Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Lịch sử 9 chúa 13 vua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.68 KB, 29 trang )

Chín Chúa, Mười Ba Vua
I. Chín chúa:
1. Chúa Nguyễn Hoàng còn gọi là Chúa Tiên (1558-1613).
Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa
Nguyễn Kim có hai con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cùng làm tướng lập
được nhiều công trạng. Trịnh Kiểm là anh rể sợ họ Nguyễn tranh giành mới tìm cách
giết Nguyễn Uông đi. Nguyễn Hoàng sợ vạ lây, nhưng không nghĩ ra cách gì bèn sai
người đem vàng bạc làm lễ vật biếu quan nhà Mạc đã hưu trí là Trình quốc Công
Nguyễn Bỉnh Khiêm để hỏi kế giữ thân. Trình Quốc Công lấy giấy bút viết 8 chữ giao
cho người tâm phúc của Nguyễn Hoàng đem về. Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng mở
thư đọc, thấy 8 chữ "Hoành son nhất đái, vạn đại dung thân" (Hoành sơn một giải, dung
thân muôn đời).
Hiểu được ý nghĩa của lời chỉ bảo, Nguyễn Hoàng cầu cứu với chị là Ngọc Bảo, xin
Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.
Năm Mậu Ngọ (1558) đời vua Anh Tông, Trịnh Kiểm mới thuận, tâu vua cho Nguyễn
Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống Sơn cùng
quân lính ở đất Thanh Nghệ nhiều người đưa cả vợ con đi theo, khoảng một ngàn quân
sĩ. Đầu tiên Nguyễn Hoàng vào đóng ở xã ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng
Trị và bắt đầu thu phục nhân tâm, rộng ban ơn đức, anh hùng hào kiệt hấp nơi kéo nhau
về giúp. Họ Nguyễn bắt đầu khởi nghiệp và bành trướng ở xứ Đàng Trong.
Khi nên trời cũng chiều người
Khi Nguyễn Hoàng rời đất Bắc, vào đóng dinh ở đất ái Tử, tướng Lập Bạo của nhà Mạc
đem một toán quân đi 60 chiến thuyền, theo đường hải đạo vào đóng ở làng Hồ Xá và ở
làng Lạng Uyển, thuộc huyện Minh Linh, để đánh Nguyễn Hoàng. Hai bên đánh nhau
nhiều lần chưa phân thắng bại. Một đêm chúa Nguyễn đang đóng binh bên bờ sông,
nghe dưới sông có tiếng trảo trảo, Chúa lấy làm lạ ra xem thì thấy sóng gió rất hãi hùng.
Nhân đó chúa quỳ xuống khấn nguyện rằng : Thần sông linh thiêng thì cố giúp ta trừ
giặc. Đêm hôm ấy chúa nằm mộng thấy một người đàn bà sắc đẹp lộng lẫy, dáng dấp
uyển chuyển nhẹ nhàng đi lại gần chúa và bảo rằng: "Nhà ngươi hãy dùng mỹ nhân kế
mới thắng được giặc". Thức dậy, Chúa vui mừng vì được điềm lành. Bỗng nàng hầu
Ngô Thị mang nước vào cho chúa. Nàng cũng xinh đẹp khác thường. Chúa liền sai Ngô


thị dùng mỹ nhân kế để giết Lập Bạo. Về phần Lập Bạo, y dương dương tự đắc vì thấy
chúa Nguyễn không làm gì được mình, nên chè chén, hát xướng suốt ngày. Đang ngất
ngưởng, Lập Bạo thấy nàng Ngô Thị sắc nước hương trời mang lễ vật và thư giảng hòa
của Chúa Nguyễn xin vào yết kiến. Lập Bạo vốn là người hiếu sắc, thấy Ngô Thi liếc
mắt đưa tình, nên bị mê hoặc đồng ý để hai bên giảng hòa trong một thời gian. Được
việc, Ngô Thị xin cáo lui, nhưng đi mà đôi mắt Ngô Thị không rời Lập Bảo. Nàng cứ
liếc mắt đưa tình ra chiều lả lơi. Bạo vội vàng đi theo nhưng không thể nào bắt kịp Ngô
Thị. Cứ thế đến chỗ phục binh của chúa Nguyễn, một phát súng lệnh nổ, quân mai phục
tỏa ra. Lập Bạo biết mắc mưu liền lao nhanh xuống nước. Nhưng y lặn đến đâu trên mặt
nước có con chim chài cá kêu vang bay theo đến đó. Quân Chúa Nguyễn nhờ vậy mà
theo dõi được đường bơi của Lập Bạo. Lập Bạo lặn mãi cho đến làng Vân Trình cuối
sông Vĩnh định mới nổi lên. Quan quân Chúa Nguyễn giết được vô số quân Mạc.
Để tưởng nhớ ơn sâu của thủy thần giúp, Chúa Nguyễn cho lập đền thờ ngay tại làng ái
Tử và phong là Trảo Trảo Linh Thu Phổ Trạch Tướng Hiệu Phu Nhân. Miếu Trảo Trảo
rất linh ứng được nhân dân lo hương khói hàng năm.
2. Chúa Nguyễn Phước Nguyên còn gọi là Chúa Sãi (1613-1635)
Buổi đầu chúa tôi tương ngộ
Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng "Đất
Thuận Quảng này bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi
Hải Vân và núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dựng võ. Vậy ta phải
thương yêu nhân dân, luyện tập binh sĩ mới gây dựng cơ nghiệp muôn đời".
Nguyễn Phúc Nguyên khóc mà bái tạ lãnh mạng. Bấy giờ Thụy Quân Công 51 tuổi lên
nối ngôi, tên hiệu là Sãi Vương. Vương cho dời cung phủ về xã Phúc Yên, huyện Quảng
Điền, ngày đêm lo việc chính sự, thu dụng nhân tài. Quan khám lý Trần Đức Hòa tiến
cử Đào Duy Từ trong cơ hội đó. Sự kiện kiến Đào Duy Từ với chúa Sãi trở thành một
giai thoại.
Sau khi được sự chấp thuận của chúa Sãi, cách mấy tháng sau, Trần Đức Hòa cùng đi
với Duy Từ ra công phủ chờ đợi. Đức Hòa sắm mũ chầu cho Duy Từ đội để cho đầy đủ
nghi thức tiến dẫn, nhưng Duy Từ gạt đi. Có chức thì mới có mũ đội, không có chức thì
không dám đội mũ. Rỗi cứ để đầu trần đi vào phủ chúa.

