nghĩa trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, luận án còn góp phần
nhận diện bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hướng đến văn hóa toàn cầu, giúp bồi dưỡng, cải
thiện văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt.
(2). Kết quả nghiên cứu có thể trở thành tư liệu tham khảo cho các học phần văn hóa tín
ngưỡng, văn hóa tôn giáo, phong tục và lễ hội, văn hóa và ngôn ngữ…có liên quan đến yếu tố thời
gian và văn hóa ứng xử với thời gian.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án có 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, bao gồm phần nền tảng lý luận văn hóa sẽ được
vận dụng xuyên suốt luận án và phần xác định tọa độ văn hóa, đồng thời khái quát những yếu tố ảnh
hưởng đến văn hóa thời gian của người Việt
Chương 2: Văn hóa thời gian của người Việt trong ứng xử với tự nhiên, chương này nghiên
cứu văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt trong mối quan hệ với tự nhiên.
Chương 3 : Văn hóa thời gian của người Việt trong ứng xử xã hội, tiếp cận nghiên cứu văn
hóa ứng xử với thời gian của người Việt trong mối quan hệ với xã hội.
Chương 4 : Văn hóa thời gian của người Việt trong ứng xử tâm linh, tiếp cận nghiên cứu văn
hóa ứng xử với thời gian của người Việt trong mối quan hệ với thế giới tâm linh.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Thời gian và văn hóa thời gian
1.1.1. Thời gian


8

“Thời gian” vốn là thuật ngữ được xuất hiện muộn, từ thế kỷ XX trở đi văn hóa Việt Nam
mới sử dụng. Có thể nói, thời gian luôn chi phối sâu sắc sự quan tâm của nhân loại, thời gian có mặt
khắp nơi theo suy nghĩ của con người. Khái niệm thời gian được chú trọng không chỉ vào chính bản
thân nó (xem nó là thuộc tính của sự vật), mà còn được quan tâm ở khía cạnh nó được phản ánh vào
ý thức con người ra sao, tạo thành khái niệm thời gian có tính chủ quan ở mỗi chủ thể.
Tổng hợp từ những góc nhìn khác nhau, luận án nghiên cứu đối tượng thời gian với đầy đủ
những góc độ: nghiên cứu bản thân thời gian với những đặc tính cơ bản của nó, đồng thời xem xét
việc nó được khái niệm hóa bởi con người. Từ góc độ tiếp cận như vậy, chúng tôi đưa ra khái niệm
thời gian như sau: “Thời gian là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất, có mối liên hệ chặt chẽ với
không gian trong sự vận động và phát triển không ngừng, không chỉ tồn tại một cách khách quan,
chúng còn được con người ý thức và thể nghiệm một cách chủ quan.”
1.1.2. Văn hóa thời gian
Khái niệm văn hóa thường được dùng để diễn đạt nhiều ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên có thể
quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới
hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng; theo không gian hoặc theo hoạt động, theo thời gian…Giới
hạn theo hoạt động thì văn hóa ở nghĩa hẹp thường được đồng nhất với văn hóa ứng xử. Theo hướng
này, văn hóa thường được hiểu là cách sống, cách nghĩ và cách đối xử với người xung quanh. Với
cách hiểu này, mô hình cấu trúc văn hóa phân loại theo hoạt động được đề xuất là văn hóa nhận thức
- văn hóa tổ chức - văn hóa ứng xử. [Trần Ngọc Thêm 2014: 29].
Quan điểm một số nhà xã hội học nước ngoài cũng đồng nhất văn hóa chính là ứng xử:
“Văn hóa là hình thế chung những ứng xử đã học được và của những kết quả của chúng mà các yếu

tố được thừa nhận và được truyền bởi thành viên của một xã hội nhất định” (theo R.Limon trong
“Quá trình văn hóa của cá nhân”); “Văn hóa là một dụng cụ mà con người sử dụng để thiết lập
những giao lưu giữa những người sống thuộc cùng thời đại, thuộc những tình huống khác nhau, giữa
các giới tính, giữa người sống với người chết, giữa vũ trụ với đời sống tâm thần” (theo Jean
Duvignaudn trong “Ngôn ngữ đã mất”). [Đoàn Văn Chúc 1997: 205-206].
Trong quan điểm tiếp cận của luận án, chúng tôi thống nhất cách tiếp cận xem văn hóa
chính là những quan hệ ứng xử. Vì vậy, chúng tôi quan tâm văn hóa thời gian chính là văn hóa ứng
xử với thời gian, theo trục hoạt động nhận thức - tổ chức - ứng xử: cách sống, cách nghĩ quyết định
cách làm, cách đối xử/nhận thức quyết định cách tổ chức, hành động, thái độ ứng xử.
1.2. Văn hóa ứng xử và văn hóa ứng xử với thời gian
1.2.1. Văn hóa ứng xử
Những ứng xử của con người, từ chỗ mang tính đơn lẻ dần dần được lựa chọn, tập hợp, đánh
giá, khái quát hóa để trở thành khuôn mẫu chung cho những quan hệ ứng xử cùng loại, tức nếp ứng
xử, hay khuôn mẫu ứng xử, khuôn mẫu văn hóa. Một khi đã trở thành khuôn mẫu mang tính chuẩn


9

mực xã hội, cộng đồng, nếp ứng xử văn hóa dần định vị thành văn hóa ứng xử [Lê Như Hoa 2002:
24].
Với quan điểm như trên về ứng xử, chúng tôi tán đồng định nghĩa về văn hóa ứng xử theo góc
nhìn văn hóa học của tác giả Lê Như Hoa: “văn hóa ứng xử là hệ thống tinh tuyển những nếp ứng
xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối
tượng khác nhau, thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý…trong quá trình phát triển
và hoàn thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn mực của cá nhân, nhóm
xã hội, toàn bộ xã hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng bản sắc của văn hóa một dân tộc,
một quốc gia…được cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội, thừa nhận và làm theo.”
1.2.2. Văn hóa ứng xử với thời gian
“Văn hóa ứng xử với thời gian là hệ thống những chuẩn mực ứng xử với thời gian mà con
người thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý…trong quá trình phát triển và hoàn

thiện đời sống. Những chuẩn mực này phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng bản sắc văn hóa
dân tộc, được cá nhân và xã hội thừa nhận và làm theo.”
Hệ thống những chuẩn mực ứng xử này được khảo sát qua ba bình diện ứng xử: ứng xử với
thời gian vũ trụ và thời gian sinh học của đời người, ứng xử với thời gian cá nhân và thời gian xã hội,
ứng xử với thời gian trần tục và thời gian thiêng để có thể khái quát hóa nên đặc điểm văn hóa ứng
xử với thời gian của chủ thể.
1.3. Định vị tọa độ văn hóa Việt Nam và những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa thời gian của
người Việt
1.3.1. Không gian văn hóa
Không gian văn hóa, nhìn từ điều kiện địa – tự nhiên cho thấy Việt Nam có hệ sinh thái phù
hợp ở mức độ cao với sản xuất nông, ngư nghiệp, đồng thời cũng có nhiều thuận lợi trong mưu sinh
và nhiều khó khăn trong ứng phó với tự nhiên. Nhìn từ điều kiện địa – văn hóa, cũng chính vị trí
trung tâm khu vực Đông Nam Á, nằm ở vị trí “ngã tư” giáp biển, nên Việt Nam có không gian văn
hóa mở, sớm có giao lưu văn hóa với bên ngoài. Lịch sử Việt Nam chịu sự chi phối mạnh mẽ các
quan hệ giao lưu, tiêu biểu như văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ (cổ - trung đại), văn hoá phương Tây
(cận – hiện đại), đã để lại nhiều dấu ấn trong quá trình lịch sử.
1.3.2. Chủ thể văn hóa
Người Việt mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu chính là tộc người chủ thể của văn hóa Việt
Nam (người Kinh), có những đặc điểm văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á đồng
thời có những đặc trưng văn hóa – lịch sử Việt Nam:
(1). Mặc dù có đủ các loại địa hình đặc trưng của khu vực Đông Nam Á nhưng về cơ bản,
Việt Nam vẫn là một xã hội nông nghiệp lúa nước. Trong quá trình khai phá và chinh phục tự nhiên,
cư dân Việt thường tập trung cư trú ở địa hình đồng bằng. Có thể nhận thấy điều đó qua sự tập trung
người Việt ở hai đồng bằng châu thổ rộng lớn của hai con sông lớn và giàu phù sa ở Đông Nam Á là


10

Hồng Hà và Cửu Long. Từ đó, họ có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, và
trở thành tộc người chủ thể của văn hóa Việt Nam.

