Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.9 KB, 17 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, Đảng, nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy bình đẳng nam nữ nhằm
xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho cả nam và nữ trong phát triển
kinh tế- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa
nam, nữ và thiết lập, cũng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ nam, nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình. Luật phòng, chống bạo lựcgia đình, Luật bình đẳng giới
đuợc thông qua trong kì họp thứ 10, Quốc hội khóa XI (21/11/2006). Đuợc sự quan
tâm của Đảng, nhà nước, sự nỗ lực của các ban ngành trung ương, địa phương và
người dân, địa vị của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Vấn đề bình đẳng giới
ngày càng được xã hội quan tâm nhiều hơn. Hội nghị các quốc gia tại NewYork (Mỹ)
năm 2000 đã xác định: “bình đẳng giới là một trong tám mục tiêu của thiên niên kỷ”.
Ở Việt Nam đã trở thành một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới,
đuợc xếp thứ 80/136 quốc gia về chỉ tiêu phát triển giới. Thế nhưng, trên thưc tế, vấn
đề bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Sự giải phóng phụ nữ dường như
chỉ dừng lại ở cái mà cơ chế xã hội mới mang lại, chưa vào sâu đuợc đời sống gia
đình. Trong các gia đình ít nhiều vẫn tồn tại các hiện tượng bất bình đẳng giới như
chưa ghi nhận đúng vai trò của nữ giới, sự phân công lao động trong gia đình chưa
hợp lý, còn sự phân biệt đối xử nam nữ, bạo hành phụ nữ vv…
2. Mục đích, ý nghĩa:
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài tôi nhận thức đầy đủ hơn về quyền bình đẳng
giới để có cách nhìn và hành động đúng đắn hơn.
- Xác định trách nhiệm của mình đối với công tác bình đẳng giới trong cộng
đồng
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Mục đích nhằm phân tích, thu thập,
tổng hợp thông tin một cách khách quan, khoa học để làm cơ sở lý luận cho đề tài;
là cơ sở nền tảng cho vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống các văn bản liên quan đến công tác bình đẳng
giới.


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát xã hội học trên địa bàn Thị
xã. Cụ thể là khảo sát sự hiểu biết của người dân, các nhà lãnh đạo địa phương về
giới, bình đẳng giới dưới nhiều góc độ; Các điều kiện để thúc đẩy bình đẳng giới.
- Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm qua các Báo cáo của Ban vì
sự tiến bộ của phụ nữ Thị xã, UBMTTQ, các đoàn thể Thị xã Hồng lĩnh về công tác
bình đẳng giới.

Phần 2: NỘI DUNG
1. Một số khái niệm cần nắm:

1


Giới: là khái niệm cơ bản, là cơ sở để nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới. Vì vậy
muốn tìm hiểu thế nào là bình đẳng giới cần phải hiểu rõ về khái niệm này. Giới: theo
quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật BĐG 2006 “chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của Nam và
Nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”. Như vậy giới chính là vai trò xã hội và
những kỳ vọng liên quan đến Nam và Nữ ( Khác với với khái niệm giới tính, giới tính
chỉ đặc điểm sinh học của nam và nữ).
Dựa trên khái niệm về giới, nguồn gốc của giới và các nghiên cứu vai trò giới, nhà
làm luật đã đưa ra khái niệm : Bình đẳng giới “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”
(Khoản 3 Điều 5 Luật BĐG 2006)
2. Cơ sở pháp lý
2.1. Các văn bản pháp luật trên thế giới.
Bình đẳng giới là vấn đề xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới, ảnh
hưởng tới sự an toàn, lành mạnh của cộng đồng và trật tự an toàn xã hội. Hiện nay,
hầu hết các quốc gia đề có các văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền lợi của
nam và nữ trong cuộc sống.

Công ước CEDAW: Công ước về quyền phụ nữ (Commitee on the Elimination of
Discrimination against Women - viết tắt là CEDAW) được Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 18/12/1979, có hiệu lực từ ngày 03/9/1981; hiện có 187 quốc
gia thành viên. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham
gia Công ước vào 29/7/1980 phê chuẩn vào 27/11/1981.
Công ước CEDAW gồm 6 Phần, 30 Điều. Công ước nêu rõ mục tiêu, ý nghĩa của
Công ước bằng việc dẫn lại một trong những nguyên tắc được nêu trong Hiến chương
Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, khẳng định niềm tin
vào các quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người và các
quyền bình đẳng gữa nam giới và phụ nữ; khẳng định nguyên tắc không chấp nhận sự
phân biệt đối xử - mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các
quyền, không có bất kỳ sự phân biệt nào, kể cả phân biệt dựa trên gới tính
Bên cạnh đó có hai công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) gồm
Công ước số 100 về trả lương bình đẳng và Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong
việc làm và nghề nghiệp.
2.2. Các văn bản pháp luật ở Việt Nam.
Một số văn bản luật của Việt Nam đã hình thành khung pháp lý để Chính phủ có
thể xử lý trong vấn đề vi phạm bình đẳng giới. Quy định trong các văn bản luật hình
sự, hành chính và dân sự là cơ sở để bảo vệ nạn nhân của bảo lực gia đình và buộc
người gây bạo lực chịu trách nhiệm. Ngoài ra, Hiến pháp, Luật Bình đẳng Giới, Luật
Hôn nhân và Gia đình cũng đề cao bình đẳng giữa nam và nữ.
2.2.1. HIến Pháp

2


Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam: Hiến pháp năm 1946 có quy định: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam không phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện” hay “Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái

trai đều có quyền bầu cử…” Tiếp đến Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công
dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ”. Từ Điều 53 đến
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định các quyền, nghĩa vụ công dân, trong đó, quy
định quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Đặc
biệt bình đẳng giới trong Hiến pháp (sửa đổi) 2013 cơ bản tiếp tục kế thừa các quy
định của Hiến pháp năm 1992.
Hiến pháp mới quy định các vấn đề chung, có tính nguyên tắc liên quan đến gia
đình tại Điều 16 (mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối
xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội) và Điều 26 (công dân
nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình
đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò của mình trong xã hội). Các quy định trực tiếp về hôn nhân, gia đình
được Hiến định tại Điều 36: nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn; hôn nhân theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau;
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
Điều 60 quy định: Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc... Bên cạnh đó, một số nội dung liên quan đến gia đình, bình
đẳng giới cũng đã được Hiến định trong một số điều, khoản của các Chương II Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và Chương III Kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.
Có thể thấy, Hiến pháp mới đã quy định sự bình đẳng nam - nữ một cách toàn diện
hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam - nữ bình đẳng về mọi mặt trong tất
cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về quyền lợi mà còn là bình đẳng về trách
nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực. So với Hiến pháp năm 1992, nội dung không
phân biệt đối xử chuyển từ không phân biệt đối xử với phụ nữ đã mở rộng sang không
phân biệt đối xử về giới. Các quy định này đã bảo đảm được các nguyên tắc của Công
ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
Như vậy, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam DCCH, nay là nước CHXHCN Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam, nữ.

