Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

vấn đề bình đẳng giới trên báo phụ nữ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.01 MB, 35 trang )

Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tình trạng bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình không phải là vấn đề xa
lạ đối với mọi quốc gia nhưng lại là nguyên nhân khiến các nhà lãnh đạo mỗi
nước phải “đau đầu” khi đứng trước vấn đề đó. Bất bình đẳng giới và bạo lực
gia đình có lịch sử gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, khi mà vai
trò của người đàn ông trong sản xuất xã hội ngày càng đề cao. Khi xã hội ngày
càng phát triển, người phụ nữ được tạo điều kiện để thể hiện sâu sắc vai trò xã
hội của mình, nhưng ý nghĩa về vai trò của người đàn ông đã bị biến thiên thành
lối sống bạo lực, độc đoán, ích kỷ, thích áp đặt và tự cho mình cái quyền áp đặt
đó. Trong thời đại mới, dù vai trò xã hội của nữ giới được nâng cao nhưng bất
bình đẳng giới và bạo hành gia đình vẫn còn tồn tại không chỉ ở các nước kém
phát triển hay các nước đang phát triển mà thậm chí còn ở các nước phát triển
với những mức độ biểu hiện khác nhau. Nạn nhân của bất bình đẳng giới đa
phần là những người phụ nữ, họ bị đối xử bất bình đẳng trong công việc, ngoài
xã hội và ngay trong chính gia đình của mình.
Khi bàn về vấn đề bình đẳng giới, Hiến Pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) đã quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc
làm như nhau thì tiền lương ngang nhau… Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để
phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình
trong xã hội…”; Luật Bình đẳng giới (2007) tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa:
“Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; Nam,
nữ không bị phân biệt đối xử về giới”; Nhà nước cũng ban hành một hệ thống
các văn bản pháp luật đầy đủ để điều chỉnh về bình đẳng giới trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình. Trên thực tế, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn
tồn tại và giữa quy định của pháp luật với việc thực thi vẫn là một khoảng cách
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
1


Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
khá xa. Chúng ta đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức mới trong quá
trình thực hiện bình đẳng giới như nạn buôn bán Phụ nữ và trẻ em ra nước
ngoài làm mại dâm; mất cân bằng giới tính trong cơ cấu dân số và cơ cấu lao
động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và những thách thức khác như định
kiến giới, phân biệt đối xử với phụ nữ… đã và đang tồn tại từ rất lâu trong
nhiều lĩnh vực của đời sống, hạn chế sự phát triển của phụ nữ nói riêng và sự
tiến bộ của xã hội nói chung. Hiểu được những thách thức, khó khăn đó, xã hội
chúng ta cần phải tích cực chung tay hành động, xoá bỏ bất bình đẳng giới, tạo
mọi điều kiện tốt đẹp nhất để hai giới cùng phát triển và hội nhập.
Để thực hiện bình đẳng giới yêu cầu phải thực hiện nhiều biện pháp kết
hợp với nhau. Báo chí với chức năng xã hội đặc biệt và có sức tác động lớn đến
xã hội, được coi là một trong những biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy
cuộc đấu tranh vì sự nghiệp bình đẳng giới. Luật Báo chí 1989 (sửa đổi, bổ sung
năm 1999) chỉ rõ: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan
ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới
đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân” (Điều 1).
Báo Phụ nữ Việt Nam – Cơ quan Trung ương của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, có thể nói đây là một tờ báo riêng của giới nữ, là một diễn đàn quan
trọng chuyên phản ánh và đề cập đến vai trò, tiếng nói của nữ giới trong xã hội,
góp phần lên án và đấu tranh vì sự tiến bộ của nữ giới, vì sự bình đẳng trong xã
hội. Đó chính là lý do để tôi lựa chọn báo Phụ nữ Việt Nam làm phạm vi nghiên
cứu vấn đề bình đẳng giới, với mục đích nhìn nhận và đánh giá chính xác một
cách chính xác hơn nữa hiệu quả tuyên truyền và nâng cao nhận thức xã hội của
báo chí nói chung và của báo Phụ nữ Việt Nam nói riêng đối với toàn xã hội.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
2
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
2. Mục đích nghiên cứu.

Nghiên cứu bất bình đẳng giới và các biện pháp tuyên truyền bất bình
đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình trên báo chí nói chung và cụ thể là trên
báo Phụ Nữ Việt Nam.
Trên cơ sở thực tiễn nghiên cứu trên báo Phụ Nữ Việt Nam, đề xuất
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền nâng cao nhận thức và
đấu tranh vì sự nghiệp bình đẳng giới của xã hội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giải quyết những vấn đề lý luận và xây dựng cơ sở lý luận về vai trò
của báo chí trong công tác tuyên truyền xã hội.
- Chỉ ra thực trạng bất bình đẳng giới và các hình thức phản ánh, đề cập
vấn đề bất bình đẳng giới trên báo Phụ Nữ Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề bất bình đẳng giới và vai trò của báo chí
trong công tác tuyên truyền bất bình đẳng giới;
- Phạm vi nghiên cứu: Báo Phụ Nữ Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận khoa học: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp tổng hợp, phương pháp
phân tích, phương pháp đánh giá…
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp khảo sát
6. Kết cấu niên luận
- Tên niên luận: Vấn đề Bình đẳng giới trên báo Phụ nữ Việt Nam
- Kết cấu niên luận: 2 chương
Chương 1: Một số nét khái quát về bất bình đẳng giới
Chương 2: Bình đằng giới trên báo Phụ nữ Việt Nam
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
3
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1. Khái niệm, mục tiêu bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới
Theo tài liệu Thúc đẩy bình đẳng giới để chống buôn bán phụ nữ và trẻ
em” (Dự án Chống buôn bán trẻ em và phụ nữ tại tiểu vùng Mêkông) của tổ
chức ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế), khái niệm giới và bình đẳng giới được
hiểu như sau:
Giới chỉ sự khác biệt về xã hội và quan hệ (về quyền lực) giữa trẻ em trai
và trẻ em gái, giữ phụ nữ và nam giới, được hình thành và khác nhau ngay trong
một nền văn hoá và giữa các nền văn hoá và thay đổi theo thời gian. Sự khác
biệt này được nhận thấy rõ ràng trong vai trò, trách nhiệm, nhu cầu, khó khăn
và thuận lợi của các giới.
Giới tính chỉ sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và nữ giới mang
tính toàn cầu và không thay đổi.
Bình đẳng giới đề cập đến sự bình đẳng về quyền, trách nhiệm và cơ hội
của nam giới và nữ giới, trẻ em gái và trẻ em trai.
Luật Bình đẳng giới Việt Nam (2007) cũng đã đưa ra khái niệm về giới,
giới tính và bình đẳng giới như sau:
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan
hệ xã hội.
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
Trong tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong họach định và thực thi
chính sách” do Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam (xuất bản năm
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
4
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
2004) cũng đề cập đến bình đẳng giới và cho rằng: “Bình đẳng giới là sự thừa

nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và
nam giới”.
Như vậy, cả ILO và các tài liệu bình đẳng giới Việt Nam đều cho rằng
giới và giới tính là chỉ sự khác biệt nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ. Đồng
thời thừa nhận bình đẳng giới, tức là thừa nhận sự ngang bằng nhau trong quyền
và trách nhiệm cũng như về vị trí, vai trò của cả nam và nữ trong gia đình và
ngoài xã hội. Do đó, bình đẳng giới có thể được hiểu một cách chung nhất là
những mối quan hệ không có sự phân biệt đối xử với phụ nữ; ở đó, phụ nữ và
nam giới có cơ hội, có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và được
đối xử, được hưởng thụ như nhau về các thành quả trong mọi lĩnh vực của xã
hội; họ được tham gia như nhau vào mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá,
chính trị và dân sự.
1.1.2. Mục tiêu bình đẳng giới
Điều 4, Luật Bình đẳng giới (2007) đã khẳng định: Mục tiêu bình đẳng
giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng
giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa
nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Theo đó, người phụ nữ không bị phân biệt đối xử và tạo điều kiện phát
triển toàn diện. Cả nam giới và nữ giới không có sự phân biệt về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi, họ đều được đối xử ngang nhau về mọi mặt. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa bình đẳng giới là sự hoán đổi vai trò của nam, nữ từ thái
cực này sang thái cực khác; hay sự bình đẳng đó được tuyệt đối hóa hoàn toàn
với tỷ lệ 50/50, mà cần hiểu rằng, bình đẳng giới là sự khác biệt về giới tính
trong các hoạt động sản xuất, tái sản xuất và các hoạt động xã hội khác và đòi
hỏi sự chia sẻ công việc gia đình, chăm sóc các thành viên trong gia đình để tạo
cơ hội cho cả nam và nữ phát triển toàn diện về mọi mặt.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
5
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng

Trong Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai
đoạn đến năm 2010 của Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam cũng đã đưa ra mục tiêu tổng quát trong thực hiện bình đẳng giới:
“Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều
kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ
trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Trong mục
tiêu tổng quát đó còn bao gồm những mục tiêu cụ thể về bình đẳng giới trên các
lĩnh vực:
- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động,
việc làm;
- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục -
đào tạo;
- Cải thiện và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ;
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo; Bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ và trẻ em gái trong gia
đình và xã hội;
- Tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Trong mỗi mục tiêu cụ thể sẽ đưa ra những chỉ tiêu phấn đấu riêng và ứng
với mỗi lĩnh vực thì sẽ có những hướng giải pháp đạt mục tiêu phù hợp với lĩnh
vực đó. Ví như với mục tiêu thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trên lĩnh vực
lao động việc làm, Uỷ ban hành động đã đưa ra một loạt các chỉ tiêu cụ thể để
thực hiện đến năm 2010: Tỷ lệ 50% lao động nữ trong tổng số người được tạo
việc làm mới; Giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ ở khu vực thành thị xuống
dưới 6%; Giảm 50% số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ; Tăng tỷ lệ lao động nữ
được đào tạo lên 35%, trong đó đào tạo nghề là 21% Để đạt được mục tiêu thì
hướng tới thực hiện các giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
6
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng

về lao động, việc làm nhằm bảo đảm bình đẳng giới; Thúc đẩy thực hiện chính
sách đối với lao động nữ; Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nữ…
Dù trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn và mỗi lĩnh vực có những mục tiêu
và chỉ tiêu cụ thể nhưng tựu chung lại đều hướng tới thực hiện một cách có hiệu
quả công tác bình đẳng giới. Chính vì thế, Nhà nước và toàn xã hội không
ngừng thúc đẩy thực hiện các biện pháp bình đẳng giới như: phòng chống bạo
lực gia đình; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ;
tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; khuyến khích cơ quan, tổ
chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới; và bảo
đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình đặc biệt là thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động sản xuất (bình
đẳng về tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội…).
1. 2. Hệ quả của bất bình đẳng giới
Chúng ta không phủ nhận việc có nhiều phụ nữ đã và đang nắm giữ
quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế lớn ở nhiều quốc gia và trong xã hội.
Nhưng bất bình đẳng giới từ lâu đã được coi là một vấn đề xã hội bức xúc của
hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những nước Á Đông và ở các
nước Hồi giáo.
Việt Nam là một quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi những tư tưởng,
những quan niệm phong kiến mang tính định kiến, phân biệt đối với người phụ
nữ. Một thời gian dài, người phụ nữ bị gò bó trong những giáo lý nghiêm ngặt
của lễ giáo phong kiến, họ không được học hành, không được phép tham gia
vào các hoạt động xã hội, bị trói buộc vào những công việc gia đình và lệ thuộc
vào người đàn ông trong chính gia đình đó. Tiếng nói và vai trò xã hội của
người phụ nữ hầu như bị biến mất. Xã hội hiện đại đã dần có những bước “cởi
trói” cho người phụ nữ, tạo điều kiện cho họ phát triển một cách toàn diện hơn
và có nhiều cơ hội được đóng góp sức mình vào sự phát triển chung của xã hội.
Tuy nhiên, điều đó cũng không thể xoá bỏ được tình trạng bất bình đẳng giới đã
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
7

Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
tồn tại ở nước ta hàng trăm năm qua. Chính sự bất bình đẳng đó đã kéo theo
hàng loạt những hệ luỵ cho xã hội. Chúng ta có thể kể đến một số hậu quả của
bất bình đẳng giới như: Nạn bạo hành trong gia đình, nạn buôn bán phụ nữ và
trẻ em gái, tình trạng mất cân đối về giới trong cơ cấu dân số…
1.2.1. Nạn bạo hành trong gia đình
Phụ nữ được coi là một nửa của thế giới; ở Việt Nam, nữ giới chiếm 1/2
dân số cả nước với khoảng 50,8% tổng dân số cả nước và 50% lao động của cả
nước nhưng chính họ lại là những người đang trực tiếp phải đối mặt với nạn bạo
hành gia đình.
Ở Việt Nam, bạo hành gia đình khá phổ biến, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn và những vùng kinh tế kém phát triển. Nạn nhân của bạo hành gia đình chủ
yếu là phụ nữ, và trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều
yếu tố khác nhau, nhưng tập trung vào các nguyên nhân do rượu, cờ bạc, nghèo
túng, do sinh con một bề toàn là gái, do ghen tuông vô cớ, do trình độ nhận thức
hạn chế… Những người đàn ông hành hạ vợ mình thường gia trưởng, cho mình
có quyền hành hạ vợ, còn người vợ đương nhiên phải chịu đựng. Họ thanh minh
việc đánh vợ là do vợ nói lắm, suốt ngày cằn nhằn nhưng họ không cần biết lý
do vì sao vợ phải cằn nhằn.
Không chỉ ở nông thôn mà ngay cả ở thành thị, nơi có điều kiện kinh tế
phát triển và có trình độ văn hoá cao, tình trạng bạo hành trong gia đình cũng
diễn ra rất phức tạp. Bạo lực gia đình không chỉ dừng lại ở việc đánh đập, hành
hạ về thể xác mà còn phải kể tới tình trạng bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình
dục, bạo hành về mặt xã hội (ngăn cấm giao tiếp với bên ngoài…). Có ý kiến
cho rằng trong những gia đình trí thức, tình trạng bạo hành càng tinh vi hơn,
không có những hành động thô bạo về thể xác nhưng khủng bố về mặt tinh
thần. Báo Lao động số 127 ra ngày 10/6/2009 đăng bài viết: “Bạo hành trong
gia đình: Càng trí thức, càng tinh vi” (Quỳnh Châu) đề cập đến tình huống trả
thù vợ của một người chồng trí thức. Chỉ vì ghen tuông và muốn tra tấn tinh
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN

8
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
thần vợ sau một lần lầm lỡ tình cảm bằng cách treo ảnh vợ và bạn trai cũ thân
mật trong phòng ngủ của hai vợ chồng và bật đèn rọi tranh suốt đêm. Điều đó
đã khiến người vợ bị suy nhược thần kinh và kết cục đã lựa chọn giải pháp uống
thuốc ngủ tự vẫn.
Bạo hành trong gia đình: Càng trí thức, càng tinh vi
Lao Động số 127 Ngày 10/06/2009 Cập nhật: 9:10 AM, 10/06/2009
LĐ) - Hứa hẹn sẽ bỏ qua hết khi vợ quay trở về tổ ấm sau một lần lầm lỡ tình
cảm, nhưng anh M - một nghệ sĩ - vẫn treo ảnh vợ và bạn trai cũ thân mật ngay
trong phòng ngủ của hai vợ chồng và bật đèn rọi tranh suốt đêm.
Bị ám ảnh bởi cách tra tấn tinh thần khủng khiếp của chồng, sau 2 năm chịu
đựng, chị N - vợ anh - đã uống thuốc ngủ tự vẫn.
Đó là một trong những câu chuyện vô cùng thương tâm chúng tôi được nghe chị
Nguyễn Thị Thuý - GĐ Trung tâm Tư vấn và thông tin tư liệu về bạo lực giới
(CMRC) - kể lại khi tìm hiểu về các trường hợp bạo hành trong các gia đình trí
thức.
Theo thống kê của Viện Xã hội học, Viện KH-XH Việt Nam trong năm
2006, Việt Nam có đến 66% các vụ ly hôn liên quan đến bạo hành gia đình; 5%
phụ nữ được hỏi thừa nhận bị chồng đánh đập thường xuyên; 82% hộ dân nông
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
9
Càng trong những gia đình trí
thức thì hành vi bạo hành diễn
ra càng tinh vi và người ngoài
không thể biết được (cảnh trong
phim "Khoan nói lời yêu
thương" do CMRC phối hợp
sản xuất).
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng

thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực; Tỷ lệ phụ nữ bị ngược đãi trong
những gia đình khá giả ở mức cao,76%.
Bạo lực gia đình được xem là hành vi phạm pháp và được quy định trong
Bộ Luật hình sự nhưng trong thực tế các nạn nhân, thường là phụ nữ không
nhìn nhận đó là vi phạm pháp luật, họ coi việc chịu đựng đó là lẽ đương nhiên
vì họ là vợ và họ cũng không dám lên tiếng vì sợ xấu hổ, sợ mất mặt với bà con
hàng xóm láng giềng. Chỉ khi bị đánh đập tàn nhẫn không chịu đựng nổi thì họ
mới tìm tới đến các đoàn thể, cơ quan chức năng như Công an, Hội phụ nữ để
nhờ giải quyết. Nhiều người không muốn đem vụ việc ra giải quyết bởi việc
giải quyết theo luật pháp đều ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi, kinh tế chung
của gia đình, sợ cảnh con cái, cha mẹ bị “tan đàn xẻ nghé”…
Bạo hành gia đình gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng, làm cho
không ít gia đình phải ly tan và thường để lại những di chứng nặng nề cho con
cái của họ. Trẻ em gái thường rất mặc cảm trước mọi người, không thích giao
tiếp, không tự tin trong cuộc sống, luôn có tư tưởng bỏ học, không dám kết thân
với người khác, nếu tình trạng bạo lực gia đình kéo dài sẽ khiến các em dần rơi
vào trạng thái lãnh cảm. Trẻ em trai thì trở nên ương bướng, khó bảo, thích gây
gổ với người khác, học hành rất kém và rất nhiều trong số đó đã trở nên hư hỏng.
1.2.2. Nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em gái
Trong những năm qua, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em gái ra nước
ngoài làm mại dâm diễn ra khá phổ biến và có chiều hướng gia tăng ở nước ta.
Nạn nhân chủ yếu là những phụ nữ và trẻ em ở các vùng nông thôn, vùng núi có
điều kiện kinh tế khó khăn và trình độ nhận thức thấp bị kẻ xấu lợi dụng, lừa
bán sang Trung Quốc, Camphuchia, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Hồng
Kông, thậm chí cả một số nước châu Âu, châu Mỹ… Họ bị lừa bán để "làm vợ"
hoặc phải vào các động mại dâm của người địa phương hoặc cộng đồng người
gốc Việt ở nước đó, một số khác bị đưa đi lao động cưỡng bức.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
10
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng

Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an), giai đoạn 1998 –
2006, ở nước ta có 5.746 phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài và 665 phụ nữ
và trẻ em bị buôn bán trong nước, chưa kể đến 7.940 phụ nữ và trẻ em nghi ngờ
bị buôn bán. Từ năm 2005 đến tháng 6-2008, cả nước đã xảy ra 1.100 vụ với
2.800 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán, diễn ra mạnh nhất tại các tuyến biên giới
Việt Nam – Trung Quốc với hơn 65% tổng số vụ. Tuyến Việt Nam – Cam-pu-
chia cũng chiếm đến 15% tổng số vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em, tuyến Việt
Nam – Lào chiếm khoảng 6,5% số vụ… Theo thống kê của Ban Chỉ đạo
130/CP (Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em), chỉ
trong sáu tháng đầu năm 2009, cả nước đã xảy ra 191 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ
em, với 362 đối tượng, lừa bán 417 nạn nhân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em ngày càng
gia tăng nhưng đây cũng chính là hệ quả của tình trạng bất bình đẳng giới và
nạn bạo hành gia đình. Hầu hết các chị em phụ nữ ở nông thôn, do trình độ hiểu
biết thấp lại bị đối xử phân biệt, tệ bạc ngay trong chính gia đình của mình nên
họ dễ bị tổn thương và dễ bị kẻ xấu lợi dụng với những chiêu thức lừa như được
lấy chồng giàu sang, được ra nước ngoài làm việc với mức lương cao… Vì
mong ước được thoát nghèo, được thoát khỏi địa ngục gia đình nên họ dễ dàng
tin tưởng một cách mù quáng vào những người sẵn sàng chia sẻ, hứa hẹn giúp
đỡ họ mà đâu biết rằng đó là một bẫy bán thân.
Các nhà hoạt động xã hội trong quá trình nghiên cứu đã đưa ra nguyên
nhân khiến chị em phụ nữ rơi vào tay bọn buôn bán người chính là sự cả tin. Và
sự cả tin đó xuất phát từ những nỗi khổ cực, bất hạnh do sự phân biệt đối xử, do
những bất bình đẳng giới mà họ phải gánh chịu. Vô hình chung chính tư tưởng
trọng nam khinh nữ, tư tưởng phân biệt giới đã tiếp tay cho nạn buôn bán phụ
nữ và trẻ em, gây nên những kết cục đau buồn cho chính bản thân người phụ nữ
và những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
1.2.3. Tình trạng mất cân đối về giới trong cơ cấu dân số
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
11

Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Bên cạnh những hệ quả về nạn bạo hành gia đình và nạn buôn bán phụ nữ
và trẻ em ra nước ngoài làm mại dâm, bất bình đẳng giới còn là nguyên nhân
gây ra tình trạng mất cân đối về giới trong cơ cấu dân số ở nước ta trong gần
một thập kỷ qua.
Dù đã sang thể kỷ 21, nhưng quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô”… vẫn là tâm lý ăn sâu bám rễ ở mỗi người dân
Việt Nam, đặc biệt là những người dân vùng nông thôn, những dân tộc vùng
sâu vùng xa nhận thức còn thấp kém. Đã có rất nhiều người vì khao khát có con
trai để nối dõi tông đường nên đã nạo phá những bào thai khi kết quả siêu âm là
bé gái dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về giới trong cơ cấu dân số
chung của cả nước; thậm chí có những những người vợ vì không sinh được con
trai, đã lén lút cưới vợ lẽ cho chồng, cũng chính điều đó đã gây ra hậu quả
người vợ cả bị hắt hủi, ghẻ lạnh khi chồng có vợ mới, gia đình ly tán, con cái bị
thiếu thốn tình cảm cũng như sự nuôi dạy của cha mẹ…
Theo số liệu của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình (2007), tỷ số
giới tính khi sinh (số bé trai/100bé gái) của cả nước là 112/100, trong đó cả
nước có tới 16 tỉnh, thành phố có tỷ lệ giới cao đến mức báo động từ 115 –
118/100. Người ta cũng dự báo rằng, trong khoảng 15 – 20 năm tới, Việt Nam
sẽ thiếu từ 2,3 – 4,3 triệu nữ giới (trung bình khoảng 3 triệu thanh niên nam giới
Việt Nam không có cơ hội lấy vợ). Theo Báo cáo kết quả suy rộng mẫu của
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở đã tiến hành vào thời điểm 1/4/2009 được
công bố tại buổi họp báo ngày 31/12/2009, dân số Việt Nam đã đạt gần 85,8
triệu người. Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam ở mức tương đối cao, đạt
111/100, đặc biệt cao ở vùng đồng bằng Sông Hồng (115/100), tiêu biểu nhất là
Hưng Yên với tỷ số 131/100. Đây chính là những hệ quả chủ yếu nảy sinh từ sự
bất bình đẳng giới.
Từ những vấn đề đã nêu trên, dù bình đẳng giới đã được thực hiện rất phổ
biến và trên diện rộng nhưng những tư tưởng, những định kiến về giới vẫn chưa
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN

12
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
được cải thiện, chưa được xoá bỏ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Bình đẳng
nam nữ đang thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài đòi hỏi cần phải
có sự chung tay, góp sức và tinh thần trách nhiệm của toàn xã hội.
Chương 2. BÁO PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG
TUYÊN TRUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI
2.1. Một số vấn đề lý luận chung về báo chí
Báo chí - truyền thông xuất hiện trong quá trình phát triển của loài người
nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp, truyền đạt thông tin của con người trong xã
hội. Càng về sau, vị trí, vai trò của báo chí đối với xã hội ngày càng quan trọng
trong việc tạo và định hướng dư luận xã hội khiến cho báo chí được mệnh danh
là một dạng “quyền lực thứ 4” cùng với các quyền lực Nhà nước (quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp).
2.1.1. Vị trí, vai trò của báo chí
Báo chí là một hình thái ý thức xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin – giao
tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Ngay từ khi mới ra đời, báo chí đã thể
hiện tính năng động trong việc phản ánh hiện thực xã hội và trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người.
Với tư cách là những phương tiện truyền thông đại chúng hoạt động trên
quy mô toàn xã hội, báo chí đã tham gia vào việc tìm tòi, phát hiện những con
đường, phương pháp hợp lý để giải quyết các nhiệm vụ của thực tiễn; đảm bảo
thông tin chính xác, trung thực và kịp thời cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
13
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
kiện của đời sống xã hội và thế giới xung quanh trên một phạm vi rộng lớn;
đồng thời báo chí cũng tham gia vào việc hình thành và định hướng dư luận
đúng đắn, xây dựng thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của
các cá nhân trong cộng đồng, xã hội. Do đó, báo chí luôn giữ vai trò hết sức

quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. Bất kỳ một lực
lượng cầm quyền nào cũng muốn nắm giữ và sử dụng báo chí như một công cụ
để tác động vào tư tưởng, tình cảm của công chúng nhằm tạo ra ở họ những
nhận thức mới, những định hướng có giá trị cho cuộc sống theo mục đích của
giới cầm quyền. Chính vì thế một thứ quyền lực bất thành văn đã được trao cho
báo chí để chỉ sự tác động to lớn của nó đối với toàn xã hội – “quyền lực thứ 4”.
Xã hội mặc nhiên thừa nhận điều đó và thực tế hoạt động của báo chí cũng ngày
càng củng cố thêm địa vị của mình trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên thực tế, báo chí cách mạng Việt Nam đã gắn liền với cuộc cách mạng
đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước của nhân dân ta trong suốt một
thế kỷ qua. Ngày nay, báo chí không những giữ vai trò cung cấp kiến thức thông
tin cho công chúng và tạo lập, định hướng, hướng dẫn dư luận mà còn tham gia
vào công tác quản lý và giám sát xã hội, tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1.2. Chức năng của báo chí
Truyền thông là một quá trình trao đổi, chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ
năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận
thức của con người. Báo chí là một loại hình truyền thông, hoạt động thông tin
mang tính chính trị - xã hội, ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội nên nó
cũng mang trong mình những chức năng nhất định nhằm thay đổi hành vi và
nhận thức của con người, định hướng dư luận xã hội.
2.1.2.1. Chức năng giáo dục tư tưởng
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
14
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Chức năng giáo dục tư tưởng hay còn gọi là chức năng nhận thức của báo
chí là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí nhằm tác
động vào ý thức xã hội, nâng cao trình độ nhận thức của công chúng và hình
thành một hệ tư tưởng chính thống với những định hướng nhất định.