(2). Do địa thế “ngã tư quốc tế” nên văn hóa Việt Nam nói chung, người Việt nói riêng đã tiếp
nhận nhiều giá trị văn hóa bên ngoài. Chính vì vậy, trên nền của lớp văn hóa bản địa, tộc người Việt
còn vun đắp thêm những giá trị văn hóa ngoại lai từ các nền văn hóa ở khu vực (văn hóa Trung Hoa,
Ấn Độ) và thế giới (văn hóa phương Tây), tạo nên những lớp văn hóa hệ thống, thâu tóm được
những tinh hoa văn hóa nhân loại.
(3). Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cũng do địa thế “ngã tư quốc tế” nên Việt Nam liên
tục trở thành đối tượng của nạn ngoại xâm. Từ thời sơ sử cho đến thời hiện đại, Việt Nam đã phải
đối mặt với chiến tranh hơn mười thế kỷ. Người Việt cùng với cộng đồng các tộc người Việt Nam đã
có một lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm liên tục, bền bỉ. Yêu nước, chống ngoại xâm vì thế
trở thành một trong những phẩm chất tốt đẹp khi nhận diện dân tộc Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
1.3.3. Thời gian văn hóa
Thời gian văn hóa của nền văn hóa Việt Nam trải qua các lớp văn hóa tiếp nối nhau: lớp văn
hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với khu vực, lớp văn hóa tiếp xúc với phương Tây và hội nhập
toàn cầu.
Lớp văn hóa bản địa, trải qua từ giai đoạn văn hóa thời tiền sử đến giai đoạn văn hóa Văn
Lang – Âu Lạc. Đặc trưng chung của lớp văn hóa này là sự hình thành trong cả khu vực Đông Nam
Á cổ đại một nền văn hóa đặc sắc với nghề nông nghiệp lúa nước là chủ đạo.
Lớp văn hóa giao lưu với khu vực mở đầu cho quá trình giao lưu và tiếp nhận văn hóa Trung
Hoa, Ấn Độ, cũng chính là mở đầu cho quá trình văn hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực.
Điển hình là những giá trị văn hóa tinh thần của khu vực đã được người Việt tiếp nhận trong thời
gian này: khởi đầu là tiếp nhận văn hóa Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ, rồi sau đó thông qua con đường
từ Trung Hoa truyền sang. Tiếp theo, văn hóa Nho giáo, Đạo giáo cũng có điều kiện thâm nhập vào
tư tưởng của người Việt rồi nhanh chóng được họ nắm bắt, phát triển theo văn hóa của mình.
Lớp văn hóa tiếp xúc với phương Tây và hội nhập toàn cầu, đặc trưng chung của lớp văn hóa
này là sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến xu
hướng chuyển đổi cấu trúc của nền văn hóa Việt Nam, từ văn hóa truyền thống sang văn hóa hiện
đại.
1.3.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt
(1). Mối quan hệ với môi trường tự nhiên vốn là mối quan hệ cơ bản đầu tiên của con người. Giữa
văn hóa và môi trường sinh thái tự nhiên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn hóa được quy định bởi

môi trường và tác động trở lại môi trường. Môi trường tự nhiên tác động trực tiếp vào con người khiến họ
phải thích nghi để tồn tại và phát triển. Xét về ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, chúng tôi cho rằng
những điều kiện về tự nhiên của nền văn hóa nông nghiệp có khả năng chi phối đặc điểm văn hóa


11

ứng xử với thời gian của người Việt rất lớn, bởi vì trên nền tảng cơ bản của những điều kiện ấy mà
những chuẩn mực ứng xử với thời gian được hình thành và thể hiện.
(2). Điều kiện xã hội cũng có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên những đặc điểm
văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt. Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng cơ bản
của văn hóa làng xã Việt Nam. Đặc trưng này nổi bật trong xã hội truyền thống và còn để lại dấu ấn
mạnh ngay trong xã hội hiện đại. Mặt khác, trong suốt chiều dài lịch sử, xã hội Việt Nam trải qua
phần lớn thời gian chiến tranh, yếu tố này cũng góp phần nhấn mạnh giá trị cộng đồng hơn là cá
nhân.
Điều kiện của một xã hội sớm giao lưu tiếp xúc văn hóa, sớm tiếp xúc với tôn giáo, tín
ngưỡng từ bên ngoài, văn hóa Việt đã tiếp nhận ở thế giới quan, nhân sinh quan của các tôn giáo
ngoại lai những nhận thức về thời gian và cách ứng xử với thời gian, với cuộc đời. Điều kiện xã hội
của một nền văn hóa đặt trong hoàn cảnh giao lưu tiếp xúc với văn hóa khu vực và phương Tây cũng
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt.
Tiểu kết
Trong chương 1, chúng tôi đã tập trung vào những nội dung chính sau:
1. Ở phần cơ sở lý luận, chúng tôi xác định luận án sẽ được triển khai theo hướng nghiên cứu hệ
thống văn hóa ứng xử với thời gian đứng trên quan điểm chung của văn hóa học để nhận thức thời
gian, văn hóa ứng xử và văn hóa ứng xử với thời gian.
2. Phần cơ sở thực tiễn, chúng tôi tiến hành định vị tọa độ văn hóa Việt Nam nói chung ,văn hóa
người Việt nói riêng, theo cấu trúc tọa độ, bao gồm không gian - chủ thể - thời gian.

CHƯƠNG 2
VĂN HÓA THỜI GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT

TRONG ỨNG XỬ VỚI TỰ NHIÊN
Ứng xử với tự nhiên là mối quan hệ ứng xử đầu tiên mà con người xác định bản thể văn hóa
của mình. Trong quan hệ ứng xử này, con người thể hiện mình cũng là một sinh vật có đời sống sinh
lý gắn bó với tự nhiên.
Để tìm hiểu về mối quan hệ ứng xử giữa con người và tự nhiên, cụ thể ở đây là thời gian vũ
trụ, chúng tôi dựa vào quan điểm sinh thái học văn hóa (Cultural ecology) của Julian Steward (19021972). Quan điểm này cho rằng văn hóa như là phương tiện mà con người thích ứng với môi trường.
Môi trường ấy bao gồm các yếu tố địa lý - khí hậu, hệ thực - động vật và các phương tiện vật chất
khác (công cụ, máy móc, công nghệ…) do con người tạo ra để sử dụng các nguồn vật chất có trong
môi trường tự nhiên. Nghiên cứu văn hóa ứng xử với thời gian vũ trụ chính là tìm hiểu cách mà con
người thích ứng với môi trường sống của họ, đặt trong mối quan hệ với đối tượng thời gian.


12

Một trong những cách thích ứng đầu tiên ở mối quan hệ ứng xử với thời gian đó là tìm hiểu
cách vận hành của thời gian vũ trụ. Con người đã cố gắng nắm bắt quy luật vận hành của thời gian
bằng cách quan sát và đo đếm thời gian, thông qua các yếu tố tự nhiên.
2.1. Thời gian vũ trụ
Theo quan điểm của chúng tôi, khi nói đến thời gian vũ trụ (cosmic time/le temps cosmique)
là muốn nhấn mạnh đến thuộc tính tồn tại khách quan của thời gian. Thời gian vũ trụ là thời gian tồn
tại khách quan trong thế giới tự nhiên, được thể hiện qua hình thức tồn tại của tất cả sự vật hiện
tượng tự nhiên trong đời sống, được con người nhận thức và đo đếm.
Buổi mình minh của loài người, con người cổ xưa trên khắp thế giới đã dựa vào những hiện
tượng lặp đi lặp lại mang tính chu kỳ của các yếu tố tự nhiên để đánh dấu thời gian theo kinh nghiệm
nguyên sơ của mình, con người đã đánh dấu đời sống mình bằng những chu kỳ của thiên nhiên.
2.1.1. Chu kỳ mặt trời
Với người Việt, chu kỳ vận hành của mặt trời từ lúc mọc đến lúc lặn cũng được gọi là ngày.
Như những dân tộc khác, ở giai đoạn sơ khai, người Việt cũng đo thời gian trong ngày bằng cách
quan sát những chuyển động biểu kiến của mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú. Người Việt rất quan
tâm đến vị trí của mặt trời, bóng nắng, lấy ngọn chuối, ngọn tre, ngọn sào, ngọn cau…để đo vị trí