2.2.2. Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Luật bình đẳng giới là đạo luật mang số 73/2006/QH11 được Quốc hội nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm
2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Quy định nguyên tắc bình
đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình

3


đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện
bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng Giới quy định rằng nam, nữ bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh
vực và nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới. Điều 18 còn quy định chi tiết về
bình đẳng giới trong gia đình, cụ thể vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ
chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình, mỗi người đều có trách nhiệm chia
sẻ công việc gia đình. Điều 41, quy định việc đối xử bất bình đẳng với các thành viên
trong gia đình vì lý do giới tính là vi phạm pháp luật. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm mà người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự (Điều42)
2.2.3. Luật dân sự năm 2005.
Quy định về quyền dân sự của phụ nữ, bảo vệ quyền dân sự, quyền sở hữu tài
sản, quyền tham gia quan hệ dân sự.
2.2.4. Luật lao động năm 2012.
Quy định về quyền lợi của phụ nữ; chế độ trợ cấp thai sản, trợ cấp ốm đau, chế
độ hưu trí; quy định về các điều kiện lao động có hại và các công việc không được sử
dụng lao động nữ.
2.2.5. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật hôn nhân và gia đình quy định quyền kết hôn, quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng, quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quyền ly hôn. . Luật tiếp tục khẳng

định quyền bình đẳng nam nữ như một nguyên tắc nền tảng xuyên suốt toàn bộ chế độ
hôn nhân và gia đình của Việt Nam trong thời kỳ mới: "Vợ, chồng bình đẳng với
nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình" (Điều 19). Điều
này có nghĩa là vợ chồng có quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ;
về các vấn đề liên quan đến con cái; trong việc định đoạt tài sản chung của gia đình.
2.2.6. Luật hình sự sửa đội bổ sung năm 2009.
Luật hình sự quy định chính sách khoan hồng đối với phụ nữ; bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của người phụ nữ.
Ngoài ra còn có Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Bảo hiểm xã hội.
2.2.7. Một số văn bản dưới Luật.
- Chỉ thị 49 của Ban bí thư Trung ương về xây dựng gia đình Việt nam thời kỳ
CNH-HĐH đất nước.
- Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt nam giai đoạn 2010-2020:
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 được ban hành nhằm xác
định các vấn đề bất bình đẳng giới cần ưu tiên giải quyết trong vòng 10 năm; đồng
thời tiếp tục thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy thực hiện Công ước
CEDAW và các cam kết mà Việt Nam là thành viên. Các mục tiêu đề ra trong Chiến
lược sẽ được Chính phủ kiểm điểm và báo cáo Quốc hội hàng năm theo quy định.
Trong đó, mục tiêu tổng quát là “đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực

4


chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước”. Để đạt được mục tiêu đó, Chiến lược đã đề ra 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể
để đạt bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
- Nghị quyết 11 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước:

- Quan điểm: Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực
hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong
những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng
trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để
nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu
vực.
- Các văn bản qui định về thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình…
3. Biểu hiện
Bình đẳng, xét về mặt ngôn ngữ, thì "đẳng" là chỗ đứng và "bình" là ngang
nhau, ngang nhau về vị trí, vai trò, quyền lực, nghĩa vụ và thụ hưởng quyền lợi.
Phụ nữ bình đẳng với nam giới không chỉ góp sức cho xã hội giàu mạnh, văn
minh mà trong gia đình là ngọn nguồn của hạnh phúc, đã sản sinh và nuôi dưỡng thế
hệ trẻ tốt đẹp. Bình đẳng nam nữ là nền tảng văn hoá của con người, của gia đình và
hạnh phúc. Trong gia đình văn hoá được sàng lọc và thẩm thấu vững bền. Ông bà, cha
mẹ vì tương lai của con cháu, luôn luôn có ý thức truyền nối văn hoá thông qua ứng
xử, bảo ban, qua những câu ca, chuyện kể hàng ngày.
Vai trò của phụ nữ được phát huy bình đẳng trong xã hội và trong gia đình,
mang một ý nghĩa lớn đối với sự giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam và truyền thống văn hoá của dân tộc. Văn hoá gia đình là nền tảng của văn
hoá xã hội, ở đó vai trò của người phụ nữ với chức năng sàng lọc và giữ gìn văn hoá
dân tộc mang ý nghĩa đặc biệt. Để phụ nữ làm được chức năng quan trọng này với gia
đình và dân tộc, trước hết họ phải được bình đẳng để tiến bộ và theo kịp thời đại.
Trong cuộc sống đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và Nhà nước ta lấy dân làm gốc, lấy việc trồng người để mưu cầu lợi ích trăm
năm. Trồng người là sự nghiệp tạo dựng thế hệ công dân mới có đức, có tài, thể lực tốt

mà gia đình là cái nôi ban đầu và người mẹ đồng thời cũng là người thầy dạy con
ngay từ thời mới còn chập chững. Không phải ngẫu nhiên mà phương Đông ta đề cao
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nguyễn Du có câu "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài".
Trong dân gian truyền tụng câu "Làm mẹ phải biết để đức cho con", đức thuộc phạm
trù văn hoá.

5


Gia đình Việt Nam trong thời đại mới chấp nhận sự ly hôn, khi đôi vợ chồng
không thể hoà hợp, nhưng không đồng nghĩa với sự khuyến khích tan vỡ tuỳ thích của
gia đình, sự tạm bợ của cái gọi là “gia đình” sống thử. Mọi sự tan vỡ bao giờ cũng là
sự mất mát rất khó có thể bù đắp. Mọi sự sống thử đều trái với thuần phong mỹ tục và
không có tương lai. Văn hoá gia đình Việt Nam không chấp nhặt quan hệ tuỳ tiện giữa
nam và nữ, tình trạng nạo phá thai ở nữ tuổi vị thành niên...
Người mẹ Việt Nam thời đại hôm nay đứng trước sứ mệnh sàng lọc và truyền
nối để bảo vệ nền văn hoá dân tộc, trước tiên gia đình mình phải là người có đức, có
trí, có lực. Họ phải được bình đẳng thì mới đạt được những chuẩn mực mang nội dung
thời đại để từ đó xây dựng hạnh phúc gia đình, nuôi dưỡng con cái trở thành con
người mới, công dân mới xã hội chủ nghĩa. Trong gia đình, vợ chồng thương yêu, tôn
trọng lẫn nhau thì con cái mới được chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm,
hạnh phúc, luôn luôn là điển tựa cho con người vượt qua mọi thử thách.
Bình đẳng giới trong gia đình không phải là tự nhiên mà có được. Người phụ
nữ phải có ý thức tự vươn lên để học hỏi và phát triển. Đồng thời, người chồng cũng
phải có ý thức hỗ trợ và khuyến khích, tạo điều kiện cho người vợ. Không phải là đã
không có lệch lạc trong nhận thức về bình đẳng, như quan niệm “hơn và kém” hay “
bằng vai phải lứa”, dẫn đến tự ái hoặc tự ty.
Bình đẳng là biểu hiện của văn hoá trong đời sống con người, có bình đẳng
trong gia đình mới thực sự có bình đẳng trong xã hội. Vậy không lẽ trong tình thương
yêu một đời người, vợ chồng có nhau, một đời người quây quần cùng với con và cháu,

