Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tín ngưỡng và lễ hội của người m’nông tỉnh đăk nông (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.27 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đăk Nông là địa bàn cư trú chính, tập trung đông nhất của người M’nông ở Tây
Nguyên Việt Nam. Người M’nông ở Đăk Nông còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa
truyền thống hình thành trên nền tảng kinh tế nương rẫy tự cung tự cấp, trong đó có
tín ngưỡng. Tín ngưỡng M’nông là thành tố quan trọng trong nghi lễ, lễ hội của người
dân nơi đây. Nghiên cứu văn hóa M’nông, nhất là văn hóa tinh thần thực sự cần thiết
giúp nhận diện, lý giải những giá trị văn hóa trong đời sống tộc người. Đây là lý do
đầu tiên thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài làm vấn đề nghiên cứu.
Hiện nay, số lượng những công trình chuyên sâu tìm hiểu về tín ngưỡng, lễ hội của
người M’nông còn khá hạn chế. Điều đó kéo theo những hiểu biết chưa thật sự sâu
sắc, đầy đủ về thành tố quan trọng này trong đời sống văn hóa tinh thần cư dân
M’nông. Việc nghiên cứu một cách hệ thống từ góc nhìn văn hóa học về tín ngưỡng,
lễ hội của người M’nông sẽ đem lại ý nghĩa nhất định về mặt khoa học.
Ngoài ra, theo thời gian, kinh tế - xã hội của Tây Nguyên có nhiều đổi thay. Người
M’nông vì thế cũng đứng trước những thách thức đối với sự phát triển cộng đồng. Rõ
nét nhất là sự biến đổi văn hóa truyền thống, trong đó có tín ngưỡng, sâu xa hơn là hệ
thống lễ hội bởi mối quan hệ mật thiết giữa tín ngưỡng và lễ hội. Trước thực tế đang
diễn ra, việc nghiên cứu tín ngưỡng, lễ hội của người M’nông nhằm bảo tồn và phát
huy trong đời sống hiện nay là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn.
Là người làm công tác giảng dạy văn hóa và sinh sống trên vùng đất Tây Nguyên,
cũng là người gắn bó với Đăk Nông, chúng tôi rất trăn trở trước những vấn đề trên.
Thực hiện luận án là cơ hội giúp bản thân có thêm kiến thức và kỹ năng nghiên cứu
khoa học về vùng đất, con người nhằm phục vụ có hiệu quả cho công việc lâu dài gắn
bó với Tây Nguyên. Đó cũng là lý do thôi thúc chúng tôi lựa chọn Tín ngưỡng và lễ hội
của người M’nông tỉnh Đăk Nônglàm đề tài cho luận án của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước năm 1954, các công trình liên quan đến người M’nông chủ yếu là của một
số học giả người Pháp như H.Bernard, H. Maitre, A. Maurice … Điểm chung nhất là


các công trình nghiên cứu chỉ phác họa khái quát về người M’nông trong bức tranh về
các dân tộc thiểu số cao nguyên miền Trung Việt Nam.
Sau năm 1954, có một số công trình đáng chú ý như Minority groups in the
Republic of Vietnam(Shrock J.L and others) hay Sons of the mountains: Ethnohistory
of the Vietnamese Central Highlands to 1954và Free in the forest: Ethnohistory of the
Vietnamese Central Highlands 1954 – 1976 của G.C.Hickey… Nous avons mangé la
forêtcủa Georges Condominas.
Ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 cũng có một số công trình có đề cập đến
người M’nông như Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam: nguồn gốc và phong tục
(1970) của Nguyễn Trắc Dĩ; Việt Nam chí lược:Cao nguyên miền thượng (1974) của
Cửu Long Giang - Toan Ánh….và một số bài báo của Nghiêm Thẩm. Tóm lại, trước
năm 1975, văn hóa dân tộc M’nông đã được chú ý nhưng chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu của người Việt Nam.