mặt trời và đoán định giờ giấc ban ngày. Về cơ bản, người Việt thường căn cứ vào hai phương cách
liên quan đến sự chuyển động của mặt trời để đo thời gian: (1). so sánh vị trí của mặt trời trong
tương quan với phần không gian phía trên tầm nhìn của con người; (2). so sánh vị trí của mặt trời
trong tương quan với phần không gian phía dưới tầm nhìn của con người.
2.1.2. Chu kỳ mặt trăng
Cách tính thời gian theo chu kỳ trăng được người Việt thể hiện qua việc xác định những ngày
quan trọng trong tháng tương ứng với hình dáng mặt trăng: ngày mồng một đầu tháng gọi là sóc (sóc
= bắt đầu), ngày cuối cùng của tháng gọi là hối (hối = tối tăm).Ngày mười lăm hàng tháng (ngày
rằm) gọi là vọng (vọng = ngửa lên trông, vì hôm ấy trăng tròn nhất trong tháng). Mười ngày gọi là
một tuần trăng (khác với tuần lễ chỉ có bảy ngày).
Dân gian thường sử dụng tuần trăng để làm đơn vị tính mười ngày trong tháng, đồng thời kết
hợp quan sát ánh trăng để làm phong phú thêm những dấu hiệu nhận biết thời gian. Chu kỳ trăng
được chia như sau: thượng tuần (khoảng mười ngày đầu tháng), trong đó có ngày trăng thượng
huyền, là tuần trăng non, mặt trăng thường có hình lưỡi liềm; trung tuần (khoảng mười ngày giữa
tháng), trong đó có ngày trăng rằm, là tuần trăng tròn, mặt trăng thường có hình tròn và ngày một
sáng rõ; hạ tuần (khoảng mười ngày cuối, hoặc ít hơn nếu là tháng thiếu), trong đó có ngày trăng hạ
huyền, là tuần trăng già (hoặc trăng khuyết).
2.1.3. Chu kỳ sao
Người Việt nhận dạng hệ thống sao trên bầu trời theo Nhị thập bát tú. Người Việt chia Nhị
thập bát tú thành bốn chòm sao lớn theo triết lý Ngũ Hành, mỗi chòm có bảy sao, ứng với một mùa,


13

một phương: Huyền Vũ (rùa đen, xuất hiện ở phương Bắc vào mùa đông), Chu Tước (chim sẻ đỏ,
xuất hiện ở phương Nam vào mùa hạ), Thanh Long (rồng xanh, xuất hiện ở phương đông vào mùa
xuân), Bạch Hổ (hổ trắng, xuất hiện ở phương Tây vào mùa thu). Người ta còn căn cứ vào việc chuôi
sao Bắc Đẩu (chòm sao hình cái gáo ở phương bắc) ứng với chòm sao nào trong các chòm sao trên
để xác định các mùa và ngày tiết trong năm, các tháng trong mùa.
Trong văn hóa người Việt, Nhị thập bát tú và tên gọi của các ngôi sao Ngưu, Đẩu, Khuê,

Tâm, Sâm, Thương… đã trở thành những biểu tượng của văn hóa như Hội Tao Đàn nhị thập bát tú
đời Lê, hình ảnh ngôi sao Khuê gắn liền nhân cách Nguyễn Trãi… Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn
Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp cao quý của văn học. Văn hóa dân gian cũng in dấu
những nhận thức về sao.
2.1.4. Chu kỳ mực nước
Nông nghiệp, ngư nghiệp và giao thông khiến người ta quan tâm chặt chẽ đến mực nước
sông, mực thủy triều. Thuộc lòng quy luật của tự nhiên, từ lâu, người dân ven cửa sông, cửa biển đã
dựng lên một loại lịch gọi là lịch con nước để đo chu kỳ biến động của con nước. Lịch con nước
cũng là lịch trăng, nước lên, nước xuống khớp với chu kỳ trăng tròn, trăng khuyết, trăng mọc, trăng
lặn: Trăng mọc nước lên, trăng lặn nước cũng lên, trăng nghiêng nước xuống; Mười bảy nước nhảy
khỏi bờ... Tùy theo chế độ thủy triều của khu vực là nhật triều (trong vòng một ngày đêm có một lần
nước lên và một lần nước xuống) hay bán nhật triều (trong vòng một ngày đêm có hai lần nước lên
và hai lần nước xuống) mà cư dân có cách tính thời gian theo con nước gắn sát với thực tế thủy triều.
2.1.5. Chu kỳ sinh học của sinh vật
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, người Việt cũng không hề bỏ qua chu kỳ gáy của gà
trong đêm, chu kỳ trở về với mùa xuân của chim én…những nhịp sinh học đồng thời là nhịp thời
gian đều đặn diễn ra. Với các loại đối tượng báo hiệu thời gian là sinh vật, con người căn cứ vào nhịp
sinh trưởng mang tính báo hiệu thời gian của chúng mà nhận diện. Với động vật, người Việt lắng
nghe từng biểu tượng âm thanh của những loài dù là thuần dưỡng hay hoang dã, dù gia súc, gia cầm
hay côn trùng, nhưng cũng cư trú quanh quẩn trong không gian nông nghiệp lúa nước.
2.2. Lịch pháp và các cách đo thời gian
Tiến đến việc phân cắt, sắp xếp thời gian ngày càng chi tiết hơn, từ ngày - tháng - năm đến
giờ - phút - giây, sao cho thời gian vật lý trùng với thời gian vũ trụ, con người đã không ngừng sáng
tạo ra lịch và đồng hồ
2.2.1. Lịch
Lịch là cách mà con người xác định thời gian. Lịch mà người Việt sử dụng có nguồn gốc từ
tri thức lịch của Trung Hoa. Đấy là loại lịch âm dương vừa kết hợp được chu kỳ thời gian của mặt
trời và mặt trăng, vừa chú ý tổng hợp các chu kỳ sao để tính đơn vị ngày - tháng - năm, vừa đưa vào
hệ thống Can Chi để tính giờ. Sau này khi giao lưu tiếp biến văn hóa phương Tây, lịch còn bổ sung



14

cách tính thời gian tuần lễ, góp phần hoàn thiện hơn trong việc chia cắt và sắp xếp hệ thống thời gian
vật lý.
2.2.2. Đồng hồ
Đồng hồ cũng là loại phương tiện cụ thể hóa cách đo đạc thời gian vật lý. Lịch sử phát triển
của đồng hồ trong văn hóa người Việt cũng chịu ảnh hưởng của lịch sử đồng hồ Trung Hoa và
phương Tây, từ “nhật quỹ”, “thủy lậu”, “sa lậu”…cho đến “tự minh chung, và sau này là đồng hồ
điện tử đa năng, đa dạng mà hễ xuất hiện ở thị trường thế giới là cũng có mặt ở Việt Nam.
2.2.3. Những cách đo thời gian khác
Với đặc điểm của người làm nông nghiệp, những hiểu biết về đồng hồ mặt trời, nhật
quỹ…của người Việt bị hạn chế. Tuy nhiên, trong môi trường nông nghiệp của mình, người Việt
cũng có những cách đo thời gian riêng, dù thiên về trực quan, tính chính xác không cao nhưng lại
hiệu quả, phù hợp với với lối tư duy quan sát tổng hợp của cư dân trồng lúa nước. Đó là cách đo thời
gian theo kiểu ước lượng, độ chừng, theo cách “phi đơn vị”, thường sử dụng khi đo đếm thời gian
ngắn: “Láng giềng đã đỏ đèn đâu/ Chờ em chừng giập bã trầu em sang” (Chờ nhau - Nguyễn Bính).
2.3. Quan hệ bộ ba: Thời gian - Không gian - Vận động
Dưới góc nhìn của vật lý học,thời gian, không gian và vận động là ba yếu tố không thể tách
rời. Trong quan hệ bộ ba này, thời gian làm thước đo sự chuyển động (trước đó, trong lúc đó, sau đó)
và đo tốc độ (hơn - bằng - kém, nhanh - chậm) của sự vật. Không gian gắn liền không tách rời thời
gian, vừa là nơi chứa đựng những gì sẽ xảy ra, vừa là nơi chứa đựng những gì đã thực hiện. Có thể
thấy quan điểm nhân loại đã gặp nhau trong nhìn nhận về mối quan hệ không gian – thời gian: thời
gian không thể tách rời không gian trong sự vận động của vũ trụ.
Trong biểu hiện ứng xử của người Việt với thời gian vũ trụ, do sinh hoạt của con người luôn
gắn liền với không gian sinh thái nông nghiệp nên thường có những cách tri nhận thời gian mang
tính bộ ba: thời gian - không gian - vận động. Vì quan sát thời gian vũ trụ hàng ngày qua các chu kỳ
tự nhiên nên ở người Việt hình thành và biểu hiện rõ kiểu tri nhận thời gian bằng không gian (dùng
không gian để đo thời gian). Bên cạnh đó, người Việt tri nhận rất rõ tốc độ vận động của thời gian
trong không gian. Thời gian vũ trụ có tốc độ vận động rất nhanh theo cảm nhận của người Việt (Qua

giêng hết năm, qua rằm hết tháng).
2.4. Thời gian sinh học của đời người
Về mặt khái niệm, khác với thời gian vũ trụ, thời gian sinh học của đời người (biologycal
time of human life/ le temps biologique de la vie humaine) là kiểu thời gian phản ánh tính chất tồn
tại của con người về mặt đời sống sinh học tự nhiên. Đó không chỉ là thời gian mang thuộc tính
khách quan mà còn có những thuộc tính chủ quan có được thông qua sự ý thức và trải nghiệm của
con người.
Từ những quan sát về các hiện tượng tự nhiên, chu kỳ của thiên văn, chu kỳ của sinh giới, con
người nhận ra bản thân mình cũng là một bộ phận của tự nhiên, cũng ở trong những chu kỳ tiếp nối