chúng ta không mong muốn giúp được cho nhau cùng tiến bộ, cùng bình đẳng để
hưởng hạnh phúc sao? Hạnh phúc bao giờ cũng là của cải quý giá nhất trong gia đình
mà mỗi thành viên hằng vun đắp và vươn tới.
* Những biểu hiện cụ thể:
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình.
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình
đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực
trong gia đình.
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử
dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con
ốm theo quy định của pháp luật.
- Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau
để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
- Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia
đình.
4. Thực trạng
4.1. Tình hình bình đẳng giới trong gia đình trước đây
Bình đẳng giới trong gia đình thực chất là bình đẳng giữa vợ, chồng, con trai,
con gái, nam-nữ về vị trí, vai trò trong đó bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận

6


nguồn nhân lực, bình đẳng trong thù lao công việc, bình đẳng trong việc thụ hưởng
các thành quả và bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã
hội. Điều đó có nghĩa là đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình giúp cho nam-nữ đều
được tạo cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình, cộng
đồng và xã hội. Trước đây vai trò của người phụ nữ được quy định bởi “tam tòng” (tại
gia tòng phụ,xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và “tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh).

Người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và không thể độc lập đưa ra quyết định
gì, đặc biệt hạn chế tham gia các hoạt động xã hội. Vấn đề bình đẳng giới trong gia
đình ít được nhắc tới, người vợ vẫn giũ thói quen “phục tùng” chồng. Có một thực tế
khách quan là tư tưởng "trọng nam, khinh nữ" vẫn tồn tại trong nhiều gia đình (nhất là
các địa bàn vùng sâu, đặc biệt khó khăn). Người chồng, người cha là chủ gia đình, có
vai trò quan trọng nhiều mặt của cuộc sống: có quyền hành lớn, quyết định mọi việc
từ làm ăn, cưới xin, tang ma đến công việc tín ngưỡng. Đồng thời, họ còn là người
thay mặt gia đình quan hệ với họ hàng, làng xóm và các tổ chức xã hội, với chính
quyền địa phương. Mọi tài sản trong nhà, kể cả ruộng nương, trâu bò, công cụ sản
xuất đều do người đàn ông là người chủ nắm giữ.
Nhiều gia đình quan niệm "con gái là con người ta" nên có nhiều gia đình chưa
quan tâm nhiều đến việc học tập của con gái mà chỉ ưu tiên đầu tư và khuyến khích
con trai học tập, có nghề để nuôi sống gia đình. Quan niệm này khiến cho nhiều em
gái phải chịu thiệt thòi, thiếu hiểu biết nên các em dễ trở thành nạn nhân của tục tảo
hôn, bị dụ dỗ rơi vào các đường dây buôn bán phụ nữ, trẻ em... Ở vùng sâu, xa, tình
trạng bất bình đẳng khi chia tài sản thừa kế (đất đai, ruộng, nương...) cho con trai và
con gái vẫn còn xảy ra, cha mẹ thường dành phần nhiều hơn cho con trai, thậm chí có
nhiều nơi con gái không được thừa kế tài sản của cha mẹ để lại (vì quan niệm con trai
được thừa kế tài sản để có trách nhiệm thờ cúng ông bà, tổ tiên, con gái thì xuất giá
theo chồng không phải thực hiện trách nhiệm này), gây nên bất bình đẳng giới phân
biệt đối xử giữa con trai và con gái trong gia đình.
4.2. Các giải pháp đã thực hiện
Từ khi luật hôn nhân và gia đình ra đời, vai trò của người phụ nữ được nâng
lên, đặc biệt trong thời gian gần đây nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách phát triển vì sự tiến bộ và bình đăng giới, nhất là từ khi luật bình đẳng giới ra đời
(2006). Các địa phương đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thực hiện bình đẳng giới:
- Mở các lớp tập huấn về bình đẳng giới.
- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào các chương trình hành động của địa phương
như chương trình dân số và sức khoẻ sinh sản…
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về luật bình đẳng giới.

- Hội phụ nữ thường xuyên quan tâm, theo dỏi sự phát triển của chị em.
Tuy nhiên, sự giải phóng phụ nữ mới chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế chính
sách mang lại, chưa vào sâu được đời sống gia đình. Trong đời sống gia đình, bất bình
đẳng giới vẫn đang tồn tại,vẩn còn mang nặng những tư tưởng của chế độ phong kiến,
các hiện tượng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra hàng ngày. Thế nhưng điều này lại được

7


ít người thừa nhận. Dường như sự bình đẳng giới trong gia đình rất ít được chú ý,
cuộc sống giữa hai giới trong gia đình từ bao đời nay vẫn vậy, ít có sự thay đổi.
4.3. Thực trạng
4.3.1. Nữ giới có cơ hội phát huy năng lực, nâng cao vai trò
Các địa phương thường tổ chức sinh hoạt lồng ghép toạ đàm, sinh hoạt câu lạc
bộ với nhiều nội dung chuyên đề như chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, cách
chăm sóc nuôi dạy trẻ, cách làm ăn…Qua đó nâng cao năng lực và vai trò của phụ nữ.
Họ có nhiều cơ hội tham gia phát triển sản xuất và hoạt động xã hội. Trong lao động
sản suất tạo thu nhập cho gia đình: Chị em được tạo cơ hội vay vốn ưu đãi, hướng dẫn
cách làm ăn.Thông qua các nguồn vốn vay các chị có thêm vốn để đầu tư cho chăn
nuôi sản xuất,mở mang ngành nghề kinh doanh dịch vụ buôn bán.Chị em phụ nữ được
tham gia các lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn, áp dụng khoa học kĩ thuật vào
trồng trọt,chăn nuôi,tham gia các lớp chăn nuôi lợn nạc,thâm canh đồng ruộng IBM
……Từ kiến thức thu được các chị đã đưa vào sản xuất chăn nuôi,gieo trồng. Có thu
nhập tương đối ổn định,chị em không còn bị phụ thuộc kinh tế vào người chồng nữa.
Do đó quyền và vai trò của họ trong gia đình phần nào được củng cố. Phụ nữ không
chỉ được nâng cao năng lực trong lao động sản xuất mà còn được tăng năng lực cho
vai trò người nội trợ.Qua các buổi sinh hoạt với nội dung chăm sóc nuôi dạy trẻ,phòng
chống các tệ nạn xã hội….Các chị có thêm kiến thức cho việc chăm sóc gia đình, nuôi
dạy con cái.Nhờ vậy mà các chị đã làm tốt thiên chức người mẹ,người vợ trong gia
đình, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no. Các chị còn được chồng con tạo điều kiện