2
Sau năm 1975, người M’nông nói riêng đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu.
Với những công trình có nội dung liên quan đến luận án, chúng tôi tập trung thành hai
nhóm vấn đề sau:
* Các công trình nghiên cứu chung về văn hóa tinh thần của người M’nông
Trong nhóm này có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Minority groups in
the Republic of Vietnam (Các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa) do Bộ Quân lực Hoa
Kỳ công bố năm 1966; Đại cương về các dân tộc Ê Đê – M’nông ở Đăk Lăk(Bế Viết
Đẳng chủ biên); Những khía cạnh văn hóa dân gian M’nông(Đỗ Hồng Kỳ); Văn hóa
mẫu hệ M’nông (Trương Bi); Phong tục tập quán cổ truyền của một số dân tộc thiểu số
Nam Tây Nguyên (Lê Văn Kỳ, Ngô Đức Thịnh); Văn hóa M’nông và vấn đề bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa của dân tộc M’nông ở tỉnh Đăk Nông (Nguyễn Thế Nghĩa chủ
nhiệm)....; Theo đó, các vấn đề từ phân bố dân cư, thành phần dân tộc, những đặc điểm
nhân chủng đếnđời sống vật chất, đời sống xã hội và văn hóa tinh thần … của người
M’nông đều được giới thiệu cụ thể.

* Các công trình nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng, lễ hội M’nông
Công trình đáng chú ý nhất là Chúng tôi ăn rừng đá - Thần Gôo của G.
Condominasghi chép về người Mnông Gar tại làng Sar Luk, Đăk Lăk thời điểm năm
1949. Tiếp đó là hàng loạt các công trình chuyên sâu như Văn hóa dân gian M’nông
(Ngô Đức Thịnh chủ biên);Nghi lễ cổ truyền của người M’nông (Trương Bi); Nghi lễ
và âm nhạc trong nghi lễ của người M’nông (Bu Nong) (Tô Đông Hải); Nghi lễ và
phong tục các tộc người ở Tây Nguyên (Ngô Đức Thịnh tuyển chọn); Nghi lễ truyền
thống của người Bu Nong (M’nông) (Tô Đông Hải)....Nhìn chung, các công trình
đóng góp đáng kể trong nhận diện, làm rõ các hệ thống nghi lễ lễ hội thuộc vòng đời
người (sinh đẻ, cưới hỏi, tang ma), hệ thống nghi lễ lễ hội liên quan đến vòng sinh
trưởng cây trồng (phát rẫy, canh tác, thu hoạch), những nghi lễ lễ hội liên quan đến
phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng của người M’nông.
Ngoài ra, còn nhiều bài báo in trong các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Dân tộc
học, Khoa học xã hội, Văn hóa dân gian,… cũng cung cấp cái nhìn ở các góc độ khác
nhau đối với đời sống tinh thần từ trước đến nay của người M’nông.
* Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Thông qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi rút ra một số nhận định sau:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu chung về người M’nông đã đem lại cái nhìn
tổng quan từ lịch sử, thành phần dân tộc, địa bàn cư trú đến đời sống kinh tế, sinh hoạt
văn hóa của cư dân M’nông.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng và lễ hội của người
M’nông cung cấp cái nhìn chi tiết, có nhiều công trình liên quan trực tiếp đến đề tài
hơn khi đi sâu vào một số lĩnh vực quan trọng mà đề tài chú trọng như nghi lễ vòng
đời, nghi lễ vòng cây trồng…
Thứ ba, các công trình đã điểm luận nêu trên đều có ý nghĩa tham khảo quan trọng ở
hai khía cạnh lý luận và thực tiễn.
Thứ tư, nhìn tổng quát, dù rất đầu tư nghiên cứu nhưng góc độ tiếp cận và quy mô,
mục đích của các công trình khoa học khác nhau nên còn những “khoảng trống” liên
quan đến tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của cư dân M’nông.