15

của quá trình từ sự sống đến cái chết. Ứng xử với thời gian sinh học đời người là cách mà con người
suy nghĩ và lựa chọn thái độ đối với những mốc thời gian trên đường đời của con người, qua các giai
đoạn kế tiếp nhau như sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già đi và chết.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có mối quan hệ mật thiết trong ứng xử giữa thời
gian vũ trụ với thời gian sinh học đời người của người Việt: con người dùng thời gian vũ trụ để diễn
đạt thời gian đời người.
Tiểu kết
Văn hóa ứng xử với thời gian trong quan hệ giữa con người và tự nhiên bao gồm ứng xử với
thời gian vũ trụ và thời gian sinh học của đời người.
Thời gian vũ trụ là loại thời gian mang tính khách quan, được thể hiện thông qua sự vật hiện
tượng trong cuộc sống. Văn hóa ứng xử với thời gian vũ trụ của con người được biểu hiện ở cách mà
con người nhận diện quy luật vận hành thời gian của vũ trụ thông qua các yếu tố tự nhiên và tìm cách
xác định, tính toán thời gian bằng cách áp dụng phép làm lịch và chế tạo ra dụng cụ đo là đồng hồ.
Người Việt ứng xử với thời gian vũ trụ thế nào thì cũng ứng xử với thời gian đời người như
vậy. Nhìn nhận chu kỳ đời người cũng như nhịp sinh giới của tự nhiên, trải qua các giai đoạn quan
trọng của vòng đời sinh vật: sinh, trưởng, già, chết. Tất cả những phát triển sinh học này đều được
người Việt nhìn nhận trong mối liên hệ với thời gian vũ trụ (dùng hình ảnh thời gian vũ trụ để diễn

đạt thời gian đời người).

CHƯƠNG 3
VĂN HÓA THỜI GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
TRONG ỨNG XỬ XÃ HỘI
Trong mối quan hệ giữa con người và xã hội, chúng tôi xem xét con người với tư cách là cá
nhân trong mối quan hệ với xã hội. Vì vậy, ứng xử với thời gian của con người được xem xét qua
cách ứng xử với thời gian cá nhân và thời gian xã hội. Thời gian cá nhân là thời gian mà con người
sử dụng với tư cách là một con người độc lập, một sinh thể - xã hội, chịu sự yêu cầu, chi phối của
quy chuẩn thời gian xã hội. Còn thời gian xã hội là thời gian mà con người sử dụng với tư cách là
một thành viên của xã hội, thời gian mang tính quy chuẩn của cộng đồng.
3.1. Quá khứ - hiện tại - tương lai
Cũng như nhân loại, với người Việt thì quá khứ là thời gian đã qua, hiện tại là thời gian đang
có và tương lai là thời gian sắp đến. Sự tiếp nối liên tục của ba phạm trù này làm nên dòng chảy thời
gian. Tuy nhiên, với đặc tính văn hóa của chủ thể xã hội nông nghiệp, người Việt quan tâm đến mối
quan hệ quá khứ và hiện tại thông quan mối tương quan về di sản dòng dõi, thế hệ; quan tâm tương
lai gần và có định hướng tương lai ngắn hạn, mang tâm thức của người nông nghiệp lo cái đói trước
mắt. Họ có những quá khứ mang tính sự kiện, có tâm thức thời gian lịch sử, thể hiện những ký ức về


16

chiến tranh qua ngôn ngữ tri nhận hàng ngày, qua việc lưu giữ phản ánh hàng trăm sự kiện lịch sử,
hàng nghìn nhân vật lịch sử gắn với địa danh
3.2. Thời gian công việc và thời gian rỗi
Thời gian công việc thuộc phạm trù thời gian xã hội, còn thời gian rỗi thuộc phạm trù thời
gian cá nhân. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống của người Việt, việc ứng xử với thời gian cá
nhân (thời gian rỗi) bị tác động bởi thời gian xã hội (thời gian công việc). Xã hội nông nghiệp truyền
thống dành mọi ưu tiên cho thời gian công việc nên thời gian tự do của cá nhân cũng được tận dụng
vào thời gian công việc, thời gian rỗi cá nhân không được xã hội đề cao.

Trong xã hội nông nghiệp cổ truyền của người Việt, thời gian công việc và thời gian rỗi
không tách bạch mà đan cài vào nhau, kết hợp công việc đồng áng theo từng ngày, theo mùa vụ với
những dịp nghỉ lễ hội, lễ tết, giỗ kỵ, cưới hỏi. Thời gian rỗi cá nhân thực sự chỉ có từ khi tiếp nhận
văn minh về thời gian làm việc và thời gian giải trí theo công sở phương Tây. Từ truyền thống đến
nay, người Việt tồn tại đồng thời hai lề lối làm việc trái ngược nhau: vừa cần cù khẩn trương vừa
chừng mực, cầm chừng. Đây là đặc tính chung của những nền văn hóa nông nghiệp nhưng hiện tại
mang lại những hệ quả tiêu cực cho công cuộc công nghiệp hóa của đất nước bởi thói quen vừa lao
động vừa giải trí, vừa làm vừa chơi.
3.3. Ứng xử thời gian trong văn minh nông nghiệp
Cuộc sống nông nghiệp đã tạo điều kiện tối đa cho mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Những quan sát về tính chu kỳ của tự nhiên là cơ sở hình thành nên quan niệm về thời gian chu kỳ
(Cyclic time/ le temps cyclique).
Thời gian chu kỳ tuần hoàn trong nhận thức của người làm nông nghiệp đó là thời gian khách
quan của tự nhiên. Muốn nhận diện sự vận động, luân chuyển, sự tuần hoàn của thời gian, chỉ cần
nhìn vào thiên nhiên ngoại cảnh. Trong nhịp sống hàng ngày, dân gian sẽ căn cứ vào sự mọc, lặn của
mặt trời, mặt trăng cùng với chu kỳ con nước do nó tác động, sự mọc lặn của các chòm sao, nhịp
sinh trưởng của hệ động thực vật quanh mình mà tiến hành mọi hoạt động sống, từ thể chất đến tình
cảm.
Nằm trong nôi văn hóa nông nghiệp Đông Nam Á cổ, người Việt cũng sớm hình thành kiểu
văn hóa nhận thức về thời gian mang tính chu kỳ, làm cơ sở cho những thói quen ứng xử với thời
gian của người Việt: không có khái niệm “đúng giờ”, kết thúc lao động theo kiểu “hết giờ” nhưng
chưa “hết việc”, không quan tâm thói quen coi trọng thời gian. Những ứng xử kiểu này của nền văn
minh nông nghiệp lại đang tồn tại trong lối sống của nền văn minh công nghiệp, vì vậy kéo theo
nhiều hệ quả không tích cực cho quá trình hội nhập toàn cầu của người Việt.
3.4. Ứng xử thời gian trong thời kỳ công nghiệp hóa
Cũng như phương Tây, nhận thức thời gian tuyến tính của xã hội Việt Nam xuất hiện cùng
với văn minh đô thị, tuy nhiên không phải đô thị nông nghiệp truyền thống mà là đô thị kiểu phương
Tây, từ khi Pháp bắt đầu áp dụng chính sách khai thác thuộc địa lên Việt Nam, từ cuối thế kỷ XIX



17

trở đi, trong đó vai trò của đồng hồ cơ khí. Kể từ khi có “đồng hồ Tây” để đo thời gian tuyến tính thì
“giờ Tây” trở thành tiêu chuẩn hàng đầu trong việc đo thời gian. Đó được xem là cách đo thời gian
chính xác nhất, mọi hoạt động của con người ở đô thị đều phụ thuộc vào giờ giấc được đo bằng đồng
hồ cơ khí, không phải là thời gian của nhịp điệu thiên nhiên. Những khái niệm “đúng giờ”, “trễ giờ”
bắt đầu được sử dụng ở công sở, ga tàu, bến xe. Thời giờ đồng hồ không những là thời gian cá nhân
mà trở thành thời gian xã hội vì đời sống xã hội đã chuyển từ phương tiện giao thông cá nhân sang
phương tiện giao thông công cộng, đòi hỏi người ta phải tuân thủ đúng giờ vì xe, tàu không đợi một
ai. Nhận thức thời gian tuyến tính của văn minh công nghiệp làm thay đổi tập quán thời gian của xã
hội. Trong nền văn minh hậu công nghiệp, sự vội vã ngày một dồn dập hơn, tỉ lệ thuận với sự tiến
hóa về mặt vật chất kỹ thuật của xã hội đến một mức độ cao, có thể gọi là “bệnh hối hả”.
Tiểu kết
Ứng xử với thời gian cá nhân và thời gian xã hội là xem xét mối liên hệ giữa cá nhân và xã
hội trong ứng xử với thời gian. Thời gian cá nhân được con người sử dụng với tư cách là một sinh
thể độc lập, chịu sự chi phối của quy chuẩn thời gian xã hội, còn thời gian xã hội được con người sử
dụng với tư cách là một thành viên của xã hội, thời gian mang tính quy chuẩn của cộng đồng. Với
quan điểm nghiên cứu như trên, chúng tôi chọn lựa xem xét những yếu tố liên quan đến thời gian cá
nhân và thời gian xã hội như sau: mối quan hệ của dòng chảy quá khứ - hiện tại - tương lai, thời gian
công việc và thời gian rỗi; các kiểu ứng xử với thời gian trong văn minh nông nghiệp và trong văn
minh công nghiệp.