Bấy giờ chúa Sãi đang ngồi trên điện, nghĩ ngợi tìm cách thử tài Duy Từ. Chúa mặc áo
trắng, đi hài xanh, tay cầm long trượng, vai khoác tủi vải. Khi thấy Duy Từ tiến vào, bèn
ra ngoài cửa đứng chờ, nét mặt vui vẻ rạng rỡ. Duy Từ khẽ hỏi Đức Hòa:
Người là ai vậy, thưa cha?
Quan khám lý khẽ đáp:
- Vương thượng đấy,con mau đến lạy chào.
Duy Từ nghe nói thế chỉ cười nhạt, không chịu đến chào rồi rảo chân bước đi ra, gần ra
khỏi sân, Đức Hoa đuổi kịp trách rằng:
- Chúa ngự ra đây để đợi, sao con không lạy chào. Con không chịu lạy thì tội tất phải
qui vào ta thôi.
Duy Từ đáp:
- Đây là tư thế của Vương Thượng lúc sắp đi dạo chơi với bọn con gái, không phải là
nghi lễ tiếp khách đãi hiền. Nếu con lạy chào tức là phạm tội khi quân, vì thế không dám
lạy, có tội gì đâu? Khám lý nghe vậy phát gắt, thúc giục đến lạy chào nhưng Duy Từ
vẫn đứng yên một chỗ. Thế là Sãi Vương biết ý, trở vào trong phủ sửa sang áo mũ, lên
ngồi ở công đường sai nội giám lấy áo mũ quan văn đem ra ban cho Duy Từ rồi mới vào
sảng đường bái yết. Duy Từ lúc ấy mới cùng đi với viên nội giám vào trong sảnh bái
kiến Sãi Vương. Chúa tôi đàm đạo tương đắc. Từ đó Sãi Vương thường gọi Duy Từ vào
phòng riêng, bàn mưu kế chống nhau với chúa Trịnh, xây dựng quốc gia, có khi bàn
suốt cả ngày không biết chán.
Bài thơ trong mâm hai đáy
Năm Đinh Mão (1627), Trịnh Tráng sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà vua sai vào
đòi tiền thuế từ 3 năm trước. Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng
lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra chầu và lấy 30 con voi cùng 30
chiếc thuyền để đưa cống nhà Minh.
Nhận được sắc phong, chúa Sãi họp triều thần hỏi mưu kế. Đào Duy Từ dâng kế, cho
người làm một cái mâm hai đáy, trên sắp sản vật, giữa để sắc thư, lại cử Lai Văn
Khuông làm chánh sứ đưa phẩm vật ra tạ ơn chúa Trịnh.
Nhờ đã được chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Văn Khuông ứng
đối khá trôi chảy.

Chúa hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn đi thăm kinh thành để chờ chúa dạy
bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang mà Đào Duy Từ trao cho từ trước. Sau
khi đọc cẩm nang, Khuông cùng cả phái đoàn lẻ trốn về Nam. Thấy phái đoàn đột ngột
trốn về, Chúa Trịnh nghi hoặc, bèn cho người đập vỡ mâm mới thấy tờ sắc trước, và
một bài thơ 4 câu, mỗi câu bốn chữ như sau:
Mâu nhi vô địch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch.
Triều thần không ai hiểu ý nghĩa. Trịnh Tráng phải nhờ trạng Bùng Phùng Khắc Khoan
giải mã. Đọc xong Phùng Khắc Khoan giải thích.
Đây là lối chơi chữ của Đào duy Từ, chữ mâu không có dấu phẩy là chữ dư, Chữ mịch
không thấy chữ kiến thì còn chữ bất, chữ ái rơi chữ tâm thành chữ thụ, chữ lực cùng đối
địch với chữ lai thi thành chữ sắc. Vậy ý nghĩa của bài thơ 4 câu trên là "Dư bất thụ sắc"
tức là "Ta không nhận sắc". Nghe xong, Trịnh Trạng vội cho người tìm bắt Văn
Khuông, nhưng Khuông đã cao chạy xa bay rồi.
Trạng muốn phát binh vào đánh, gặp Cao Bằng và Hải Dương có giặc, bèn thôi.
Văn Khuông về đến nơi, Chúa mừng lắm nói rằng:"Duy Từ là Tử Phòng và Khổng
Minh ngày nay", thưởng cho rất hậu, lại cho Văn Khuông thăng Cai Hợp.
3. Chúa Nguyễn Phước Lan còn gọi là Chúa Thượng (1635-1648)
Tranh giành ngôi báu
Năm ất Hợi (1635) cháu Sãi mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp gọi là chúa
Thượng.
Nghe tin chúa Thượng nối nghiệp, hoàng tử thứ ba là Nguyễn Phúc Anh đang trấn giữ ở
Quảng Nam âm mưu phản nghịch. Phúc Anh viết thư sai người mật ra Bắc, yêu cầu
chúa Trịnh đem quân vào đánh, Anh sẽ tiếp tay. Lại mời ký lục Vân Hiên hiến kế đắp
lũy Câu Đê làm kế cố thủ. Xuống lệnh cấm ở các cửa biển không cho dân chúng ra vào.
Lại sai tướng Khang Lộc tiết chế thủy bộ quân làm tiên phong đem quân rải đóng ở cửa
biển Đà Naüng, không chịu về triều nhận lệnh. Riêng Phúc Anh tự mình đem quân đến
đóng đồn ở lũy Câu Đê để xem thế đánh giữ.