3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đặc điểm tín ngưỡng, lễ hội1 truyền
thống của người M’nông tỉnh Đăk Nông và mối quan hệ, chức năng, giá trị văn hóa
của tín ngưỡng, lễ hội. Thực trạng, xu hướng biến đổi tín ngưỡng, lễ hội hiện nay dưới
tác động của các yếu tố khách quan lẫn chủ quan cũng được làm rõ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian nghiên cứu: Việc nghiên cứu của chúng tôi trải rộng ở các địa bàn
trong tỉnh (7 huyện, 1 thị xã) nhưng tập trung nghiên cứu sâu tại một số xã thuộc
huyện Đăk Song, Krông Nô, Cư Jut, Tuy Đức và thị xã Gia Nghĩa.
Thời gian nghiên cứu: Với tín ngưỡng, lễ hội M’nông trong quá khứ đã xa (trước
1975), công trình của các nhà nghiên cứu đi trước sẽ là nguồn tư liệu quý báu để đối
chiếu, so sánh và đưa ra những nhận định khoa học. Đồng thời, thông tin hồi cố từ
những người cao tuổi là không thể thiếu giúp đem đến một cái nhìn khách quan hơn.
Trong điều kiện hiện tại, người nghiên cứu tập trung tìm hiểu thời gian từ
saunăm1975. Để nghiên cứu biến đổi của tín ngưỡng và lễ hội truyền thống, chúng tôi
chọn thời điểm thành lập tỉnh Đăk Nông năm 2004 đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp tư liệu (data analyzed method): Các công trình về
tín ngưỡng, lễ hội của các nhà nghiên cứuvề các dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung,
dân tộc M’nông nói riêng. Ngoài ralàbáo cáo, số liệu thống kê của Ban Dân tộc; Ban
Tôn giáo; Cục thống kê; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Thông tin Truyền thông
và các cấp chính quyền từ huyện, xã đến thôn bon.
- Phương pháp nghiên cứu định tính (qualitative research method): Là phương
pháp quan trọng nhằm nghiên cứu, tìm hiểu, kiểm tra, thu thập tài liệu. Khi thực hiện,
chúng tôi sử dụng các phương pháp trong nghiên cứu điền dã (fieldwork) như quan sát
– tham dự, phỏng vấn… Một số kỹ thuật như ghi âm, gỡ băng, chụp ảnhcũng được
chú trọng nhằm phục vụ nghiên cứu một cách khách quan nhất.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh (comparative research method):Đề tài tìm hiểu

vấn đề văn hóa trong tiến trình phát triển. Sự kết hợp phương pháp nghiên cứu so
sánhbao gồm so sánh lịch đại và so sánh đồng đại là không thể thiếu nhằm tạo một
tọa độ trong phân tích, tổng hợp, lý giải các dữ kiện văn hóa liên quan. Nhờ đó, nhận
ra cấu trúc chức năng của hiện tượng cũng như dấu hiệu, nguyên nhân biến đổi, sự
vận hành của đối tượng nghiên cứu trong những bối cảnh xã hội khác nhau.
- Phương pháp hệ thống cấu trúc(structural system method):Nghiên cứu, xem xét
tín ngưỡng, lễ hội trong sự toàn vẹn của nó, được hợp thành bởi các yếu tố có mối liên hệ
tương đối bền vững và xác định, tác động lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể luôn vận động,
phát triển. Điều này giúp đem lại cái nhìn bao quát nhằm xác định những giá trị của tín
ngưỡng lễ hội trong đời sống văn hóa của người M’nông ở Đăk Nông.
Ngoài ra, người nghiên cứu cũng sẽ vận dụng thêm phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp nghiên cứu liên ngành (interdisciplinary method)…. Tóm lại, tùy tình
1

Đây là hai đối tượng nghiên cứu có mối quan hệ với nhau nên trong luận án, để tránh trùng lặp và trong một số
vấn đề chúng tôi sẽ sử dụng cách viết tín ngưỡng, lễ hội hoặc lễ hội (nhằm nói đến tín ngưỡng nhưng đã được
phản ánh bằng hình thức lễ hội)


4
hình thực tế mà các phương phápđược vận dụng với mức độ và cách thức khác nhau để
đem lại hiệu quả nghiên cứu.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
- Tín ngưỡng truyền thống của dân tộc M’nông tỉnh Đăk Nông tồn tại dưới hình
thức nào là chủ yếu?Các loại hình tín ngưỡng phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan
của đồng bào gắn với những đặc trưng đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa truyền
thống của người M’nôngnhư thế nào?
-Đặc trưng lễ hội M’nông?Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội? Chức năng, giá
trị văn hóa của tín ngưỡng và lễ hội trong đời sống của cư dân M’nông?
- Thực trạng, xu hướng biến đổi của tín ngưỡng và lễ hội M’nông hiện nay? Cần