CHƯƠNG 4
VĂN HÓA THỜI GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
TRONG ỨNG XỬ TÂM LINH
Con người, bên cạnh thế giới thực, còn có một thế giới tâm linh bằng sự cảm nhận cái thiêng
ở bản thân mỗi người. Con người biết là mình hữu hạn trên tất cả mọi bình diện của cuộc đời cho
nên điều mà nó quan tâm nhất là sự sống và cái chết. Vì vậy, bên cạnh cuộc đời thực hữu hạn và trần
tục họ xây dựng cho mình một thế giới bên kia vĩnh hằng, thánh thiện, linh thiêng...Thế giới ấy là thế
giới tâm linh. Trong thế giới tâm linh, diễn ra mối quan hệ giữa cái thiêng và cái tục

Quan hệ giữa cái tục (profane/ le profane) và cái thiêng (sacred/ le scaré)
Về mặt khái niệm, cái thiêng được xem là cơ sở của tình cảm tôn giáo và là hạt nhân của
mọi tôn giáo – tín ngưỡng, phân biệt với cái tục vốn là tất cả những gì thuộc về cuộc sống trần thế,
cuộc sống hiện thực của con người. Thời gian thiêng (sacred time/ le temps scaré) là thời gian có
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đặt trong mối liên hệ biện chứng với thời gian trần tục (profane
time/ le temps profane), là những gì liên quan đến thời gian trong cuộc sống thế tục của con người.
4.1.Ứng xử với thời gian trần tục và thời gian thiêng dưới ảnh hưởng của các tín ngưỡng bản
địa


18

4.1.1. Trong tín ngưỡng thờ hiện tượng tự nhiên
Trong tín ngưỡng thờ tự nhiên, vai trò của chu kỳ mặt trời và chu kỳ mặt trăng có ý nghĩa rất
quan trọng đối với cư dân nông nghiệp, có quyền năng mạnh mẽ đối với cuộc sống lao động của con
người. Chu kỳ mặt trời có tiết lập xuân/ tiết Nguyên đán (Tết Nguyên đán), tiết đoan ngọ (Tết Đoan
ngọ), tiết thu phân (Tết Trung thu); chu kỳ mặt trăng có ngày sóc (ngày không trăng), ngày vọng
(ngày tròn trăng), là những mốc thời gian thể hiện “quyền năng” đối với người làm nông nghiệp.
Thông qua đó, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa thời gian trần tục và thời gian thiêng: ở tiết
Nguyên đán là sự đối lập giữa tâm lý thời gian bị “kéo căng” trước mốc giao thừa một cách hết mức
và sự “kéo giãn” thoải mái của tâm lý thời gian sau giao thừa, vì sự chi phối của thời gian thiêng; ở
tiết Đoan ngọ là tâm lý đối phó với khoảnh khắc thần thiêng: cái nóng cực đỉnh của năm, tập trung
vào thời điểm chính Ngọ, gây dịch bệnh ảnh hưởng cuộc sống. Con người phải cúng tế và dùng ma
thuật để trừ khử; tiết Thu phân là khoảnh khắc tâm linh cầu rồng phun mưa bảo vệ mùa màng, chu
kỳ không trăng (sóc) và tròn trăng (vọng) là hai khoảng thời gian mặt trăng có sự tác động đáng kể
đến cuộc sống con người, một thời điểm là gieo cảm giác đêm tối, đe dọa tâm linh, một thời điểm là
lực hút bí ẩn gây xáo trộn sinh học của các cơ thể sống, vì thế mà dẫn đến tâm lý kiêng kỵ ngày tốt,
ngày xấu.
4.1.2. Trong tín ngưỡng thờ linh hồn con người
Tín ngưỡng thờ linh hồn con người tức là thờ những vị thần có nguồn gốc từ con người. Đây

là hình thức tín ngưỡng thờ các vị “nhân thần”, là vong linh của người đã khuất: ông bà tổ tiên,
những người có công với cộng đồng từ làng xóm đến cả nước. Điển hình của niềm tin tín ngưỡng thế
lực tâm linh có nguồn gốc con người đó chính là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, chúng tôi
còn mở rộng đề cập đến các tín ngưỡng liên quan vòng đời khác của con người như tín ngưỡng thờ
các vị thần bảo hộ sinh nở.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là niềm tin về sự bất tử của linh hồn tổ tiên, gắn liền trước hết
với sự kiện quan trọng: cái chết. Người Việt xem cái chết là mở đầu cho quá trình linh hồn con người
sang một thế giới khác mang tính vĩnh hằng.
Trên cơ sở quan niệm về một thế giới tâm linh như vậy, cho nên khi ông bà tổ tiên “trăm tuổi
già”, người Việt tin rằng mốc thời gian thiêng đó chỉ là lúc ông bà đi về không gian vĩnh hằng (về
nơi chín suối, qui thiên, chầu trời), bước qua khỏi cuộc đời trần thế (qua đời), tạm biệt cuộc sống trần
thế (tạ thế)…và quan trọng là vẫn giữ mối liên hệ duy trì với con cháu, vẫn đi về thăm nom, phù hộ
cho con cháu.
Tín ngưỡng thờ các vị thần bảo hộ sinh nở đó chính là sự tôn thờ các vị Nữ thần mà con
người gửi gắm niềm tin tôn sùng, cầu mong được che chở, bảo trợ trong giai đoạn quan trọng liên
quan sinh tử của con người. Tín ngưỡng này được thể hiện qua việc thờ các Nữ thần như: Bà Chúa
Thai, Mười hai Bà mụ, Mẹ Sanh Mẹ Độ…


19

4.2. Ứng xử với thời gian trần tục và thời gian thiêng dưới ảnh hưởng của các tôn giáo – triết
học ngoại nhập
Như tín ngưỡng, tư duy tôn giáo cũng thuộc vào lĩnh vực thiêng liêng, là biểu tượng thể hiện
bản chất các sự vật thiêng liêng và các quan hệ mà nó duy trì với nhau hoặc với các sự vật phàm tục.
Khi xem xét ứng xử với thời gian của người Việt trong các tư duy triết học - tôn giáo, chúng tôi tập
trung vào những tiêu điểm thời gian thiêng như: tư duy triết học - tôn giáo về thời gian đời người, về
cái chết và thời gian sau cái chết.
4.2.1. Trong tiếp biến Phật giáo
Theo E.Durkheim, cái thiêng của Phật giáo không nằm ở ý niệm về thần linh, ngay cả ở