Chúa Thượng nghe tin, cả giận bèn mới chú là Tường Quận Công Nguyễn Phúc Khê
vào phủ khóc bảo rằng:
"Cháu với Dương Nghĩa hầu (chỉ Phúc Anh) là anh em cùng cha một mẹ sinh ra, chung
gốc liền cành, hoạn nạn giúp nhau, phú quý cùng hưởng. Ai ngờ Dương Nghĩa manh
tâm tiếm đoạt phản nghịch, giết hại dân chúng trong miền. Cháu muốn nhường ngôi cho
hắn để khỏi sinh sự tranh giành không biết có nên chăng? Mong tôn thúc liệu xét cho".
Nguyễn Phúc Khê nghe xong bừng bừng tức giận nói:
"Dương Nghĩa là đồ lục sục không nghĩ gì đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Nay
hắn đã dấy binh làm loạn, tội khó dung tha còn phải hồ nghi gì nữa." Bèn sai tướng đem
quân lên đường. Hai bên xáp chiến một trận bất phân thắng bại. Cai đội bộ binh, tước
Dương Sơn và Công tôn Tuyên lộc bất ngờ đem quân đánh qua cửa Hải Vân, tiến vào
Quảng Nam.
Dương Sơn vào trước trong doanh trại của Dương Nghĩa hầu thu được quyển sổ "Đồng
tâm hướng thuận". (cùng lòng theo về) chép tên họ các quan văn võ và dân chúng ước
khoảng vài trăm người, trên hơn 10 tờ giấy. Suy đi nghĩ lại Dương Sơn xé bỏ khoảng
5,6 tờ. Tiếp đến Tuyên Lộc phóng hỏa thiêu cháy trại quân của Dương Nghĩa. Dương
Nghĩa chạy trốn về phía cửa biển Đại Chiêm. Tuyên Lộc đuổi bắt được, đóng gông giải
về.
Đến khi luận tội Phúc Anh nằm rạp xuống kêu oan. Chúa Thượng không nở ra lệnh giết.
Nguyễn Phúc Khê tâu:
"Anh là kẻ phản nghịch, tội rất lớn, xin cứ phép gia hình để răn bọn loạn tặc"
Chúa dù đau xót phải nghe theo.
Chuỗi hoa tình ái
Tống Thị, vợ của Hữu Phủ Khánh Mỹ, trấn thủ ở Quảng Nam là người có nhan sắc hoa
nhường, nguyệt thẹn. Khánh Mỹ chết sớm, Tống Thị có dịp ra vào phủ chúa, ý muốn tư
tình với Thượng Vương nhưng Vương không chú ý đến. Tống Thị về xâu một chuỗi hoa
như vòng ngọc liên châu rất đẹp, sai người đêm đến dâng cho chúa. Chúa cầm lên ngửi
thấy mùi hương thơm ngát xúc động lòng yêu. Từ đó, chúa đem lòng thương yêu Tống
thị.
Năm Kỷ Mão (1639) Tống Thị thân vào phủ chúa chầu hầu. Nàng sụp lạy dưới thềm,