tham gia môt số hoạt động xã hội: Ta có thẻ điểm qua vài con số sau: Theo kết quả
điều tra năm 2002 tỷ lệ gia đình có chủ hộ là nữ chỉ xấp xỉ 24% trong cả nước. Tỷ lệ
này ở thành thị là 36,18% và nông thôn là 20,22% . Việt Nam là một trong những
nước có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở mức cao (83% so với nam giới 85%).
Phụ nữ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; tham
gia ngày càng nhiều hơn trong khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh
vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao.Phụ nữ tham gia vào bộ máy chính
quyền ngày càng nhiều, tham gia vào một số hoạt động xã hội như tham gia sinh hoạt
trong các câu lạc bộ,các hội thi,tham gia hiến máu tình nguyện. Đóng góp các loại quỹ
do hội phụ nữ phát động như quỹ khuyến học,đền ơn đáp nghĩa… Tích cực tham gia
các dự án phát triển cộng đồng như dự án chăm sóc sức khoẻ phụ nữ,dự án của Phần
Lan hỗ trợ kinh tế hộ cho các hộ nghèo trên địa bàn. Rõ ràng vai trò của người phụ nữ
hôm nay đã được nâng cao.Họ vừa tham gia sản xuất, vừa chăm sóc gia đình và tham
gia các hoạt động xã hội.Vị trí của họ trong gia đình và cộng đồng đã phần nào được
ghi nhận: chị em phụ nữ đã thể hiện được vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực.Các
chị không chỉ làm tốt công việc gia đình mà còn đóng góp công sức vào sự phát triển
của địa phương, phụ nữ giữ vai trò rất quan trọng trong gia đình,là người động viên
lớn nhất,là điểm tựa cho người đàn ông.
Người vợ được tăng quyền trong gia đình trước đây quyền sở hữu tài sản trong
gia đình thường thuộc về người đàn ông.Từ các tài sản lớn như đất đai,nhà cửa..đến

8


các trang thiết bị trong nhà đều do người chồng sở hữu,kể cả các khoản thu nhập trong
gia đình. Điều này sẽ gây thiệt thòi cho phụ nữ khi ly hôn. Hiện nay,trong nhiều gia
đình,vợ chồng đã cùng nhau đứng tên sở hữu tài sản chung.Các khoản thu nhập được
sử dụng có sự bàn bạc giữa hai vợ chồng. Nhìn chung quyền lợi của người phụ nữ
trong gia đình phần nào được đảm bảo hơn. Nữ giới đã có quyền tham gia vào các
quyết định trong gia đình. Trước đây quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình đều

do nam giới đưa ra,người vợ chỉ làm theo,phục tùng mọi quyết định của chồng từ
những quyết định lớn tới những quyết định nhỏ như chi tiêu sinh hoạt trong gia đình.
Hiện nay khi mà phụ nữ không còn phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế với các ông chồng,
địa vị của họ đã được nâng lên nên phụ nữ khá bình đẳng với nam giới trong các
quyết định của gia đình. Đối với việc chợ búa hàng ngày và việc ăn mặc, học hành của
con cái phụ nữ quyết định tương đối tự do. Còn quyết định các khoản chi lớn và các
quyết định quan trọng khác đều có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng. Theo điều tra cho thấy
có tới 50% ý kiến của cả nam và nữ cho rằng có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng trong
những quyết định lớn. Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong việc thực hiện bình
đẳng giới trong gia đình. Sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái đã được cải
thiện. Trước đây khi mà tư tưởng trọng nam khinh nữ còn phổ biến ,sự phân biệt đối
xử giữa con trai và con gái trong gia đình được thể hiện rõ ngay khi đứa con ra
đời.Nếu đứa bé ra đời là con trai sẽ được cả họ chào đón ăn mừng,còn nếu là con gái
thì chỉ có thái độ thờ ơ.Hiện nay tuy trong các gia đình ,cách đối xử giữa con trai và
con gái chưa hoàn toàn bình đẳng nhưng đã có sự rút ngắn khoảng cách đáng kể. Đứa
trẻ sinh ra dù là trai hay là gái cũng đều nhận được sự yêu thương chăm sóc của gia
đình. Đến tuổi đi học các em đều được tạo điều kiện học tập như nhau. Lớn lên, tuy
chịu tác động lớn của bố mẹ trong định hướng nghề nghiệp và quyết định hôn nhân,
nhưng cả con trai và con gái đã có thể tự quyết định tương lai của mình. Một bộ phận
nhỏ nam giới đã biết chia sẻ việc nhà với vợ. Tuy chỉ có một bộ phận nhỏ nam giới(510%) chia sẻ công việc nội trợ với người phụ nữ nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy
việc tuyên truyền nam giơi chia sẻ công việc nhà với vợ đã có chút hiêu quả.Bởi vì từ
trước tới nay rất hiếm khi đàn ông nhúng tay vào việc bếp núc. Nhìn chung,bình đẳng
giới trong gia đình hiên nay đã có những bước tiến đáng kể, góp phần nâng cao vai
trò,vị trí của người phụ nữ,vì sự tiến bộ của nữ giới.
Tuy nhiên, bình đẳng giới trong gia đình cũng còn quá nhiều bất cập. Những
hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình. Qua điều tra, có tới hơn 70 % cho rằng
không còn hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình hoặc là ở mức độ không đáng
kể, đó cũng là quan điểm của không ít cán bộ địa phương. Nhưng khi đi vào thực tế
cho thấy bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của các gia đình.
Song những hiện tượng bất bình đẳng đó ít được chú ý, nó được nhiều người chấp

nhận như một phần tất yếu của cuộc sống gia đình. Đi sâu tìm hiểu một số hiện tượng
bất bình đẳng nam nữ trong gia đình ta sẽ thấy đã đến lúc phải thay đổi cách nhìn về
vấn đề này. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình chưa đựơc đánh giá đúng mức Bất
kì ở đâu,lúc nào người ta cũng nhìn thấy sự đóng góp to lớn của nữ giới trong các hoạt