những nơi mà sau này Phật trở thành đối tượng của sự thờ cúng (có điện thờ, có cầu khấn, Phật được
coi là một nhân vật siêu phàm) thì vai trò của Đức Phật không hề giống vai trò của các thần linh
khác. Ở đây, chúng tôi xem xét những tư duy liên quan đến thời gian của tôn giáo này qua những
khái niệm quan trọng trong Tứ diệu đế như vô thường, kiếp, luân hồi nghiệp báo…
Phật giáo quan niệm thời gian đời người qua đơn vị đo đặc thù là “kiếp”. Với quan niệm này
thì cái chết là hết một kiếp nên tục ngữ người Việt nói “Kiếp chết, kiếp hết”. Thời gian đời người,
thời gian thế tục có đặc điểm là vô thường, nghĩa là luôn luôn thay đổi. Chính vì vậy mà kiếp người
trở nên ngắn ngủi, nhất là đặt trong tương quan với “đại kiếp” của thời gian vũ trụ. Cho nên đạo Phật
hay ví đời người ngắn ngủi vô thường như kiếp phù du, như phù vân (mây nổi), phù trần (bụi nổi),
vừa có đã tan biến, thay đổi. Quan niệm vô thường được tục ngữ Việt phản ánh bằng nhiều cách nói
khác nhau: “Chợ trần gian sớm họp chiều tan”, “Của phù vân sớm họp, tối tan”, “Phú quý như phù
vân”, “Đời người như thể phù du/ Sớm còn tối mất công phu lỡ làng...”
Mối quan hệ nhân quả về luân hồi nghiệp báo khẳng định quan điểm cái ảnh hưởng đến quyết
định tương lai của con người là hiện tại, chứ không phải là quá khứ (nhưng cái hiện tại lại là “quả
kiếp nhân duyên”, kết quả của quá khứ). Chính vì vậy, con người, nếu biết nỗ lực đúng hướng sẽ có
khả năng thay đổi mọi số mệnh và định mệnh. Nỗ lực đúng hướng là hãy tu nhân, tích đức ở hiện tại,
người Việt luôn nhắc nhau: “Ai ơi, hãy ở cho lành, kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau”, “Quả
kiếp nhân duyên”, “Làm ác kiếp sau chịu tội”, “Hễ ác giả thì ác báo”, “Hại nhân thì nhân hại”,
“Gieo gió thì gặt bão”, “Cấy ác thì gặt ác”, “Cấy gió, chịu bão”…
Sự đối lập trạng thái giữa thời gian trần tục và thời gian thiêng theo cái nhìn của Phật giáo
có thể hình dung: một bên thì hết sức nhanh, liên tục, là những khoảng khắc thời gian cực ngắn nối
đuôi nhau để đi đến cái tan biến, một bên thì cũng có thể xem là vô trạng thái, nhưng cũng có thể
xem là trạng thái tuyệt đối không thể diễn đạt. Phù trần/ Phù vân, phù du đối lập với Cực lạc/ Tịnh
độ.
4.2.2. Trong tiếp biến Nho giáo
Tuy mang dáng dấp của một tôn giáo nhưng Nho giáo không thể hiện rõ tính chất của tôn
giáo truyền bá đức tin và hướng về thế giới bên kia như bao tôn giáo khác. Bởi nội dung chính của


20


nó vẫn là học thuyết chính trị - đạo đức. Hình thức tôn giáo của nó có được chủ yếu là do nhà nước
xã hội chủ động thần hoá thánh hiền.Ở góc độ tiếp cận của luận án, chúng tôi chỉ đi sâu vào nội dung
triết học của Nho giáo để xem xét có hay không mối quan hệ giữa thời gian tục và thời gian thiêng .
Trong nội dung của Nho giáo nguyên thủy, căn cứ vào những quan điểm thể hiện của Khổng
Tử về mặt tín ngưỡng, thì có thể nhận thấy Nho giáo không quan tâm nhiều về cõi siêu nhiên và cái
chết. Quan điểm của Khổng Tử là “kính quỷ thần nhi viễn chi” (đối với quỷ thần thì tôn kính nhưng
xa lánh), “Chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ thần, “không phải quỷ thần của mình
mà cũng cúng tế là xiểm nịnh”,…thể hiện niềm tin trông cậy vào sức con người chứ không trông cậy
vào sự phù trợ lực lượng siêu nhiên.
“Nhưng mặt khác, Nho giáo và chính Khổng Tử cũng lại tin có Trời. Theo Khổng Tử, Trời
chính là Thượng đế, “Khổng Tử tin rằng Thượng đế là một đấng chủ tể, có nhân cách, ý chí, tình
cảm… “Khổng Tử tin vào Thiên mệnh (mệnh trời), tin rằng “đạo” có “hành” được hay không cũng
là do thiên mệnh. Trong nhân sự, những biến cố xảy ra đều do thiên mệnh.
Như vậy, có thể nhận thấy trong nhận thức của Khổng Tử có cả cái tục và cái thiêng, tuy
nhiên tập trung quan tâm nhiều về cái tục hơn là cái thiêng. Điều này được thể hiện một cách xuyên
suốt, hệ thống trong những suy nghĩ có liên quan đến yếu tố thời gian của Nho giáo
Tiếp nhận những nội dung tinh thần Nho giáo Trung Hoa, trong văn hóa Việt Nam, Nho giáo
cũng có mối quan tâm hàng đầu là thời gian thế tục. Các nhà nho Việt Nam cũng thường trực thể
hiện tâm lý lo lắng trước dòng chảy thời gian quá nhanh. Nguyễn Trãi thấy thời gian nhanh như thoi
đưa:“Chẳng hay rắp rắp đã tư mươi/ Ngày tháng bằng thoi một phút cười”; Nguyễn Bỉnh Khiêm
cảm nhận thời gian vút qua như tên: “Quang cảnh trục nhân, niên tự thỉ/ Nguy thời cứu quốc, mấn
thành ti” (Bóng mặt trời đuổi người, năm tháng nhanh như tên/ Thời nguy nan, lo việc nước, mái tóc
bạc như tơ).
Tư tưởng số mệnh/thiên mệnh của Nho giáo cũng đi vào trong văn hóa Việt Nam, nhất là
trong văn hóa dân gian. Người Việt trong xã hội truyền thống quen nghĩ theo tư tưởng số mệnh, tục
ngữ nói “Chạy chẳng khỏi trời”, “Trăm sự nhờ trời”, “Chữa được bệnh, không chữa được mệnh”,
“Hồng nhan bạc mệnh”, “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại Thiên”, “Số giàu lấy khó cũng giàu/Số
nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo”, “Số giàu trồng lau ra mía, số khó trồng củ tía ra củ nâu”,
“Bôn ba chẳng qua số phận”, “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, “Tốt số bằng bố hay

làm”…Nguyễn Du cũng nói: Trăm năm trong cõi người ta, chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Truyện Kiều), tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống con người là do Thiên mệnh (mệnh trời), cho
nên “Biết sự trời, mười đời chẳng khó”, vì thế mà nảy sinh thuật bói toán và xem số. Cũng chính dân
gian đã châm biếm những ai có thói mê tín quá độ về tư tưởng số mệnh này: “Số cô chẳng giàu thì
nghèo/ Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà/ Số cô có mẹ có cha/ Cha cô đàn bà, mẹ cô đàn ông/ Số
cô có vợ có chồng/ Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.”


21

Trong mối quan hệ giữa thời gian tục và thời gian thiêng, thì phần lớn sự tập trung của con
người theo quan điểm Nho giáo là dành cho thời gian thực tại của cuộc sống, thời gian đời người là
thời gian xã hội với những bổn phận thiêng liêng trong các giềng mối quan hệ xã hội. Thời gian
thiêng vì thế cũng “ẩn” vào ý thức bổn phận, trách nhiệm của con người.
4.2.3. Trong tiếp biến Đạo giáo
So với Nho giáo, hình thức tôn giáo của Đạo giáo rõ ràng hơn, với hệ thống thần tiên, cơ sở
triết học tôn giáo của Đạo gia, những phong trào, tổ chức tôn giáo lan rộng. Tuy nhiên, cơ sở triết
học của Đạo gia mà cụ thể là tư tưởng Lão – Trang vẫn là cái bắt đầu cho sự ra đời và sau này chi
phối tôn chỉ thực hành tôn giáo. Ở góc độ tiếp cận của luận án, chúng tôi chủ yếu quan tâm góc nhìn
triết học tôn giáo của Đạo gia để làm rõ mối tương quan giữa thời gian tục và thời gian thiêng.
Tư tưởng Đạo gia quan niệm trong cuộc đời này, con người, muôn vật đều ngắn ngủi, hữu
hạn, vô nghĩa, chỉ có thiên nhiên vũ trụ là vĩnh hằng, vô hạn. Chỉ có quên mình hữu hạn, hòa mình
vào thiên nhiên, vũ trụ vô cùng, con người mới có được tự do, thư thái. Chính vì vậy thời gian siêu
nhiên tiên cảnh là một dạng đặc thù của thời gian vũ trụ theo quan niệm của Đạo gia. Có thể nhận
thấy sự khác nhau cơ bản trong ứng xử với thời gian của tư tưởng Nho gia và Đạo gia: giữa một bên
lấy thời gian cá nhân làm thời gian xã hội và một bên thì ngược lại, thời gian xã hội chính là thời
gian đáp ứng nhu cầu của cá nhân. Thời gian thiêng liêng cũng gắn với đời sống thế tục, chính là thời
gian siêu nhiên tiên cảnh ngay trongcuộc đời.
Trong giới bình dân Việt Nam, Đạo gia đến gần con người bằng triết lý về lẽ tự nhiên của
“Đạo”. Lão Tử nói “Muôn vật đều cõng âm mà bồng dương”, “khuyết tất sẽ tròn, cong thì sẽ ngay,