thưa trình về tình cảnh góa bụa thảm thiết, nhan sắc lại cực kỳ diễm lệ. Chúa Thượng
nổi tình riêng, sau đó mời nàng vào nội thất chung chăn gối.
Từ đó, chúa hết mực sùng ái Tống Thị. Nàng trình bẩm việc gì, chúa cũng nghe theo.
Tống Thị lựa lời khéo léo để chúa vui lòng, nghĩ cách chiếm đoạt của cải của dân để
làm giàu riêng. Các quan đại thần căm ghét Tống Thị, tìm cách can gián nhưng chúa
không nghe. Cho hay, nhan sắc phái đẹp quả là có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả
đấng quân Vương dũng cảm, sáng suốt. Sau này Phúc Lan trúng độc Tống Thị mà chết.
Chiến công vang dội
Làm vua được 9 năm vị Chúa đa tình này lập được chiến công vang dội. Lần đầu tiên
trong lịch sử thủy chiến, thủy quân Việt Nam đã đánh thắng thủy quân Âu Châu.
Năm 1643, Hòa Lan theo lời yêu cầu của chúa Trịnh cho 3 chiếc tàu đồng kiểu tròn, võ
trang nhiều trọng pháo tiến vào cửa Eo (Thuận An) mưu đồ xâm lược.
Chúa Thượng họp quần thần bàn định nên đưa chiến thuyền của mình ra đánh tàu Hoa
Lan hay không. Vì chưa bao giờ xáp chiến với Tây Dương, nên quần thần không dám
hứa chắc là thắng. Lúc ấy Chúa hỏi một người Hòa Lan giúp việc quân sư cho Chúa,
người ấy tự phụ trả lời:
"Tàu Hòa Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi."
Nghe vậy, chúa cảm thấy bị xúc phạm. Ông thân hành đến cửa Eo, ra lệnh cho thủy
quân chèo thuyền ra đánh thẳng vào 3 chiếc tàu của Hòa Lan.
Hàng trăm chiếc thuyền Việt Nam xông thẳng vào các chiếc tàu Hòa Lan, mặc đại bác
bắn ra như mưa.
Bốn mặt tàu Hòa Lan đều bị tấn công. Nhờ thuyền nhỏ, cơ động nhanh nhẹn nên mặc dù
bị một số đạn, tàu Việt Nam vẫn bao vây tấn công vào tàu Hòa Lan quyết liệt. Chúng vô
cùng kinh hoàng không ngờ thủy quân chúa Nguyễn gan dạ đến thế. Chiếc nhỏ nhất vội
luồn lách chạy thoát thân. Chiếc thứ hai thảng thốt đâm vào đá, cả thủy thủ đoàn và tàu
chìm nghỉm xuống biển. Chiếc thứ ba lớn nhất chống cự lại. Các thủy quân Nguyễn bám
sát tàu, bẻ bánh lái. Một số nhảy lên tàu, chặt gãy cột buồm. Bị dồn vào thế tuyệt vọng,
thuyền trưởng Hòa Lan cho nổ kho thuốc súng. Thế là tất cả thủy thủ bị hỏa thiêu, chết
la liệt trên biển. Có 7 tên nhảy xuống biển, cố bơi thoát nhưng đều bị tóm cổ.
Thắng trận trở về, chúa Thượng dẫn 7 tù binh đến trước mặt người Hòa Lan nói:

- Cần chi mãnh lực và quân đội của trời mới phá được. Chiến thuyền của ta cũng khá
đấy chứ.
4. Chúa Nguyễn Phước Tần còn gọi là Chúa Hiền (1648-1687)
Chiến tướng khi còn thế tử
Khi chưa lên ngôi Nguyễn Phúc Tần là một chiến tướng. Suốt thời gian làm chúa, ông
đánh nhau với Trịnh nhiều phen.
Trước khi lên ngôi vài tháng, Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến quận Công là Lê Văn Hiểu
(có nơi chép là Hàn Tiến) đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam. Bộ binh đóng ở đất
Nam Bố Chính; còn thủy quân thì đánh vào cửa Nhật Lệ.
Bấy giờ hai cha con Trương Phúc Phấn quyết tâm ra sức giữ Lũy trường Dục, quân
Trịnh đánh mãi không tiến lên được.
5. Chúa Nguyễn Phúc Trân còn gọi là Chúa Nghĩa (1687-1691)
Người chọn Phú Xuân làm đất kinh thành.
Người đời sau nhắc đến Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trân là nhờ chúa đã dời phủ từ Kim
Long về Phú Xuân, địa thế bằng phẳng, đẹp đẽ, tiếp nối nhiều đời chọn làm kinh đô.
Việc lập dinh định phủ có từ lúc Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận Hóa thì đóng
dinh ở ái Tử (thuộc huyện Đăng Xương, gần tỉnh lî Quảng Trị). 13 năm sau (1570) lại
dời vào Trà Bát ở huyện ấy tức là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi khắp
nơi chống nhau với Chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc An (huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên). Năm Bính Tý (1636) chúa Thượng lại dời phủ vào Kim Long (huyện
Hương Trà), tỉnh Thừa Thiên. Năm Đinh Mão (1687) chúa Nghĩa đem phủ về làng Phú
Xuân, là đất kinh thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái tông miếu
thờ chúa Hiền.
6. Chúa Nguyễn Phước Chu còn gọi là Minh Vương (1691 - 1725)
Vị Chúa mộ đạo
Chúa Nguyễn Phúc Chu là chúa mộ đạo Phật. Năm 1710 Chúa sai đúc chuông lớn.
Chuông đồng này cân nặng 3.285 cân, đặt trong một lầu chuông rộng lớn ở chùa Thiên
Mụ, cúng Tam Bảo. Năm Giáp Ngọc 23 (1714) trùng tu nhà chùa. ất Mùi năm 24 (1715)
cho dựng bia đá cao lớn, dày dặn, dựng trên lưng một con rùa bằng đá, đối diện trước
chuông đồng trước cửa Thiên Mụ, ngự chế bài văn bia đá, chúa lại mời hòa thượng