9


động gia đình .Những đóng góp của họ được xem là “quan trọng”,thế nhưng địa vị
của họ trong gia đình không được cải thiện so với nam giới tương ứng với những
đóng góp đó. Những đánh giá về vai trò của nữ giới còn mang tính chất khuôn
sáo,chiếu lệ chứ chưa thật sự ghi nhận đúng mức những đóng góp của họ. Nhiều
trường hợp, khi ông chồng làm việc mọi người ghi nhận đóng góp của anh ta nhưng
khi người vợ làm việc đó người ta cho là việc tất nhiên. Nhất là trong các công việc
nội trợ bởi nhiều người cho rằng “nội trợ và chăm sóc con cái là thiên chức của người
phụ nữ chứ không phải công việc của đàn ông’’. Kể cả khi người vợ tham gia những
công việc tạo ra thu nhập đáng kể cho gia đình nhưng dường như người chồng “trả
công” vợ không xứng đáng với lao động bỏ ra bằng nhưng “đánh giá không xứng
đáng” của mình. Nhiều khi các chị còn bị trách cứ “làm tý việc cũng kể lể”, “đàn bà
không làm những việc ấy thì làm gì”. “Tý việc” mà các ông chồng nói là hơn 60%
công việc nội trợ gia đình. Nếu một gia đình khá giả ở thành phố có điều kiện nuôi
người giúp phải trả công từ 400000 ngàn đồng đến 600000 ngàn đồng mỗi tháng, có
cơm ăn ,quần áo mặc và chỗ ở.Thế nhưng người vợ làm nội trợ gia đình thì không ai
tính công sức của họ thành tiền mà chỉ được coi là “tý việc” không đáng kể. Đây là
hiện tượng có tính chất phổ biến trong gia đình nông thôn Việt Nam nói chung. Điều
này phần nào lý giải khi điều tra tiêu chí “Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu
nhập gia đình?” thì kết quả nghiêng về nam giới. Có tới 50% ý kiến của nam giới và
40% ý kiến của nữ giói cho rằng nam giới mang lại nguồn thu nhập chính cho gia
đình,trong khi chỉ có 10% ý kiến của nam giói và 20% ý kiến của nữ cho rằng nữ giơi
có đóng góp nhiều nhất vào thu mang lại cao hơn người chồng.

4.4.2. Sự phân công lao động trong gia đình chưa hợp lý
Nhưng năm gần đây do bình đẳng giới trong gia đình trong lao động được ghi
nhận chi tiết trong pháp luật, đẩy mạnh tuyên truyền đến quần chúng nhân dân và
được thực hiện một cách nghiêm túc cho nên đã đạt được những thành quả khả quan.
Có thể nhận thấy là đa số các gia đình trong nước ta đặc biệt ở những vùng có dân trí
cao như ở các thành phố, thị xã đã đạt được kết quả cao về bình đẳng giới trong gia
đình trong lao động. Ta có thể thấy là ở đây không phải chỉ có người vợ mới làm công
việc gia đình hoặc những công việc mang tính giản đơn nữa. Ta có thể thây trong các
gia đình ở các thành phố người phụ nữ là kinh doanh, làm trí thức…Tuy vậy nhưng ta
còn thấy không ít sự mất bình đẳng giới trong các gia đình trong lao động đặc biệt là ở
các vùng nông thôn và khu vực miền núi, dân tộc ít người. Ta có thể thấy ở đó người
phụ nữ, người vợ thường làm việc nhà và những công việc giản đơn còn người chồng,
ngời con trai thường đảm nhiệm những công việc chính trong gia đình. Cùng với tiến
bộ xã hội, ngày càng có nhiều công cụ và các điều kiện giúp con người giảm nhẹ sức
lao động, công việc trong gia đình. Mặc dù, tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ
đã dần dần mất đi, nhưng có một nghịch lý vẫn đang tồn tại là việc nội trợ, nuôi
dưỡng con cái, chăm sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là công việc của
phụ nữ và vẫn có quan niệm cho rằng các hoạt động này không mang lại giá trị kinh
tế.

10


Định kiến giới và tư tưởng trọng nam giới hơn phụ nữ vẫn còn tồn tại khá phổ
biến ở trong gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội : với các biểu hiện như thích
đẻ con trai hơn con gái, coi việc nội trợ, chăm sóc con cái là của phụ nữ, khi chia tài
sản thừa kế thường dành cho con trai nhiều hơn, ưu tiên đầu tư vào con trai, quan
niệm nam giới là người trụ cột, quyết định chính trong gia đình và đóng vai trò chính
trong các quan hệ xã hội bên ngoài gia đình.
Thời gian làm việc của phụ nữ thường dài hơn nam giới: Mặc dù, pháp luật quy

định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc,
quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con
cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền
quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc
nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của
phụ nữ. Tính chất bảo thủ của sự phân công lao động truyền thống theo giới ở các
mức độ khác nhau vẫn còn được bảo lưu trong một bộ phận gia đình Việt Nam đã làm
hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em gái, cản trở phụ nữ tham gia vào các hoạt
động xã hội và có địa vị, thu nhập bình đẳng như nam giới. Các kết quả thống kê cho
thấy, trung bình thời gian làm việc một ngày của phụ nữ là 13 giờ, trong khi của nam
giới là khoảng 9 giờ. Sự chênh lệch này chủ yếu do phụ nữ còn đảm nhiệm chính công
việc nội trợ, chăm sóc con cái... ngoài vai trò sản xuất và công tác như nam giới. Phân
công lao động trong gia đình ở nhiều vùng miền trên cả nước còn mang tính chất phân
biệt theo giới rõ rệt. Công việc gia đình vẫn tập trung vào vai người phụ nữ là chủ
yếu. Do đó, phụ nữ ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi giải trí hay
tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ
không chỉ gánh vác hầu hết mọi công việc gia đình, chăm sóc con cái, mà đồng thời
còn là lao động chính trong gia đình. Đây thực sự là gánh nặng quá tải, gây ảnh hưởng
xấu tới tình trạng sức khoẻ của phụ nữ.
Trong gia đình, phụ nữ tham gia vào việc ra quyết định thấp hơn nam giới:
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung phụ nữ ít đựơc quyền quyết định công
việc gia đình so với nam giới. Quyền lực cao hơn của một người chồng thể hiện ở
quyền quyết định ở một số việc như mua sắm, sản xuất kinh doanh, quan hệ họ hàng,
còn người vợ thường chỉ có tiếng nói ở những việc như sử dụng biện pháp tranh thai,
việc học của con hay các công việc nội trợ của gia đình…
4.4.3. Quyền ra quyết định chính trong gia đình.
Hiện nay, người phụ nữ đã có quyền tham gia bàn bac về tất cả các vấn đề
trong gia định nhưng quyết đinh cuối cùng thuộc về người chồng. Theo điều tra cho
thấy nếu ý kiến hai bên khác nhau, không thống nhất với nhau thì tiếng nói của người
chồng là quyết định, người vợ buộc phải nghe theo. Đây là một trong những biểu hiện

cho thấy quan hệ quyền lực không ngang nhau giữa hai giơi trong gia đinh.
4.4.4. Bạo lực trong quan hệ vợ chồng.
Đó là bất kỳ hành động nào trong gia đình do chồng (hoặc vợ) gây ra, làm tổn
thương đến sức khoẻ thể xác, tinh thần hoặc xâm phạm quyền tự do củ người bạn đời