có những định hướng, giải pháp gì để bảo tồn cũng như phát huy các giá trị văn hóa
tín ngưỡng và lễ hội của người M’nông?
Từ những câu hỏi nghiên cứuđã nêu, vận dụng các lý thuyết nghiên cứu và dựatrên
cơ sở tài liệu hiện có, chúng tôi đưa ra những giả thuyết nghiên cứu sau:
1. Tín ngưỡng truyền thống của dân tộc M’nông tỉnh Đăk Nông tồn tại ở các hình
thức khác nhau, rõ nét nhất là ba loại hình: Tôtem, hồn linh, đa thần. Các loại hình tín
ngưỡng đều phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào gắn liền những đặc
trưng kinh tế, xã hội và văn hóa truyền thống của người M’nông.
2. Lễ hội truyền thống của người M’nông có thể phân thành ba nhóm chính: Lễ hội
vòng đời, lễ hội nông nghiệp và những lễ hội khác trong đời sống cộng đồng. Thông
qua lễ hội, cư dân M’nông có chỗ dựa vững chắc về tinh thần, duy trì và liên kết các
mối quan hệ xã hội. Ngoài ra, lễ hội cũng là môi trường giáo dục cũng như trao truyền
những giá trị văn hóa tộc người.
3. Tín ngưỡng và lễ hội có mối quan hệ mật thiết. Tín ngưỡng là một trong những
thành tố chính chi phối lễ hội, sinh hoạt lễ hội là nơi phản ánh tín ngưỡng, nhờ đó đem
lại đời sống tinh thần phong phú và tạo nên các giá trị văn hóa đậm bản sắc của cộng
đồng trong suốt tiến trình lịch sử.
4.Tín ngưỡng, lễ hội sẽ biến đổi theo xu thế phát triể xã hội. Các tác nhân tạo nên
sự biến đổi tín ngưỡng, lễ hội truyền thống là chính sách, kinh tế, văn hóa xã hội, khoa
học công nghệ.Sự biến đổi có thể theo xu hướng tích cực lẫn tiêu cực.
5. Để bảo tồn, phát huy văn hóa tín ngưỡng và lễ hội của dân tộc M’nông, cần chú
ý tính hệ thống của các thành tố, tính khả thi của các giải pháp, tính đồng bộ trong
thực hiện theo ba hướng chủ đạo là tuyên truyền, chỉ đạo và thực hiện.
6. Đóng góp của luận án
Về mặt lý luận: Luận án sử dụng ba lý thuyết nghiên cứu là lý thuyết chức năng, lý
thuyết cấu trúc và chủ nghĩa duy vật văn hóa. Việc vận dụng ba lý thuyết trêngiúp
đem lại cái nhìn cụ thể, sâu sắc đối tượng nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa học. Đây là
điểm mớiso với các công trình nghiên cứu về người M’nông trước đó.
Với việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu điền dã, so sánh và hệ thống cấu
trúc, luận án tạo nên một góc nhìn hệ thống về vấn đề tín ngưỡng và lễ hội từ truyền

thống đến hiện đạicủa người M’nông ở Đăk Nông. Những tư liệu nghiên cứu (nhất là
tư liệu thu thập trong điền dã) cũng là một đóng góp của luận án.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu, cơ sở khoa học để các các cấp
thẩm quyền có thể tham khảo đưa ra chủ trương chính sách hợp lý nhằm giải quyết vấn


5
đề bảo tồn, phát triển văn hóa, đặc biệt là văn hóa M’nông và các dân tộc bản địaTây
Nguyên vốn rất nhạy cảm trong bối cảnh hiện nay.Đồng thời, luận án sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích với những nhà nghiên cứu về Tây Nguyên..
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Dẫn luận; Kết luận; Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận án
được chia thành ba chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài và tổng quan về người M’nông ở Đăk Nông.
Chương 2. Đặc điểm tín ngưỡng truyền thống của người M’nông
Chương 3.Đặc điểm lễ hội truyền thống của người M’nông.
Chương 4. Sự biến đổi tín ngưỡng và lễ hội của người M’nông tỉnh Đăk Nông hiện nay.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI M’NÔNG Ở ĐĂK NÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Tín ngưỡng: Hiện chưa có sự thống nhất về thuật ngữ tín ngưỡng. Cách hiểu chung
nhất được thống nhất đó chính là niềm tin vào thế giới siêu nhiên. Theo chúng tôi, tín
ngưỡng nhằm chỉ niềm tin vào cái thiêng liêng và sự thực hành trên cơ sở niềm tin đó,
tín ngưỡngcó thể ra đời sớm hay muộn trong lịch sử nhưng chưa hội đủ yếu tố để cấu
thành tôn giáo.
Nghi lễ: Thực hiện luận án, chúng tôi đồng ý với cách định nghĩa của Victor Turner
“Nghi lễ là hành vi được quy định có tính chất nghi thức dành cho những dịp, không
liên quan đến các công việc có tính chất kỹ thuật hàng ngày, mà có quan hệ với những