Thích Đại Sán, một lão tăng Trung Quốc sang Thuận Hóa giảng đạo. Lão tăng đã ở
chùa Thiên Lâm hơn 5 tháng vào đầu năm 1695), rồi vào Hội An, về Quảng Đông. Tại
Hội An, Đại Sán bị đau ốm, tàu trở gió nên phải hoãn cuộc hành trình. Đại Sán ra Thuận
Hóa lần nữa vào ngày 22 tháng 11. Lần này Đại Sán trú tại chùa Thiên Mụ rồi cuối hạ
tuần tháng 6 năm sau mới về Trung Quốc. Những điều mắt thấy tai nghe, Đại Sán ghi
vào sách "Hải ngoại kỷ sự". Mục "Đàn chay" Đại Sán ghi lại cho ta thấy phần nào tính
cách Quốc Chúa.
... Ngày 1 tháng 4 thuyền Sa - Nhi - Giới, Quốc Vương mở đàn chay, dâng lễ, tự mình
đến thắp hương, mời ta thượng đàn thuyết pháp.
Trước đó một ngày, dọp dẹp đường sá. Từ sáng sớm có đội quân mão đỏ đẹp đường bắt
người ta phải tránh xa ngoài một hai dặm. Đạo ngự đi có người theo hầu tả hữu, đều
cầm kim đao, kim thương dài năm sáu thước (khoảng 2 thước tây). Quốc Vương ngồi
trên kiệu Ly Điền giống hình con lừa. Quân khiêng kiệu 16 người, toàn người cao lớn,
xõa tóc, mình trần chỉ có một sợi dây thắt ngang lưng, treo một vuông vải trước quấn lại
cột chéo ra sau lưng (...) Quốc Vương đội mão xung thiên cánh chuồn, mặc đạo bào
màu huyền, đi giày nhung, không mang bít tất, vào đền thắp hương lễ phật. Đoạn đi
quanh đàn chay, xem xét trần thiết, cả mừng than rằng:ô May có lão hòa thượng đến
đây, mới được thấy pháp môn quảng địa trang nghiêm như vậy.
Vương tiến vào phương trượng tham kiến. Quốc cậu mặc áo mãng bào, cầm kim đao
đứng hầu. Nhà Chúa dâng trà quả cơm chay đều không dùng, đã có nội giám đem trà để
ngự dụng. Trong câu chuyện, phần nhiều nói về việc Phật....
Ngoài vách chùa, quân lính đứng dày hai lớp. Lớp ngoài toàn người cao lớn râu ria, ai
râu ít thì kẻ thêm râu giả, đội mão bằng gỗ đỏ, cầm kim thương đứng thẳng khít rịt. Lớp
trong toàn thanh niên mạnh mẽ, chít khăn đà la ni đỏ, mặc áo nhung lục, cầm kim đao,
cũng đứng như lớp ngoài. Cán dao và cán thương đều sơn màu anh đào. Mỗi khi Quốc
Vương trong điện bước ra, quân lính đều xoay mặt ngó vào. Quốc Vương đi vào thì sắp
hàng đứng hai bên đối diện nhau rất thẳng. Ngoài giậu có vài nghìn quân, thế mà ngự
tọa lặng thinh, chỉ nghe tiếng chim kêu lá rụng mà thôi.
Hát tuồng trong dinh Chúa
Không những chúa Nguyễn Phúc Chu là một người mộ đạo phật, mà chúa cũng là người

có tâm hồn nghệ sĩ, biết thưởng thức ca vũ nhạc và tuồng. Chính chúa là một tay đánh
trống tuồng lão luyện vào thế kỷ XVII. Thích Đại Sán đã ghi lại trong ọ Hải ngoại ký sự
những nhận xét của ông như sau:
Cơm nước xong (...) kế khiến gọi ra bốn năm mươi cung nữ, người nào cũng thoa son
đánh phấn, bận áo hoa màu lục dài phết đất, đội mão vàng... ra múa hát. Diễn tuồng
xong nhà vua lấy ra năm mươi đồng tiền giao cho ta bảo thưởng cho tiểu hầu (...).
Trong tiệc có diễn kịch, Quốc vương dắt bọn tiểu hầu đến, dọn lại bàn tiệc, nhường cho
bọn tiểu hầu của vương hát trước. Trong cuộc hát, chủ nhân đặt một cái trống lớn (trống
chầu - TTB chú) bên sân khấu, thỉnh thoảng điểm 2,3 tiếng trống cũng có ý nghĩa như
gõ nhịp thuở xưa vậy. Ngày ấy vua rất cao hứng, tự đánh trống điểm nhịp cho bọn hát,
thanh điệu lạ lùng, bộ tịch đường lối cũng khác, người trong tiệc ngồi xem cũng rất thú
vị.
Căn cứ vào sự kiện diễn tuồng mà Thích Đại Sán ghi lại ở dinh chúa Nguyễn, một số
nhà nghiên cứu tuồng cho rằng, vào thế kỷ XVII, tuồng đã định hình ở Việt Nam.
7. Chúa Nguyễn Phước Thụ còn gọi là Ninh Vương (1725-1739)
Người sát nhập đất Gia Định vào Việt Nam
Chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, con trưởng là Phúc Trú nói nghiệp, tự xưng là Tiết
Chế thủy bộ chư dinh, Thái phó Đỉnh Quốc Công, tự hiệu là Vân Tuyền đạo nhân Công
lớn của cháu Nguyễn Phúc Trú là đưa đất Gia Định về Việt Nam. Vào năm Long Đức
thứ 1 (1732), Nhâm Tý, chúa sai tướng đi đánh Cao Miên, lấy đất Sài Gòn, lập dinh
Long Hồ Châu Đinh Viễn.
Y tông Vĩnh Hựu năm thứ 4 (1738), Mậu Ngọ Phúc Trú qua đời, coi việc nước được 13
năm, thọ 43 tuổi, đặt thụy riêng là Đại nguyên súy Tổng quốc chính Tuyên đạt Vương,
chỉ có 3 con.
Đất Gia định màu mỡ, nhập vào miền Nam nước Việt Nam cũng nhờ công lao của chúa
Nguyễn Phúc Trú vậy.
8. Chúa Nguyễn Phúc Khoát còn gọi là Võ Vương (1739-1765)
Những trang đầu của lịch sử áo dài
Chiếc áo dài tha thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá trình phát triển. Nó được
hình thành từ đời cháu Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên cháu Nguyễn Phúc Khoát nghe