11


của mình. Nạn nhân của bạo lực trong quan hệ vợ chồng thường là phụ nữ . Sự tuyệt
đối hóa bạo lực giới một chiều đúng là bạo lực giới nói chung và bạo lực giới trong
gia đình nói riêng phần lớn là do nam giới gây ra với phụ nữ . Nhưng cần nhận thấy
rằng cũng còn có bạo lực của phụ nữ đối với nam giới.Nghiên cứu của Bộ Lao Đông
Thương Binh & Xã Hội cho thấy có khoảng 9- 10% trường hợp nạn nhân của bạo lực
gia đình là nam giới và thủ phạm chính là những bà vợ. Cần lưu ý rằng phụ nữ không
chỉ là nạn nhân của bạo lưc gia đình; ngay cả khi họ không dùng vũ lực (vì không ít
trường hợp vợ bị chồng đánh là do nói nhiều, do cằn nhằn vô lý hoặc ghen tuông vô
cớ…) Theo điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ năm 2010 (Tổng cục
Thống kê, 2010) thì 34% phụ nữ được hỏi bị ít nhất bị một hình thức bạo lực gia đình
và 58% phụ nữ cho rằng là họ bị ít nhất một trong 3 loại bạo lực (thể chất, tình dục và
tinh thần) trong cuộc đời. Theo số liệu khảo sát của các cơ quan chức năng cho thấy
có 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần; có khoảng 15% vợ bị chồng đánh, gần
80% bị chồng chửi, 70% bị chồng bỏ mặc trong cuộc sống gia đình.30% cặp vợ chồng
có hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục gọi là "bạo lực tình dục" hoặc việc buộc phải
đẻ con trong khi sức khoẻ của người phụ nữ không đảm bảo, hoặc buộc phải phá thai
cũng được xem như một hình thức của bạo lực tình dục.
Theo thống kê của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, từ năm 2009 đến 6 tháng đầu năm 2012, cả nước có 178.847 vụ
bạo lực gia đình. Trong đó, bạo lực gia đình với phụ nữ là 106.520 vụ, bạo lực gia
đình với trẻ em là 23.346 vụ, bạo lực gia đình với người cao tuổi là 16.148 vụ. Mặc dù
bạo lực gia đình xảy ra phổ biến đối với phụ nữ nhưng trẻ em cũng là nạn nhân của

bạo lực gia đình. Cứ bốn phụ nữ có con dưới 15 tuổi thì có một người cho biết con
của họ đã từng bị chồng họ bạo hành thể xác.chắc hẳn trong thực tế con số đó chắc
chắn sẽ nhiều hơn rất nhiều. Qua thăm dò dư luận thì số lượng cac căp vợ chồng mâu
thuẫn chòng đánh chửi vợ khá nhiêu. Đặc biệt có một lý do nhay cảm it ai nhắc tới
nhưng có ảnh hưởng rất sâu trong quan hệ vợ chồng, đó là sự không hoà hợp về tình
dục, người chồng bắt ép vợ phải chiều mình… Nhìn chung, tình trạng bạo hành phụ
nữ trong các gia đình vẫn còn tồn tại nhưng lai được ít người thừa nhận họ chỉ coi đó
là mâu thuẫn vợ chồng.có thể nhận thấy phần lớn người dân đều cho rằng chồng đánh,
mắng vợ không phải là vấn đề nghiêm trọng. Bởi lẽ nhiều người còn quan niệm rằng
xung đột vợ chồng là điều khong thể tránh khỏi trong đờ sống gia đình. Họ cho rằng
đến bat đĩa trong chạn có lúc con bị xô đẩy huống hồ quan hệ vợ chông, đó là chuyện
bình thường trong cuộc sống. Cho nên nhiều người dân, kể cả cán bộ chính quyền có
xu hướng coi bạo lực trong quan hệ vợ chồng là chuyện riêng tư, không nên can thiệp.
Chỉ khi người vợ bị đánh thành thương tích hoặc bị đánh thường xuyênthì người ta
mới nhờ đến chính quyền địa phương. Nếu họ chỉ mới chửi mắng nhau thì họ không
cần giúp đỡ việc nhà nào nhà ấy lo “đóng cựa bảo nhau”, không ai muốn và cũng
không ai có khả năng can thiệp vào. Chính ngời phụ nữ bị đánh và người thân của họ
cũng có suy nghĩ như vây. Đặc biệt có một hình thức bạo hành phụ nữ ít ai thừa
nhận,đó là bạo hành tình dục.Đa số các chị dù “không muốn” nhưng vẫn phải “chiều

12


chồng”,họ nghĩ đó là trách nhiệm của mình.Hơn nữa họ sợ chồng theo gái.Và không
ai lên tiếng về vấn đề này cả Chính những nhận thức đó của người dân vô hình chung
đã tạo điều kiện cho nạn bạo hành phụ nữ tiếp diễn.Họ không nghĩ là làm như vậy là
đã vi phạm đến quyền bình đẳng giới,đã tự mình tạo ra sự bất bình đẳng trong gia
đình.
4.4.5. Phân biệt đối xử giữa con trai và con gái
Bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình được hiểu là trong