niềm tin vào đấng tối cao hay sức mạnh thần bí”.
Lễ hội: Đây cũng là khái niệm chưa thống nhất. Nghiên cứu lễ hội ở Tây Nguyên
lại càng khó hơn khi có nhận định “Ở Tây Nguyên không nhất thiết có nghi lễ là phải
có hội mà nhiều khi chỉ là nghi lễ thuần túy” [Ngô Đức Thịnh]. Trên nền tảng được
tìm hiểu, chúng tôi cho rằng: Lễ hội là một chỉnh thể thường bao hàm cả nghi lễ lẫn
sinh hoạt cộng đồng. Yếu tố trọng tâm thường là lễ. Tùy lễ hội mà yếu tố hội đậm
nhạt khác nhau. Quan điểm này là cơ sở để trong luận án người nghiên cứu thường
xuyên sử dụng thuật ngữ nghi lễ gọi chung lễ hội của cư dân M’nông.
Truyền thống: Chúng tôi chọn cách định nghĩa của Trần Văn Giàu để nghiên cứu
luận án “Truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ,
nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực, cũng có
thể tiêu cực”.
Giá trị:Quan điểm “Giá trị là những quan niệm thầm kín hay bộc lộ về các điều ao
ước riêng của cá nhân hay của nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn các
phương thức, phương tiện và mục tiêu của hành động” [G.Endruweit và
G.Trommsdorff] cơ bản đã chỉ ra được nội hàm của khái niệm này.
Giá trị văn hóa:Chúng tôi chọn định nghĩa “Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn
hóa, nó được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng đến thỏa mãn những


6
nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp, từ đó bồi đắp và nâng cao
bản chất Người” [Ngô Đức Thịnh] làm nền tảng để tiếp cận giá trị văn hóa tín ngưỡng,
lễ hội của người M’nông ở Đăk Nông.
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận vấn đề
- Chức năng luận (functionalism):Theo lý thuyết này, nền văn hóa nào cũng được
nghiên cứu dưới cái nhìn thực hiện các chức năng khác nhau của nó.Chúng tôi vận dụng
cách tiếp cận chức năng tâm lý (B. Malinowski) và chức năng cấu trúc (R. Brown).
B. Malinowski đã cung cấp một khung thiết chế khả dụng trong nghiên cứu văn

hóa. Khung thiết chế của B. Malinowski sẽ giúp tiếp cận những yếu tố cơ bản cấu
thành chỉnh thể lễ hội M’nông. Từ đó, tìm ra chức năng của tín ngưỡng, lễ hội trong
đời sống văn hóa dân tộc M’nông.
Trọng tâm lý thuyết chức năng của R. Brown là mối liên hệ giữa cấu trúc và chức
năng của chủ thể nghiên cứu. Qua đó, tìm kiếm xem nó có đóng góp gì vào việc duy
trì liên kết xã hội.Với lý thuyết này, người nghiên cứu chỉ ra, lý giải đặc trưng các
thành tố, mối quan hệ các thành tố trong chỉnh thể tín ngưỡng, lễ hội. Từ đó, làm rõ
vai trò, chức năng đối tượng nghiên cứu trong đời sống cư dân M’nông.
- Cấu trúc luận (structuralism):Thuyết cấu trúc của L. Strauss tập trung xem xét
vấn đề trên hai mặt đối lập, tương phản để đi tìm ý nghĩa của nó trong bối cảnh văn
hóa cụ thể.Vận dụng lý thuyết cấu trúc của L. Strauss, chúng tôi giải mã các biểu
tượng, tìm hiểu những cấu trúc tinh thần dưới hình thức các cặp đối lập ẩn sau những
hành vi trong nghi lễ, lễ hội để xem mối quan hệ, sự tác động cũng như chi phối của
các cấu trúc này đối với hành động của cư dân M’nông.
- Chủ nghĩa duy vật văn hóa (cultural materialism): Là sự vận dụng quan điểm
duy vật lịch sử để giải thích sự biến đổi văn hóa của nhà khoa học với đại biểu là
Marvin Harris. Nội dung nhấn mạnh các điều kiện vật chất quyết định suy nghĩ và
hành vi của con người. Sử dụng lý thuyết này, đề tài lý giải cho sự mai một, biến mất một
số loại hình tín ngưỡng, lễ hội truyền thống cũng như sự thay đổi văn hóa người M’nông
dưới tác động của các yếu tố như kinh tế, xã hội, tôn giáo.
Bên cạnh ba lý thuyết tiếp cận chính, chúng tôi cũng sẽ vận dụng những hạt nhân
phù hợp của một số lý thuyết nghiên cứu sinh thái học văn hóa (J.Stuard, M.Salins),
lý thuyết biến đổi văn hóa (R.Inglehart, E.Baker, C.Welzel)… để làm rõ hơn các vấn
đề liên quan.
1.2. Tổng quan về người M’nông ở Đăk Nông
1.2.1. Nguồn gốc và lịch sử hình thành tộc người
Hiện tại, Đăk Nông có 7 huyện (Đăk Glong, Cư Jut, Đăk Mil, Krông Nô, Đăk Song,
Đăk Rlấp, Tuy Đức), 1 thị xã (Gia Nghĩa). Người M’nông cư trú hầu khắp các xã trong
8 huyện thị của tỉnh.
Người M’nông thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, dòng Nam Á. Nhiều nhà