người Nghệ An truyền câu sấm: Bát đại thời hoàn Trung nguyên (tám đời trở về trung
nguyên), thấy từ đoạn Quốc Công đến nay vừa đúng 8 đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo
mũ trong Tam tài đồ hội làm kiểu (...) lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng quần áo
Bắc quốc để bày tỏ sự biến đổi, khiến phụ nữ bận áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thì
Bắc không có thế.
Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục
riêng để phân biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
"Y phụ bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục,
nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cõi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong
tục cũng nên thống nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người khác thì nên đổi
theo thể chế của nước nhà. Đội may y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải lụa,
duy có quan chức thì mới cho dùng xen the, là, trừu đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa
rồng phượng thì nhất thiết không được quen thói cũ dùng càn. Thường phục thì đàn ông,
đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. áo thì từ hai
bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mở, duy đàn ông không muốn mặc
áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay
dài, vải xanh chàm hoặc vài đen, hay vải trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót
thì đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà chế dùng."
Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đã được ra đời, dù ban đầu còn thô sơ, nhưng kín
đáo. Nó là sản phẩm mang màu sắc dung hòa Bắc Nam. Cũng ở thời Nguyễn Phúc
Khoát, phụ nữ đã biết trang điểm, thêu thùa hoa lá quanh cổ áo để tăng vẻ đẹp, hàng vải
khá tốt và tinh xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương, địa, the là hàng hoa được
mặc vào ngày thường, áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang lịch sử đầu cho chiếc áo dài.
Thuận hóa giàu đẹp
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Thuận Hóa được trải qua một thời gian bình yên
nên công tư đều dồi dào về vật chất, cảnh xây dựng xa hoa phô bày. Lê Quý Đôn đã mô
tả Quan viên nhà cửa không ai là không nhà cửa trạm gọt, tường vách gạch đá, the màn
trướng đoạn, đồ đã đồng thau, bàn ghế gỗ đàn gỗ trắc, chén mâm đồ sứ đồ hoa, yên
cương vang bạc, y phục gấm vóc, chiếu đệm mây hoa, phú úy phong lưu đua nhau khoe

đẹp (...). Binh sĩ đều ngồi chiếu mây, dựa quả tựa hoa, ôm lò hương cổ,hãm chè hảo
hạng, uống chén sứ bịt bạc và nhổ ống nhổ thau, đãi bát ăn uống thì không cái gì là
không phải hàng Bắc, một bữa cơm ba bát lớn. Đàn bà con gái thì đêu mặc áo the là và
hàng hoa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi vàng bạc như cát, gạo như bùn, xa xỉ rất mực.
Cảnh sắc thật huy hoàng, rực rỡ, nhộn nhịp đông vui;
Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi tên đề biển, có hai điện Kim Hoa, Quang
Hoa có các nhà Tụ Lạc, Chính Quang, Trung Hòa, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao
Trì, các Triêu Dương, các Quan Thiên, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, an Nội Viên,
đình Giáng Hương, công đường, trường học và trường súng. ở thượng lưu về bờ nam có
phủ Dương Xuân và phủ Cam. ở trên nữa có phủ Tập Tượng, lại dựng điện Trường Lạc,
hiên Duyệt võ, mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn
bề, chạm khắc vẽ vời, khéo léo cùng cực. Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền
kiền, những máng xối đều làm bằng kẽm để hứng nước, trồng xen cây cối, cây vải cây
mít đều to mấy ôm.
Vườn sau thì núi gả đá quý, ao vuông hào quanh, cầu vòng thủy tạ, tường trong tường
ngoài đều xây dày mấy thước, lấy voi và mảnh sứ đắp thành hình rồng phượng, lân hổ,
cỏ hoa. ở thượng lưu và hạ lưu Chính dinh đều là nhá quán bày hàng như bàn cờ. Những
nhà của thủy quân lại ở đối ngạn. Xưởng thuyền và kho thóc thì ở các xã Hà Khê, Thọ
Khang trên thượng lưu. Còn nhà vườn của các công hầu quyền quý thì chia bày ở hai
bên bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu phủ Cam. ở
thượng lưu, hạ lưu phía trước Chính dinh thì phố chợ liền nhau, đường cái đi ở giữa,
nhà cửa chia khoảng tiếp nhau, đều là mái ngói. Cây to bóng mát, tả hữu thành hàng.
Thuyền buôn bán, đò dọc ngang, đi lại như mắc cửi.
9. Chúa Nguyễn Phúc Thuần còn gọi là Định Vương (1765-1777)
Biến loạn trong triều đình .
Hiếu Võ, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát có 15 người con, con trưởng là Phúc Hiệu,
xưng là Đức mụ, chết sớm, thứ là Chưởng Võ và Chưởng Văn, Phúc Khoát và mẹ Phúc
Thuần là anh em đồng đường, cho nên Phúc Thuần được nuôi ở hậu cung, không lập
làm kế tự. Con Đức mụ là Phúc Dương, gọi là Chi Dương, Phúc Khoát cũng không lập,
muốn lập Chưởng Võ, bèn cho nội hữu ý Đức Hầu giữ nuôi. Năm ất Dậu, tháng 5, Phúc