gia đình giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng trong việc được chăm sóc bảo vệ
quyền được sống, bình đẳng về quyền được học tập, bình đẳng trong việc thực hiện
các công việc trong gia đình, bình đẳng về quyền được nghỉ ngơi, được vui chơi và
tham gia các hoạt động vui chơi, giả trí phù hợp với lứa tuổi. Các thành viên khác
trong gia đình không được có hành vi phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái .
Ngày nay khoảng cách phân biệt đối xử giữa con trai và con gái mới chỉ được rút
ngắn chứ chưa được xoá bỏ hoàn toàn.Trong tư tưởng của nhiều bậc làm ,làm mẹ vẫn
mong muốn có con trai hơn con gái, mà thích nhất là có cả con trai và con gái.Có tới
80% ý kiến mong muốn có cả trai và gái,15% ý kiến chỉ thích con trai và 5% ý kiến
thích con gái.
Hiện nay khi đa số phụ nữ có bầu, họ sẵn sàng đến các phòng khám tư nhân để
siêu âm giới tính thai nhi, mặc dù việc này đã bị nghiêm cấm. Nhiều trường hợp khi
phát hiện thai nhi là bé gái họ không ngần ngại bỏ đi để chờ lần sau là con trai. Tình
trạng nạo phá thai, lựa chọn giới tính của thai nhi trước khi sinh đã làm cho nhiều đứa
trẻ khi còn trong bụng mẹ đã bị tước đoạt quyền được sinh và được sống. Do nước ta
vẫn còn ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến”trọng nam khinh nữ”, các gia đình
hay dòng họ từ xưa đã coi trọng việc sinh con trai, họ quan niệm “nhất nam viết nữ,
thập nữ viết vô” dẫn đến nước ta vẫn còn bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái
về các điều kiện bảo đảm cuộc sống ổn định. Việc các gia đình coi trọng con trai dẫn
đến khi sinh con ai cũng muốn sinh em bé trai. Điều đó vô hình dung dẫn đến sự mất
cân bằng về giới tính. Theo số liệu của các cơ quan chức năng thì ở nước ta hiện nay,
có nơi tỷ lệ sinh là 135 bé trai/ 100 bé gái. Điều này là bất lợi, đáng cảnh báo trong
tương lai gần Các bậc cha mẹ, ông bà có cách đối xử và dạy dỗ con trai khác con
gái.Các bé trai thường được cha mẹ chiều chuộng hơn. Không mấy ai đòi hỏi con trai
thạo việc nhà nhưng đòi hỏi người con gái phải thành thạo công việc nội trợ,phải
ngoan, lễ phép,chịu nhịn.
4.4.5. Một số hiện tượng bất bình đẳng khác
- Trong các nghi thức giao tiếp cũng thể hiện sự khác biệt, nam hội hè đình đám, đàn
ông con trai thường là nơi đại diện nơi công cộng.
- Người phụ nữ thường chịu nhiều áp lực dư luận hơn nam giới gia đình có điều gì bất

ổn phụ nữ thường là người chịu hậu quả nặng nề hơn, hứng chịu trách móc của dư
luận xung quanh nhiều hơn.
5. Nguyên nhân của bất bình đẳng giới
Theo Liên hợp quốc Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới được

13


hưởng những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người và có cơ hội
đóng góp và thụ hưởng những thành quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Như vậy, có thể hiểu Bình đẳng giới nghĩa là phụ nữ có thể hưởng những điều
kiện cũng như đóng góp những thành quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa như nam giới.
5.1. Do yếu tố lịch sử để lại,là tàn dư của chế độ phong kiến
Tư tưởng trọng nam khinh nữ,coi đàn ông như là trụ cột của gia đình, và xã hội
đặt ra những chuẩn mực về đạo đức cũng như hành vi cho người phụ nữ, phải hi sinh
vì sự tiến bộ của người đàn ông.
5.2. Định kiến về giới còn phổ biến
Xem người đàn ông là trụ cột,là người phụng dưỡng, giữ gìn của cải nỗi dõi
tông đường
Do quan niệm người con gái là của cho con trai là của để,nên khi đào tạo
dưỡng dục trang bị kiến thức cho con cái,một số gia đình chú trọng chăm nom cho em
trai hơn.
5.3. Do những cơ hội làm việc trong cuộc sống
Đối với những gia đình ở khu vực nông thôn,sự chuyển dịch lao động từ nông
thôn ra thành thị,đã làm cho người phụ nữ ở lại nông thôn thêm gánh nặng,vừa đảm
đương trong lao động sản xuất vừa chăm lo gia đình nội trợ,bên cạnh đó ở những khu
vực thành thị phát triển thời gian người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội,cũng
như các công việc để thăng tiến bản thân cũng ít hơn,vì xét theo địa vị thì phụ nữ gánh

luôn cả công việc gia đình,nên người phụ nữ phải luôn chật vật và dành thời gian cho
chăm sóc gia đình nuôi dạy con cái nhiều hơn,còn người đàn ông thì hoàn toàn ngược
lại và có cơ hội thăng tiến hơn!
5.4. Về trình độ học vấn
Nếu như cả hai vợ chồng đều có kiến thức và trình độ học vấn ngang nhau,thì
khi gặp phải một vấn đề nào đó cần đến sự đóng góp ý kiến bàn bạc của vợ và chồng
thì dễ giải quyết hơn,nhưng vì sự chênh lệch về trình độ nên đa phần là do người đàn
ông tự quyết định đây cũng là yếu tố tạo nên bất bình đẳng giới.
5.5. Do nhận thức của người phụ nữ
Trong chính bản thân của người phụ nữ chưa nhận thức rõ và đầy đủ về quyền
lợi của chính bản thân mình,cho nên tình trạng bất bình đẳng vẫn diễn ra,và là một bài
toán khó nan giải trong xã hội.bên cạnh đó người phụ nữ do thiếu hiểu biết nên không
biết khiếu nại tố cáo ở đâu,hay nói cách khác là không biết cách bảo vệ lấy quyền và
lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình.
5.6. Do yếu tố tâm lí
Bởi truyền thống xa xưa thời phong kiến và những đặc thù về giới tính như
vậy,quy định cho họ thiên chức là một người phụ nữ phải sinh con đẻ cái,chăm nom
gia đình,nội trợ hay đáp ứng tam tòng tứ đức nên họ ngại và cảm thấy tự ti và sẵn sàng
cam chịu không dám đứng lên đấu tranh và giải phóng mình.

14


5.7. Sự hiểu biết về giới và bình đẳng giới của các cấp các nghành và của nhân dân
còn nhiều hạn chế
- Sự hiểu biết không đúng về giới ở một số cán bộ các cấp các nghành,nhiều người
vẫn nghĩ rằng nói đến giới là nói đến phụ nữ,cho nên khi nhận được giấy mời tập huấn
giới hay hội thảo về giới thì thường cử nữ giới tham dự.
- Ở địa phương,cơ sở khi mở lớp tập huấn về giới cũng thường là tổ chức cho phụ nữ
và do hội phụ nữ ở địa phương tổ chức.