Để thực hiện được điều đó, báo chí phải thông tin một cách chính xác,
đầy đủ, sinh động các sự kiện, hiện tượng cũng như các quá trình xã hội, phân
tích các mối quan hệ và chỉ ra các biểu hiện của những mối quan hệ đó nhằm
mang lại cho công chúng một bức tranh toàn cảnh về hiện thực của đời sống xã
hội. Đồng thời thông qua đó, báo chí còn giúp công chúng nhìn nhận, đánh giá
đúng đắn về bức tranh hiện thực đó để xác định và định hướng hành vi ý thức
của mình cho phù hợp.
Báo chí có sức tác động lớn và trực tiếp đến sự hình thành, định hướng dư
luận xã hội một cách nhanh chóng và toàn diện. Tính chất dư luận xã hội như thế
nào phụ thuộc vào mức độ thông tin trên báo chí. Chính vì thế, ở nước ta, Đảng
sử dụng báo chí như một phương tiện truyền thông quan trọng để giáo dục chính
trị - tư tưởng cho quần chúng và “báo chí báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước và đoàn thể xã hội vừa là tiếng nói của nhân dân. Sức mạnh định hướng của
báo chí thể hiện ở khả năng trở thành diễn đàn cho toàn Đảng, toàn dân tham gia
thảo luận và giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, phê bình và đấu
tranh chống những hiện tượng tiêu cực cản trở sự phát triển của xã hội”
1
. Báo chí
Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong công tác truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; truyền bá tri thức tiên tiến của nhân loại và tuyên
truyền, giải thích bản chất đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội đến với quần chúng. Trên cơ sở đó cổ động
quần chúng, hình thành những nhận thức và hành vi tích cực trong đời sống xã
hội, phù hợp với mục đích chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
1
Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang. Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005, tr. 76.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
15

Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
2.1.2.2. Chức năng quản lý và giám sát xã hội
Ngoài chức năng giáo dục tư tưởng, báo chí còn có chức năng quản lý và
giám sát xã hội. Trong hoạt động quản lý xã hội, báo chí đóng vai trò là cầu nối
giữa các cơ quan, tổ chức quản lý (chủ thể quản lý) và đối tượng quản lý (công
chúng, xã hội) thông qua việc cung cấp thông tin cho cả chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý.
Trong hoạt động quản lý, những đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đến với người dân thông qua báo chí. Báo chí truyền tải, phổ
biến, giải thích để người dân hiểu và thực hiện vào trong thực tiễn. Ngược lại,
báo chí cũng là nơi thể hiện ý kiến phản hồi, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng
tới các cấp có thẩm quyền để từ đó có sự điều chỉnh lại hoặc ban hành những chính
sách mới phù hợp hơn, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn; Đồng thời cũng góp phần
xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thông qua việc
phản ánh kịp thời tình hình thực tế, hiện trạng các vấn đề đang xảy ra trong xã hội;
Báo chí còn tham gia quản lý và giám sát xã hội thông qua hoạt động lên án, phê
phán và đấu tranh chống lại những tiêu cực trong xã hội.
Ngày nay, báo chí đã và đang đóng góp một vai trò rất quan trọng trong
việc tố cáo, phanh phui những tệ nạn, những thói hư tật xấu trong xã hội và các
vấn đề tiêu cực trong hoạt động quản lý Nhà nước… Thông qua sức ép dư luận
xã hội, những hành vi tiêu cực đó được xử lý một cách công khai và nghiêm
minh. Đây chính là mục đích hoạt động của báo chí nhằm mang lại sự công bằng
và bình ổn trong xã hội.
2.1.2.3. Chức năng phát triển văn hoá và giải trí
Trước đây chức năng chủ yếu của báo chí chỉ dừng lại ở chức năng giáo
dục tư tưởng, định hướng nhận thức dư luận xã hội. Trong xu thế phát triển
chung và nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của con người, chức năng
phát triển văn hoá và giải trí của báo chí dần dần được hình thành và trở thành
một phần không thể thiếu trong báo chí.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN

16
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Báo chí là kênh truyền bá, phổ biến một cách sinh động, hấp dẫn các loại
hình và tác phẩm văn hoá – văn nghệ để nâng cao trình độ nhận thức và đáp ứng
nhu cầu văn hoá – giải trí của nhân dân. Các tác phẩm văn hoá – nghệ thuật trong
báo chí có thể là các tác phẩm về nghệ thuật, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, điện
ảnh, những tin bài về hoạt động trong lĩnh vực văn hoá – nghệ thuật… Qua đó để
đại chúng hoá các giá trị văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc, nhân loại, đồng
thời tạo điều kiện cho mỗi thành viên tự bổ sung thêm nguồn tri thức và tự làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của mình, hình thành nhân cách, lối sống tốt
đẹp. Bên cạnh ý nghĩa đó, báo chí Việt Nam còn góp phần truyền bá, bảo vệ, bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phổ biến rộng rãi đạo đức, phong tục tập
quán tích cực của dân tộc Việt đê gây ảnh hưởng… Ngày nay, chức năng giải trí
của báo chí còn bao gồm cả hoạt động quảng cáo, giúp công chúng tìm kiếm
thông tin dễ dàng, tiết kiệm về kinh tế và thời gian.
Với chức năng văn hoá và giải trí đã làm phong phú thêm vai trò của báo
chí đối với xã hội, góp phần thiết lập những mối quan hệ, những lối sống lành
mạnh, tích cực. Do đó, báo chí vừa là công cụ tích cực thực hiện truyền bá tác
phẩm văn hoá, vừa là nơi hội tụ các sáng tạo các giá trị văn hoá và kiểm nghiệm
các tác phẩm văn hoá. Với ưu thế đó, báo chí vừa giáo dục chính trị, tư tưởng vừa
giáo dục đạo đức thẩm mĩ của công chúng, hướng con người tới Chân – Thiện –
Mĩ, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của xã hội.
Tuy phân chia thành các chức năng cụ thể, riên biệt nhưng các chức năng
của báo chí không hoàn toàn tách rời nhau mà có sự đan xen, cài lồng trong các
tác phẩm báo chí. Mỗi tờ báo, mỗi tác phẩm báo chí đều có sức lan toả rất lớn tới
công chúng và có giá trị định hướng cho công chúng không chỉ về nhận thức, tư
tưởng mà còn cả về văn hoá, tinh thần.
2.2. Vấn đề bình đẳng giới trên báo Phụ Nữ Việt Nam
2.2.1. Đôi nét về báo Phụ nữ Việt Nam
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN

17
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Báo chí với tư cách là cơ quan ngôn luận của Đảng, của cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân đã không ngừng phát huy vai
trò và chức năng của mình đối với xã hội. Báo Phụ nữ Việt Nam cũng không
nằm ngoài vai trò đó.
Báo Phụ nữ Việt Nam ra đời năm 1977, số báo đầu tiên ra từ ngày 1-
3/1/1977 với số lượng 1số/1 tuần. Cơ quan chủ quản của tờ báo là Trung ương
Hội phụ nữ Việt Nam và được coi là cơ quan ngôn luận của một tổ chức chính
trị - xã hội, cụ thể là của Hội Phụ nữ Việt Nam, là tiếng nói của chị em phụ nữ
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; trụ sở chính đặt tại số 47
Hàng Chuối, Hà Nội. Ngay từ khi mới ra đời, tờ báo đã nhanh chóng phản ánh
đời sống, tâm tư, nguyện vọng và những hoạt động cũng như vai trò xã hội tích
cực của phụ nữ. Chính những điều đó đã dần nâng cao nhận thức cho xã hội nói
chung và cho phụ nữ nói chung trong việc đòi hỏi quyền tự do, bình đẳng giới,
đấu tranh chống lại những quan niệm cổ hủ, lạc hậu dẫn đến tư tưởng kỳ thị và
phân biệt đối với phụ nữ. Thực tế cuộc chiến tranh của dân tộc ta, không ít
những tấm gương phụ nữ điển điển hình cả trong sản xuất và chiến đấu như chị
Út Tịch, chị Hai Năm tấn, chị Nguyễn Thị Minh Khai, Chị Nguyễn Thị
Thắng… và có hàng triệu những bà mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng các thế hệ
anh hùng, hiến dâng cho Tổ quốc những người con, những người làm nên chiến
thắng vẻ vang, làm rạng rõ cho non sông đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức
dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” và Người cũng đã tặng phụ nữ Việt Nam 8
chữ vàng: “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang” để khẳng định vai trò
to lớn của phụ nữ đối với đất nước.
Hiện nay, báo Phụ nữ Việt Nam là một trong những tờ báo có tên tuổi
trong làng báo chí Việt Nam với số lượng xuất bản 3 số/1 tuần vào các ngày thứ
2, 4, 6 trong tuần. Hình thức của tờ báo đã có nhiều cải tiến rõ rệt về màu sắc,
khổ báo, cỡ chữ, hình ảnh… để phù hợp với xu hướng phát triển chung của báo

Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
18
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
in. Về nội dung của tờ báo cũng được đổi mới hơn với những tin, bài phong phú
trên mọi hoạt động, không bị bó hẹp trong các hoạt động liên quan đến nữ giới.
Từ khi Luật Bình đẳng giới Việt Nam bắt đầu có hiệu lực (1/7/2007), nội dung
tờ báo đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực bình đẳng giới, tham gia vào công tác
tuyên truyền chính sách, chủ trương bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước;
đồng thời đấu tranh, lên án tình trạng bạo lực gia đình, kỳ thị, phân biệt đối xử
đối với nữ giới, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội nói chung và của chính
chị em phụ nữ nói riêng trong công cuộc xoá bỏ bất bình đẳng giới.
Và đây cũng chính là nội dung người viết muốn khảo sát trên báo Phụ nữ
Việt Nam trong giai đoạn Luật Bình đẳng giới bắt đầu có hiệu lực nhằm mục
đích nghiên cứu các hình thức tuyên truyền bình đẳng giới và hiệu quả của việc
tuyên truyền đó trên tờ báo. Vì vậy trong niên luận, người viết chỉ xin đề cập
đến vấn đề bình đẳng giới trên báo Phụ nữ Việt Nam trong những tháng cuối
năm 2007, là những tháng đầu khi Luật bình đẳng giới chính thức được áp dụng
trên thực tế, từ đó có cơ sở để so sánh với các số báo ra sau này, cụ thể là số báo
tháng 1, 2 và 3/2010.
2.2.2. Các hình thức tuyên truyền bình đẳng giới trên báo Phụ nữ
Việt Nam
Qua khảo sát trên 53 số báo của các tháng 7, 8, 9 và 10/2007 (bắt đầu từ
số 79 ra ngày 02/7/2007 đến số 131 ra ngày 30/10/2007), cho thấy số lượng tin
bài đăng tải trên mỗi tờ báo dao động từ 30 – 42 tác phẩm, bao gồm tin, bài
phản ánh, câu chuyện báo chí, tâm sự - tư vấn, giải đáp pháp luật (không bao
gồm quảng cáo và các bài PR) trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời
sống tình cảm – hôn nhân và gia đình. Trong đó, tin bài liên quan đến hoạt động
của nữ giới luôn chiếm khoảng 9% – 22% dung lượng tờ báo. Việc tuyên truyền
bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ được truyền tải qua các khía cạnh sau:
2.2.2.1. Tin, bài phản ánh hoạt động của phụ nữ

Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
19
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Trên trang nhất tờ báo là phần đưa những nội dung quan trọng, chủ chốt
(hay còn gọi là các “bài đinh”) của số báo đó. Thông thường là các thông tin
mang tính chính trị - xã hội quan trọng, được sự quan tâm đặc biệt của công
chúng và những tin, bài về các hoạt động, các phong trào tiêu biểu của Hội Phụ
nữ các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Trang nhất báo Phụ nữ Việt Nam số 154 ra ngày 24/12/2007.
Nội dung thông tin trong các tin bài về hoạt động của Hội Phụ nữ Việt
Nam phải là những thông tin phản ánh chủ những hoạt động xã hội, những sự
kiện tiêu biểu, có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội trong nước và quốc tế. Ví dụ
như đưa tin về buổi bế mạc Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành TW Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam; Quan hệ giữa hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội
Liên hiệp Phụ nữ Lào; Phụ nữ đóng góp lớn vào thành tựu chung của đất
nước… Đây là những bài viết thể hiện được vai trò xã hội to lớn của nữ giới, họ
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
20
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
không bị trói buộc trong những quan niệm phong kiến mà trực tiếp tham gia các
hoạt động chính trị - xã hội, đạt được những kết quả cao và được xã hội thừa
nhận, tôn vinh.
Báo Phụ nữ Việt Nam số 110, ra ngày 12/9/2007.
Để chứng minh cho vai trò của phụ nữ trong lao động và sản xuất xã hội,
bài viết “Phụ nữ đóng góp lớn vào thành tựu chung của đất nước” (số 110 ra
ngày 12/9/2007) đã đưa ra những số liệu cụ thể: 50,2% lao động trong sản xuất
nông – lâm – ngư nghiệp là phụ nữ; 39,4% lao động nữ tham gia vào lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng; 51,8% lao động nữ trong lĩnh vực dịch vụ và có 42,98%
lao động nữ trong các doanh nghiệp, 25% nữ giới là chủ doanh nghiệp… Như
vậy, không chỉ tham gia sản xuất trong khu vưc I (sản xuất nông – lâm – ngư),

phụ nữ Việt Nam đã và đang tham gia vào các khu vực sản xuất phi nông
nghiệp với số lượng ngày càng đông. Điều đó chứng tỏ rằng, vai trò của phụ nữ
ngày càng được nâng cao hơn, ngày càng đóng góp nhiều hơn vào quá trình
tăng trưởng của đất nước.
Bên cạnh đó, với chuyên mục Gương sáng Hội viên đã giới thiệu được
những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội,
chính trị: “Nữ triệu phú và nghề thợ mộc” (số 71, ra ngày 13/6/2007) kể về chị
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
21
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Nguyễn Thị Tiến (Bến Tre) là một tấm gương điển hình trong phong trào xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn; “Tấm gương sáng” (số 112, ra ngày 17/9/2007),
“Tâm tình cán bộ Hội” (số 117, ra ngày 28/9/2007), “Lính cụ Hồ mặt trận nào
cũng giỏi” (số 122, ra ngày 10/10/2007)… Đây đều là những chân dung người
thật, việc thật của Hội Phụ nữ Việt Nam các cấp, thể hiện được phẩm chất, đạo
đức, trình độ và năng lực của bản thân vượt qua những thử thách thoát nghèo,
thoát những cạm bẫy của xã hội và trở thành những gương mặt điển hình trong
các phong trào Hội để những hội viên khác noi theo. Ngoài ra, báo Phụ nữ Việt
Nam có thêm chuyên mục “Nữ Thanh niên”, giới thiệu những gương nữ mặt điển
hình đại diện cho một thế hệ mới với những thành tích trong học tập, trong lao
động sản xuất và trong hoạt động chính trị - xã hội. Họ đều là những người có
trình độ học vấn cao, có năng lực và tích cực tham gia hoạt động xã hội. Với
những đóng góp đó đã chứng minh vai trò của nữ giới trong xã hội ngày càng
được đề cao, họ tham gia hoạt động vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
được đóng góp vào thành quả chung trong quá trình phát triển đất nước. Với mô
hình truyền thông này, báo Phụ nữ Việt Nam đã ngày càng phát hiện ra nhiều nữ
nhân tài với những đóng góp to lớn mà không chỉ riêng đàn ông mới làm được.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
22
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng

Báo Phụ nữ Việt Nam, số số 112, ra ngày 17/9/2007 giới thiệu về cô gái
Nguyễn Thị Bình, một nữ thanh niên thành đạt trong một nghề khá mới ở
Việt Nam – nghề Marketing.
Sang đến năm 2010, khi Luật Bình đẳng giới đã đi vào cuộc sống được
gần 3 năm, trang tin, bài phản ánh hoạt động và biểu dương những tấm gương
phụ nữ điển hình vẫn tiếp tục được đăng tải và chiếm vị trí quan trọng trong tờ
báo. Bên cạnh đó, nội dung của Luật bình đẳng giới và những chính sách của
Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới cũng đã được phân tích, nhận định trong
các bài phản ánh. Qua đó nội dung bình đẳng giới được gắn vào hoạt động của
Hội Phụ nữ, tuyên truyền sâu rộng nội dung, chính sách, chủ trương của Đảng,
Nhà nước trong công cuộc phát huy vai trò xã hội của người phụ nữ hiện đại. Số
báo ra ngày 3/2/2010, trong lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam, Ban chấp hành TW Đảng cũng đã khẳng định: “Đảng và Nhà nước hết sức
chú trọng nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ”;
“Cổ vũ, khuyến khích và tạo điều kiện để từng cán bộ nữ phát huy năng lực”…
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
23
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Báo Phụ nữ Việt Nam, số 15 ra ngày 3/2/2010.
Ngoài ra trên các số báo còn có đăng tải các bài viết mang tính phân tích,
đánh giá về Luật Bình đẳng giới cùng với những hạn chế và hướng hành động
chung của xã hội vì mục tiêu bình đẳng giới trong thời gian tới.
Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
24
Niªn luËn tèt nghiÖp - Khoa B¸o chÝ vµ TruyÒn th«ng
Báo Phụ nữ Việt Nam, số 13 ra ngày 29/1/2010.
Báo Phụ nữ Việt Nam số 30 ra ngày 10/3/2010.
Thông qua báo chí, Hội cũng đã đưa ra các ý kiến, các vấn đề thảo luận,
đóng góp vào chương trình thực thi một cách có hiệu quả Luật bình đẳng giới
trong cả nước. Bài viết “Thực hiện Luật Bình đẳng giới và Nghị quyết 11 của

Vò Minh NguyÖt Líp: BCK50HN
25

×