trũng lại đầy, cũ thì lại mới, ít thì được, nhiều thì mất” thì dân gian người Việt cũng thấm nhuần tinh
thần “vô vi”, nắm được quy luật “chung nhi phục thủy” (cuối cùng cũng quay lại cái ban đầu):
“Sông lở, cát bồi”, “Của dễ được dễ mất”, “Của thiên trả địa”…Có thể thấy, ứng xử theo lẽ tự
nhiên theo tinh thần Đạo gia cũng là ứng xử theo triết lý âm dương “âm cực sinh dương, dương cực
sinh âm.”. Bên cạnh đó, triết lý thanh nhàn cũng đi vào tâm thức dân gian, con người thường bảo
nhau: “Danh lợi bất như nhàn” (có danh lợi không bằng nhàn), “Nhất nhật thanh nhàn nhất nhật
tiên”.
4.2.4. Trong tiếp biến Thiên Chúa giáo
Có một số khác biệt trong nhận thức thời gian giữa Thiên Chúa giáo và các tôn giáo khác như
Nho, Phật, Đạo. Đó là vấn đề sự sở hữu thời gian, sự phục sinh/tái sinh và ngày cùng tận của thời
gian được tập trung thể hiện trong thế giới quan Thiên Chúa giáo.
Thời gian trong đời sống của người Ki tô hữu cũng là thời gian thần thiêng, do Đấng tối cao
quản lý. Như cõi Niết bàn của Phật giáo, như cõi bồng lai của Đạo giáo, có một thiên đường vĩnh
cửu cho tín đồ Thiên Chúa giáo, nơi đó gọi là “nước Chúa”, “nước Trời”, chỉ có điều họ phải trải qua
điểm cùng tận của thời gian (Ngày tận thế, ngày phán xét) thì mới đến được không – thời gian vĩnh


22

cửu. Và ở thời điểm tận cùng của thời gian trần thế này, sẽ xảy ra hiện tượng Phục sinh, cũng được
thực hiện bởi Thiên Chúa.
Sự phục sinh theo quan điểm Thiên Chúa giáo không chỉ đơn thuần là sự sống lại của những
thể xác nơi nghĩa trang. Nó bao hàm sự tái sáng tạo của Thượng đế, Thiên Chúa với thuộc tính tồn
tại vĩnh cửu, không bị giới hạn bởi cái chết, nên có khả năng giúp đỡ con người vượt qua tính “khả
tử” tự nhiên. Và việc phục sinh đã được thể nghiệm trước hết bởi Chúa. Cùng với giáng sinh, phục
sinh là sự kiện trọng đại nhất trong cuộc đời Chúa Jesus. Khi thể hiện vào trong đời sống tôn giáo,
hai sự kiện này là hai chu kỳ mà năm phụng vụ hướng tới. Theo quan niệm của người Công giáo,
chu kỳ giáng sinh vươn lên từ đêm tối đến ánh sáng (như mùa đông qua mùa xuân) còn phục sinh thì
trong ánh sáng chan hoà (tiết xuân phân), phục sinh như là sự thức dậy của mùa xuân. Đây chính là
dấu vết của quan niệm thời gian nông nghiệp, thời gian chu kỳ.

Khi đối diện với vấn đề cái chết, tâm lý giáo dân cũng đã thấm nhuần ý thức rằng cái chết, đó
là cơ hội được gặp Chúa, là ngày phán xét đến với mỗi người. Trong đời sống đạo hàng ngày, ở nhà
thờ, giáo dân thường được nhắc nhở bằng câu Kinh Thánh: anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút
anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến (ý nói Thiên chúa sẽ lấy đi mạng sống của mình bất cứ lúc
nào). Những bài Phúc âm, bài giảng liên quan đến sự sống và sự chết đã chuẩn bị cho con người luôn
có thái độ sẵn sàng đón nhận cái chết bất cứ lúc nào.
Người Việt theo công giáo ở buổi đầu đã thấm nhuần thế giới quan, nhân sinh quan Thiên
Chúa giáo qua cách thể hiện ngôn ngữ, gọi “chết” là “sinh thì” (giờ lên): hora de ʃubir, (theo Tự điển
Việt – Bồ - La, năm 1651), fato concedere (có giải thích rõ hơn, đó là: số phận đã cho/an bài, chết,
mori, theo Tự điển Taberd (năm 1772/1838). Nghĩa “sinh thì” này chỉ cái chết là lên “nước Chúa”,
giờ lên trời. Với cách hiểu “sinh thì” là “giờ lên”, người Việt công giáo cũng sử dụng các từ “quy
thiên”, “chầu trời” để chỉ cái chết. Bây giờ “sinh thì” không được dùng nghĩa theo này nữa mà được
hiểu là thời/lúc còn sống (sinh/sanh thời).
Cơ sở về một thời gian vĩnh cửu của Chúa đã đặt ra trong nhân sinh quan một đối lập rõ ràng:
thời gian trần thế của con người thì giới hạn, ngắn ngủi, còn thời gian của Chúa thì vĩnh hằng. Thời
gian trần thế thì trôi nhanh, nhưng đó chỉ là sự thể hiện của thời gian hiện tượng, thời gian thần
thiêng thì vĩnh cửu, và đó mới chính là thời gian bản chất
Tiểu kết
Cái thiêng được xem là cơ sở của tình cảm tôn giáo và là hạt nhân của mọi tôn giáo - tín
ngưỡng, phân biệt với cái tục vốn là tất cả những gì thuộc về cuộc sống trần thế, cuộc sống hiện thực
của con người. Cho nên, thời gian thiêng (sacred time/ le temps scaré) là thời gian có liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo, đặt trong mối liên hệ biện chứng với thời gian trần tục (profane time/ le temps
profane), là những gì liên quan đến thời gian trong cuộc sống thế tục của con người.
Chúng tôi nghiên cứu ứng xử với thời gian của người Việt nhìn từ quan hệ giữa thế giới tục
và thế giới thiêng thông qua hai bình diện: trong tín ngưỡng bản địa (thờ hiện tượng tự nhiên và thờ


23

linh hồn con người), và trong tư duy triết học – tôn giáo(của các tôn giáo được tiếp biến như Phật

giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Thiên Chúa giáo).

KẾT LUẬN
Thời gian vốn là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt, vì tính chất thể hiện của nó (vừa cụ thể
vừa trừu tượng, vừa có thể tri giác vừa vô hình, vừa mang đặc tính khách quan vừa được con người
thể nghiệm chủ quan) cũng như vai trò nhiều mặt của nó đối với con người. Chính vì vậy, khi nghiên
cứu về thời gian và văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt, chúng tôi đối diện với một vấn đề
nghiên cứu thú vị nhưng cũng ẩn chứa nhiều thử thách.
Chọn cách tiếp cận nghiên cứu văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt qua ba bình diện
quan hệ (thời gian vũ trụ và thời gian đời người, thời gian cá nhân và thời gian xã hội, thời gian trần
tục và thời gian thiêng), chúng tôi quan niệm rằng con người tồn tại trước hết với tư cách là một sinh
thể tự nhiên, có đời sống gắn bó với môi trường tự nhiên, trong đó trực tiếp gắn bó với thời gian vũ
trụ, và gián tiếp thể hiện mối gắn bó với tự nhiên qua đời sống sinh học của mình. Chính vì vậy, tìm
hiểu ứng xử với thời gian vũ trụ và thời gian đời người là trọng tâm nghiên cứu đầu tiên.
Con người vốn được khu biệt với các sinh vật khác bởi tính xã hội của nó, bên cạnh tư cách là
một sinh thể tự nhiên, con người còn mang tư cách của một sinh thể có đời sống xã hội. Trong đời
sống xã hội của mình, con người luôn tồn tại với hai vai trò có tính chất vừa đối lập vừa thống nhất
với nhau: con người cá nhân và con người xã hội. Nghiên cứu về mối quan hệ ứng xử giữa con người
với thời gian cá nhân và thời gian xã hội, chính vì thế là lựa chọn tiếp theo để có thể nhìn nhận,
khám phá những đặc điểm văn hóa ứng xử của chủ thể người Việt.
Là một sinh thể tự nhiên đồng thời là một sinh thể xã hội, tuy nhiên, tư cách để con người
được khu biệt rõ nhất, là duy nhất đối với các sinh thể khác, đó chính là tư cách con người có đời
sống tâm linh. Chỉ con người mới có đặc tính phân biệt sự đối lập giữa cái thiêng và cái phàm. Do
đó, để trọn vẹn về điểm nhìn xem xét chủ thể người Việt trong văn hóa ứng xử với thời gian, cần
nghiên cứu mối quan hệ này trong tương quan với thời gian trần tục và thời gian thiêng.
Từ góc nhìn văn hóa học, chúng tôi nêu lên một giả thuyết khoa học về đặc điểm văn hóa ứng
xử với thời gian của người Việt, giả định rằng những đặc điểm riêng ấy là hệ quả từ sự ảnh hưởng
của nhiều yếu tố, trong đó hai yếu tố cơ bản là điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Qua nghiên
cứu, vận dụng các lý thuyết tiến hóa luận (Evolutionism), chức năng luận (Functionalism), cấu trúc
luận (Structuralism), sinh thái học văn hóa (Cultural ecology) để tiếp cận, lý giải các vấn đề liên

quan đến văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt, chúng tôi đưa ra các kết luận sau:
(1). Những điều kiện tự nhiên xuất phát từ nền văn hóa nông nghiệp cùng với những điều kiện
xã hội gắn với tiến trình lịch sử và tiếp xúc với các nền văn hóa khu vực và thế giới là hai nguồn tác
nhân chính, ảnh hưởng trực tiếp đến các đặc điểm về giá trị văn hóa ứng xử với thời gian của người