5.8. Về thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước
Mặc dù chính sách pháp luật của nhà nước về giới,bình đẳng giới có nhiều nhưng
từ văn bản trên giấy tờ đi tới thực hiện trên thực tế còn là một khoảng cách quá xa.
6. Hệ quả
6.1. Đối với việc thực hiện bình đẳng giới
Trong gia đình nếu vợ - chồng có sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không phân
biệt trong công việc gia đình, nuôi dạy con cái, địa vị trong gia đình...thì cuộc sống
trong gia đình sẽ hạnh phúc , bền vững , đoàn kết, yêu thương lẫn nhau, không xảy ra
những hậu quả không mong muốn như bạo lực gia đình,ly hôn… Gia đình có sự bình
đẳng giữa vợ và chồng còn tạo nền móng cho tương lai của con cái có một định hướng
tốt,môi trường nuôi dưỡng tâm hồn lành mạnh, đạt kết quả học tập tốt. Sự bình đẳng
giữa vợ và chồng với nhau sẽ xây dựng được kinh tế gia đình vững mạnh , đảm bảo
tốt cuộc sống của gia đình
6.2. Đối với bất bình đẳng giới
Là nguyên nhân của nghèo đói,bệnh tật và những khó khăn khác cản trở đến sự
phát triển bền vững trong hạnh phúc của gia đình , chất lượng cuộc sống, đặc biệt vai
trò của người vợ, trong gia đình bị suy giảm, gây xung đột trong gia đình giữa các
thành viên với nhau. Bình đẳng giới không được đảm bảo cũng là nguyên nhân của
bạo lực gia đình gây ra hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe,hạnh phúc,cuộc sống, kinh
tế trong gia đình. Hạnh phúc gia đình sẽ không trọn vẹn nếu có nam giới ở độ tuổi
trưởng thành khó có cơ hội lấy được người vợ mong muốn, phải sống độc thân. Bởi
mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến tình trạng số nam nhiều hơn đáng kể so với
số nữ ở độ tuổi trưởng thành, đặc biệt là ở độ tuổi kết hôn và sinh đẻ. Nghĩa là có rất
nhiều nam giới có thể không lấy được vợ hoặc rất khó khăn trong việc tìm vợ. Điều
này sẽ gây ra những tác động xấu đối với gia đình. Điều này gây ra những lo lắng,
căng thẳng về tâm lý, mất nhiều thời gian hơn trong việc tìm vợ đối với các thành viên
trong gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc và sự phát triển bền vững kinh tế gia đình.
Người vợ phải cố sinh thêm con trai do bị sức ép từ phía gia đình và người chồng
hoặc phải nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe
của người phụ nữ và sự phát triển bền vững kinh tế gia đình vì: Cố đẻ để có con trai,

nghĩa là người phụ nữ phải sinh đẻ nhiều lần, dẫn đến sức khỏe của người phụ nữ sẽ
bị suy giảm dần. Ngoài ra, mỗi lần sinh đẻ có thể gây ra những rủi ro khó lường đối
với sức khỏe của cả mẹ và con. Mỗi lần nạo phá thai đều gây ra những lo lắng, sợ hãi
đối với người phụ nữ. Ngoài ra, nạo phá thai có thể gây ra những tai biến như băng
huyết, tổn thương cổ tử cung, nhiễm trùng, sót nhau… và có thể dẫn đến vô sinh. Nạo

15


phá thai và cố đẻ để có con trai đều ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững kinh tế gia
đình do phải tăng thêm chi phí để chăm sóc sức khỏe cho người phụ nữ, giảm thu
nhập của các thành viên trong gia đình vì phải dành thời gian để chăm sóc sức khỏe
cho người phụ nữ.
6. Giải pháp đảm bảo bình đẳng giới
Bình đẳng giới là vấn đề được đảng, nhà nước và toàn xã hội hết sức quan
tâm.chúng ta đã thực hiện rất nhiều biện pháp để đảm bảo sự bình đẳng giới. Vì vậy,
vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng đã được
nâng lên rất nhiều so với trước.Tuy nhiên,xét về thực trạng vấn đề giới vẫn còn những
bức xúc trong gia đình cũng như trong xã hội. Trong gia đình, người phụ nữ vẫn phải
làm công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình
sinh con,nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình; tình trạng bạo lực trong
gia đình vẫn còn tồn tại và xảy ra ở một số nơi, …. Trong xã hội, người phụ nữ ít
được giữ chức vụ cao trong công việc,….Vì vậy, để đảm bảo sự bình đẳng giới cần
phải thực hiện một số giải pháp sau:
• Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề giới, bình
đẳng giới được quy định trong các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước. Xem việc thực hiện bình đẳng giới là công việc lâu dài và cần sự
phối đồng bộ của toàn xã hội. Từ đó mỗi người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng
giới không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia
đình và toàn xã hôi; là cơ sở quan trọng để xây dựng gia đình “no ấm, bình

đẳng, tiến bộ và hạnh phúc” tiến tới xây dựng xã hôi “ công bằng, dân chủ và
văn minh”
• Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi phụ nữ ý thức và tự phấn đấu vươn
lên, tự giải phóng mình. Phụ nữ cần cố gắng học tập, nâng cao trình độ văn hóa
và năng lưc, chủ động trong cuộc sống. Cần có hiểu biết về quyền chính đáng
của mình, yêu cầu tổ chức và gia đình thực hiện nghiêm túc quyền đó. Phụ nữ
cần cân bằng, hài hòa giữa quyền và trách nhiệm, giữa gia đình và công việc đê
khẳng định vai trò , vị trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội
• Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường ( đặc biệt
là các THPT) giúp cho thanh thiếu niên nhận thức được những vấn đề giới và
bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống; giúp các em ý thức được trách
nhiệm trong việc xây dựng gia đình và xã hội sau này.

Thứ tư, tổ chức hội phụ nữ từ trung ương đến cơ sở cần hoạt động tích cực
hơn, xây dựng chiến lược công tác tham mưu về cán bộ nữ. Công tác cán bộ nữ
phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên nhằm khắc phục tình trạng chỉ quan
tâm công tác cán bộ nữ trước các kì đại hội hoặc bầu cử. Đồng thời có chế tài
xử lí nghiêm các việc làm sai trái vi phạm tính mạng và nhân phẩm phụ nữ.
Việc tuyên truyền lập pháp, đặc biệt là Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bình

16


đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực gia đình nên gắn với những chương trình
cải thiện đời sống lao động của phụ nữ trên cơ sở giới.

Thứ năm, từ chính quyền trung ương đến địa phương cần chỉ đạo nghiêm túc
việc thực hiện luật; thống nhất về điều khoản bình đẳng trong tuổi về hưu, tuổi
đề bạt. Nhìn chung chúng ta cần phải có cơ chế quản lí nhà nước về gia đình.
Tăng cường việc đào tạo và bổ nhiệm những phụ nữ có tài có đức vào bộ máy

lãnh đạo và quản lí của đất nước. Mời các chuyên gia giỏi về giới tham gia vào
việc hoạch định các chính sách có tính đến giới. Cần kiện toàn lại cơ quan
chuyên trách về giới là vụ Bình đẳng giới thuộc Bộ Lao động thương binh và
xã hội cho tương xứng với tầm vóc của vấn đề giới ở Việt Nam
• Ngoài ra, cần thực hiện các biện pháp chế tài chặt chẽ hôn để nam giới chia sẻ
công việc gia đình với phụ nữ; tổ chức giám sát việc thi hành luật trong các
trường hợp li hôn, thừa kế hoặc các trường hợp khác

Phần 3: KẾT LUẬN
Vấn đề “Bình đẳng giới” đã và đang được nói đến trên rất nhiều diễn đàn và là
đối tượng của nhiều đề tài nghiên cứu. Với bài tiểu luận này, hy vọng có thể làm
phong phú hơn cho kho kiến thức về bình đẳng giới cũng như xã hội hóa vấn đề này
để dần hướng tới một xã hội bình đẳng hơn.

17



×