Khoát mất, thái giám Chữ Đức Hầu và nội tả Thân Kinh Hầu làm di mệnh giả cho ngoại
tả Trương Phúc Loan lấy Phúc Thuần làm kế tự, bắt giam Chưởng Võ và giết ý Đức
Hầu. Em Phúc Khoát là Thường Quận Công tên là Chưởng Vàng Bị Trương Phúc Loan
ghét, sai người vu cho tội mưu phản, xét không có hình tích, lấy một khẩu súng riêng
làm chứng, bỏ tù mấy năm, phát bệnh ung thư ở lưng mà chết. Năm Quý Tựu, Nguyễn
Văn Nhạc khởi nghĩa, gửi thư cho tham mưu tá và giả làm lời của Phúc Loan ngầm sai
nổi loạn. Tham mưu tá đem báo cho Chưởng Văn, Văn nói với Nguyễn Phúc Thuần sai
các tướng họ Nguyễn cùng tra xét. Phúc Loan cố tranh biện chứng cớ không rõ ràng nên
không bị bắt tội. Phúc Loan ngờ tham mưu Tá làm ra thư, triệu về khảo đánh, Tá không
nhận nên bị giết. phúc Loan lại ngầm sai người tố cáo Chưởng Văn và đồ đảng thông
với Tây Sơn, bắt hạn gục. Được mấy tháng thì Chưởng Văn trốn ra miền rừng Châu Bố
Chính, bị người cáo giác, Nguyễn Phúc Thuần bảo Phúc Loan sai người bắt, dẫn đến
Phá Tam Giang dìm chét.
Những người Nguyễn Phúc Thuần tin dùng đều tham của, mê gái, ham chơi. Quốc phó
Trương Phúc Loan thấy lợi thì tranh trước, nhà chứa vàng bạc của cải vô số mà còn
không vừa. Chưởng Thủy cơ nguyễn Hoãn thích rượu, suốt ngày say sưa. Hữu Trung cơ
Nguyễn Nghiễm mê gái, lấy vợ lẽ 120 người, buồng sau nhà chứa đầy châu ngọc, mắm
muối trăm vạn thạch, hồ tiêu ngoài hai vạn học. Riêng Nguyễn Phúc Thuần năm Kỷ Sửu
hạ lệnh cho các huyện lập một ban du xuân, mỗi ban 50 người, tiền thuế mỗi người một
quan để khi có hội hè thì làm trò vui đánh đu. Chơi bời phóng túng như vậy, dùng người
như thế, hỏi sao không mất nước.
II. Mười ba vua triều Nguyễn:
1. Vua Gia Long
Tên thật là Nguyễn Phước Ánh sinh ngày 15 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (8/2/1762).
Năm 1774 quân Trịnh chiếm Thuận Hóa, Nguyễn ánh chạy vào Quảng Nam rồi vào Sài
Gòn (Gia Định) với Nguyễn Phước Thuần.
Năm 1780 lên ngôi Vương. Từ 1782-1786 nhiều lần thất trận phải chạy ra đảo Phú
Quốc qua Thái Lan hai lần và cuối cùng phải gửi Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện,
Mùa hè năm tân Dậu (1801) chiếm lại Phú Xuân, cuối năm quật lăng mộ vua Quang
Trung ở phủ cũ Dương Xuân.

Năm Nhâm Tuất (1802) lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long.Tháng 6 đem quân ra Bắc Hà
thống nhất đất nước. Năm Giáp Tý 1804 được nhà Thanh cho đổi tên là nước Việt Nam,
ở rộng đất đai của thành Phú Xuân cũ, xây dựng lại Kinh thành mới tồn tại cho đến
ngày nay.
1814 cho xây dựng lăng Thiên Thọ (Lăng Gia Long sau này) tại Hương Thủy Thừa
Thiên-Huế.
1816 lập Nguyễn Phước Đảm làm thái tử.
19 tháng 2 năm Kỷ Mão (3/2/1820) băng hà, thọ 58 tuổi.
Có 13 người con trai và 18 người con gái.
2. Vua Minh Mạng
Con thứ tư của Vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Thị Đang, sinh ngày 23 tháng 4
năm Tân Hợi (25/5/1791) tại Gia Định
Năm ất hợi 1815 được phong Hoàng Thái Tử vào ở cung Thanh Hòa để làm quen việc
trị nước.
Lên ngôi tháng giêng năm Canh Thìn.
1821 dựng Quốc Sử Quán
1822 bắt đầu thi Hội, thi Đình.
1831 chia ranh giới 31 tỉnh thành, bỏ tên Quảng Đức đặt lại phủ Thừa Thiên.1832
khước từ việc Hoa Kỳ xin thông thương. 1839 tự chế thành công một tàu chạy bằng hơi
nước
Mất ngày 28/12 năm canh Tý (20/1/1841)
Có nhiều vợ, 142 người con : 78 hoàng tử và 64 công chúa.
3. Vua Thiệu Trị
Thật là Nguyễn Phước Miên Tông, hoàng tử của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hòa.
Sinh 11-5 năm Đinh Mão (16/6/1807).
1830 được phong Trường Khánh Công
1837 kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Tả Tôn Chính
10.1 Tân Sửu (11-2-1841) lên ngôi lấy niên hiệu Thiệu Trị
Mất 27-9 năm Đinh Mùi (4-10-1847) thọ 41 tuổi.Có nhiều vợ, 31 bà có con, sinh 29
Hoàng Tử và 35 Công chúa