24

Việt. Hệ thống đặc điểm ứng xử này không cố định mà mang tính chất « động », biến đổi không
ngừng từ truyền thống đến hiện đại.
(2). Trước tiên, sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đã tác động trực tiếp đến đặc điểm ứng
xử với thời gian vũ trụ và thời gian đời người của người Việt. Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc chu
kỳ tự nhiên chính là cơ sở để người Việt nhận diện thời gian vũ trụ bằng chu kỳ của mặt trời, trăng,
sao, con nước…Và từ kinh nghiệm nhận diện thời gian tự nhiên, tiếp thu những tri thức nhận diện
thời gian vật lý của khu vực, người Việt tiến đến với những tri thức văn minh của thuật sắp xếp thời
gian sao cho thời gian vật lý (quy ước) trùng khớp với thời gian chu kỳ tự nhiên (phép làm lịch âm
dương, các hình thức phát triển của văn minh đồng hồ). Gắn bó chặt chẽ với môi trường tự nhiên
nông nghiệp nên những kinh nghiệm ứng xử với thời gian tự nhiên được người Việt sử dụng để ứng
xử với chính mình, cho nên tri nhận thời gian đời người cũng dựa vào đặc điểm của thời gian chu kỳ,
đặc điểm của hiện tượng tự nhiên để phản ánh.
(3). Tiếp đến, điều kiện xã hội của một nền văn hóa nông nghiệp đề cao tính cộng đồng đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa ứng xử với thời gian cá nhân và thời gian xã hội của người Việt.
Xã hội nông nghiệp truyền thống với cách ứng xử của văn hóa làng xã, tính “cá nhân” được đặt dưới
tính “xã hội”, cộng đồng nên trong ứng xử với thời gian của người Việt, thời gian cá nhân cũng chịu
sự tác động của thời gian xã hội. Thời gian công việc lấn át thời gian rỗi, con người không có thời
gian cá nhân, thời gian giải trí đúng nghĩa. Thời gian rỗi trong xã hội nông nghiệp truyền thống đan
cài vào thời gian hội hè, lễ tết của cộng đồng. Thời gian rỗi cá nhân thực sự bắt đầu được nhận thức
khi người Việt tiếp xúc văn minh phương Tây. Quá trình phát triển văn minh thời gian rỗi của người
Việt có mối tương tác trực tiếp với sự phát triển văn minh công nghệ, thời gian rỗi ngày càng được
chú trọng, có xu hướng tăng lên phản ánh sự nâng cao chất lượng cuộc sống, thời gian rỗi cá nhân có

xu hướng chuyển từ phạm trù thời gian tự do sang khái niệm thời gian tất yếu (phải có).
Điều kiện xã hội của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước truyền thống, đề cao vai trò của gia
tộc, dòng họ đã tác động vào cách ứng xử với nhận thức dòng chảy thời gian quá khứ - hiện tại tương lai, góp phần tạo cho con người tâm thức ứng xử trọng quá khứ và hiện tại, tâm thức di sản
dòng dõi, chú trọng tương lai gần, định hướng ngắn hạn. Hướng về quá khứ, đặt hiện tại trong mối
nhân quả với quá khứ còn là văn hóa ứng xử chịu ảnh hưởng từ điều kiện xã hội của quốc gia tiếp
biến sâu sắc giá trị văn hóa Phật giáo.
(4). Trong điều kiện tự nhiên và xã hội của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, người Việt trải
qua hai loại hình thời gian mang tính lịch sử của nhân loại là thời gian chu kỳ, gắn với văn minh
nông nghiệp và thời gian tuyến tính gắn với văn minh công nghiệp. Mặc dù đã bước vào xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa nhưng với đặc điểm cơ bản vẫn là xã hội “tam nông” nên loại hình thời gian chu
kỳ vẫn còn rất sâu đậm trong văn hóa ứng xử của người Việt, bên cạnh lối sống văn minh đô thị theo
loại hình thời gian tuyến tính cũng ngày càng mạnh mẽ, phổ biến, thể hiện tốc độ cuộc sống ngày
càng vội vã, gấp gáp.


25

(5). Điều kiện về một xã hội sớm tiếp biến các giá trị tôn giáo - tín ngưỡng của các nền văn
hóa khu vực và thế giới đã mang lại cho người Việt đời sống tôn giáo, tín ngưỡng rất đa dạng, vậy
nên văn hóa ứng xử với thời gian trong thế giới tục và thế giới thiêng của con người cũng mang
nhiều đặc điểm phong phú. Chúng tôi chọn lọc những biểu hiện ứng xử trong một số tín ngưỡng, tôn
giáo như: thờ hiện tượng tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, tư duy triết học tôn giáo của Nho - Phật - Đạo và
Thiên Chúa giáo. Trong thế giới tâm linh con người, kiểu thức ứng xử giữa thời gian tục và thời gian
thiêng là khác nhau, những đặc điểm khác nhau đó vừa phản ánh nguồn giao lưu văn hóa phong phú,
đa dạng vừa phản ánh sự chủ động sáng tạo, tiếp biến có chọn lọc, xây dựng nên những giá trị văn
hóa ứng xử phù hợp với hoàn cảnh của chủ thể văn hóa Việt. Những ý thức thần thiêng trong ứng xử
với thời gian có từ ý thức tập thể của dân tộc ngàn năm, trăm năm trước, bây giờ vẫn nó sống trong
dòng chảy văn hóa hiện đại nhưng dưới dạng vô thức tập thể.
Tóm lại, qua quá trình khảo sát, nghiên cứu văn hóa thời gian của người Việt từ ba bình diện
quan hệ ứng xử như trên, chúng tôi rút ra một số nhận định như sau:

(1). Người Việt có một hệ thống văn hóa ứng xử với thời gian hết sức phong phú.
(2). Trong đặc điểm ứng xử với thời gian, văn hóa người Việt gắn bó nhiều với thời gian chu
kỳ nhưng ngày càng thể hiện sâu sắc đặc điểm của thời gian tuyến tính. Hai kiểu ứng xử với thời
gian này khác cơ bản về tính chất, kiểu thức nhưng cùng vận hành trong đời sống xã hội Việt Nam,
nên gây ra những tương tác nhất định, theo cả hai chiều hướng là bất cập, cản trở sự phát triển và
thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển. Sự vận hành ứng xử với thời gian cũng là sự vận hành phát triển xã
hội: một bên là thời gian luân chuyển thường hằng của vũ trụ mà con người hòa nhập, nương theo;
một bên là thời gian xã hội mà ở đó con người vừa xây dựng những quy phạm vừa luôn có khát vọng
vượt thoát chúng để tiến về phía trước.
(3). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi trích xuất ra từ hệ thống đặc điểm văn hóa ứng xử
với thời gian của người Việt một số dấu hiệu có thể nhận diện kiểu văn hóa ứng xử với thời gian của
nền văn hóa này là: chấp nhận định mệnh; tính di sản dòng dõi; hướng về quá khứ; kiên trì, nhẫn nại
đồng thời nôn nóng, vội vã; cần cù, khẩn trương đồng thời chừng mực, cầm chừng; xã hội lấn át cá
nhân song song cá nhân muốn vượt khỏi quy chuẩn xã hội.
(4). Ở tọa độ của nền văn hóa Việt Nam, điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các vùng Nam –
Trung - Bắc có những sự khác nhau cơ bản, đặc biệt là giữa Bắc Bộ và Nam Bộ (nếu theo kiểu phân
vùng nhị phân) nên đặc điểm ứng xử với thời gian của người Việt ở Bắc Bộ và Nam Bộ cũng có
những đồng nhất và khác biệt nhất định.
(5). Hiện nay, khi chuyển từ xã hội “tam nông” sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu
hóa, văn hóa ứng xử với thời gian của người Việt truyền thống có những điểm tích cực cần phát huy
nhưng cũng có những điểm hạn chế cần khắc phục để có thể phù hợp với xu thế phát triển của đất
nước.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy một số giá trị ứng xử tích cực cần phát huy như sau:


×