4. Vua Tự Đức
Tên thật là Nguyễn Phước Hồng Nhậm, hoàng tử thứ hai của vua Thiệu trị và bà Phạm
Thị Hằng (bà Từ Dũ) -người Gò Công
Sinh ngày 28-5 năm Kỷ Sửu (22.9.1829)
Lên ngôi vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1847) lúc 19 tuổi lấy niên hiệu Tự Đức
Năm 1874, Triều Đình Huế thất thủ miền Bắc phải ký Hòa ước Giáp Tuất
Mất vào 16.6 Quý Mùi (19-7-1883)
Có nhiều vợ, đứng đầu là bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu Võ Thị Duyên, không có con,
nuôi ba người con nuôi Dục Đức, Dưỡng Thiện và Chánh Mông.
5. Vua Dục Đức
Tên thật Ưng ái, con thứ hai của Thoại thái Vương Hồng Y và bà Đệ nhất Phủ thiếp
Trần thị Nga.
Năm 1869 được chọn làm con nuôi của Tự Đức và đổi tên thành Ưng Chân.
Năm 1883 được phong làm Thụy Quốc Công
Ngày 17-7-1883 theo di chiếu được nối ngôi, chưa yên vị đã bị truất ba ngày Bị Giam ở
Dục Đức đường, Thái Y viện rồi vào ngục thất Thừa Thiên và bị bỏ đói.Mất ngày 6-9
Giáp Thân (24-10-1884) chôn tạm ở làng Anh Cựu, về sau Vua Thành Thái xây lăng đặt
tên là Ăng Lăng. Năm 1892 Vua Thành Thái truy tôn là Cung Tôn Huệ Hoàng Đế
Có 11 người con trai và 8 con gái.
Con thứ 7 lên ngôi niên hiệu Thành Thái.
6. Vua Hiệp Hòa
Tên Nguyễn Phước Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà
Đoan tần Trương Thị Thận
Sinh ngày 24-9 Đinh Mùi (1-11-1874)
1878 được Phong Lãng Quốc Công.
Lên ngôi 27-6. Quý Mùi (30-7-1883)
30-10 Quý Mùi (29-11-1883) bị hai quyền thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường
cho người ép uống thuốc độc chết. Thọ 37 tuổi.
7.Vua Kiến Phúc
Tên Ưng Đăng, con trai của Kiên Thái Vương Hồng cai và Bùi Thị Thanh, em vua

Đồng Khánh, anh Vua Hàm Nghi.
Sinh ngày 2-1 Kỷ Tî (12-2-1869)
Lên hai tuổi được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi
2-12-1883 lên ngôi ở Điện Thái Hòa lấy niên hiệu Kiến Phúc
10-6 Giáp Thân mất một cách khó hiểu.
8.Vua Hàm Nghi
Tên thật là Ưng Lịch, công tự thứ 5 của Kiên Thái Vương Hồng Cai và bà Phan Thị
Nhàn, em khác mẹ của Vua Đồng Khánh và Vua Kiến Phúc.Sinh 17.6 Tân Mùi (3-8-
1871)
Hai quyền thần Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường đưa lên làm vua ngày 12-6 Giáp
Thân (2-8-1884) niên hiệu Hàm Nghi.
23-5 ất dậu (6-7-1885) Kinh Thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn. 1886-1887 lánh
mình trong vùng thượng lưu sông Gianh (Quảng Bình)
30-10-1888 bị thuộc hả Trương quang Ngọc làm phản bắt nộp cho Pháp sau đó bị đày
sang Algiéri
Cưới con gái viên chức Thương chánh Lalauer có hai tai một gái.
Mất tại Alger 28-11 Nhâm ngọ (4-1-1943)
9.Vua Đồng Khánh
Tên thật Nguyễn Phước Ưng Biện con trưởng Kiên Thái Hồng cai và bà Bùi thị Thanh.
Sinh ngày 12 - 1 Giáp Tuất (19-2-1864)
1865 được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi
Tháng 8 năm ất dậu được cha vợ là Nguyễn Hữu Độ thương lượng với Pháp cho lên làm
Vua thay
Vua Hàm Nghi lấy niên hiệu Đồng Khánh
1886 tuần du ra bắc dụ Vua Hàm Nghi không thành.
Mất ngày 27-12 năm Mậu Tý (28-1-1889)
10.Vua Thành Thái
Tên thật Nguyễn phước Bửu Lân, con thứ 7 của Vua Dục Đức và bà Từ Minh Phan Thị
Điểu. Sinh ngày 22 - 2 Kỷ Mão (14-3-1879)
1883 cùng bị giam với vua Dục Đức ở giảng đường Thái Y Viện

1-1889 lên ngôi lấy niên hiệu Thành Thái.
Nhiều công trình mới mang niên hiệu Thành Thái : Bệnh Viện Trung Ương Huế,
Trường Quốc Học, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba,...
3 - 9 - 1907 bị phế vị, truyền ngôi cho Vĩnh San và bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng
Tàu.1916 cùng con là Vua Duy Tân đi an trí ở đảo Reunion
1947 được tha về Sài Gòn
1953 về thăm Huế lần cuối
16 - 2 năm Giáp Ngọ (20-3-1954) mất tại Sài Gòn thọ 76 tuổi.
Có 19 hoàng tử và 26 công chúa
11.Vua Duy Tân
Tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh San, con thứ năm của Vua Thành Thái và bà Tài nhân
Nguyễn Thị Định
Sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19 - 9 - 1900)
Ngày 28 - 7 Năm Đinh Mùi (5 - 9 - 1907) lúc 8 tuổi lấy niên hiệu là Duy Tân
Đầu năm 1916 cưới bà Mai Thị Vàng
Năm 1916 cùng với Thái Phiên và Trần Cao Vân khởi nghĩa chống Pháp bị thất bại
Sau đó bị đày sang Reunion
1927 lấy bà Fernande Antier
Ngày 25-12-1945 bị tai nạn máy bay trên bầu trời Trung Phi

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×