nghiên cứu còn gọi dân tộc này với tên gọi khác là người Ba Na nam, được coi là đã
có mặt ở Tây Nguyên cách đây hàng ngàn năm. Đồng thời, có ý kiến khẳng định
người M’nông có nguồn gốc từ Campuchia.
Nhìn chung, vẫn chưa có sự thống nhất về nguồn gốc tộc người M’nông.
1.2.2. Địa bàn phân bố


7
Hiện người M’nôngchiếm trên 9% dân số tỉnh Đăk Nông và chiếm gần 50% số
người M’nông trên cả nước. Đăk Nông có 7 nhóm M’nông đang sinh sống là Preh,
Nong, Nâr, Prâng, Biăt, Gar, Đip cư trú rải rác ở nhiều địa bàn trong tỉnh với quy mô
khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt về phương ngữ, phong tục giữa các nhóm không
rõ rệt, khó có thể nhận ra. Đa phần họ vẫn hiểu tiếng nói của nhau và vẫn thống nhất
trong văn hóa tộc người cũng như có ý thức tộc người khá rõ nét.
1.2.3. Hoạt động kinh tế
Nền kinh tế truyền thống của người M’nông tự cung tự cấp, dựa hoàn toàn vào
thiên nhiên. Họ đốt rừng làm rẫy, làm ruộng khô là chủ yếu với hình thức luân canh
trên một khoảng rừng khá rộng đủ để đất phục hồi.Trước đây, cây trồng chủ yếu của
người M’nông là lúa. Ngoài ra, trên nương rẫy còn trồng nhiều loại cây khác như ngô,
đậu, cà, ớt, …để cải thiện bữa ăn hàng ngày.Bên cạnh đó, người M’nông còn săn bắt,
hái lượm hoa quả, rau rừng phục vụ cho bữa ăn của gia đình.
Nghề thủ công từ trước đến nay vẫn chậm phát triển, gắn chặt với nông nghiệp,
các nghề thủ công chủ yếu là thủ công gia đình như đan lát, dệt thổ cẩm, phục vụ nhu
cầu bản thân do phụ nữ đảm nhiệm.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trong sản xuất người
M’nông đã sử dụng một số máy móc, biết xen canh, gối vụ và phát triển kinh tế hộ gia
đình với việc trồng các loại cây có giá trị cao như hồ tiêu, cà phê,điều…
1.2.4. Tổ chức xã hội
Cơ cấu gia đình M’nông là gia đình mẫu hệ. Đặc trưng tiêu biểu là tính cộng đồng
vừa về kinh tế, vừa về tâm linh, sở hữu. Người M’nông có tên, có họ nhưng thường

trong giấy tờ không thể hiện rõ họ.. Chủ yếu việc xác định dòng họ của người M’nông
thông qua hình thức kể gia phả. Mỗi dòng họ thường cư trú quây quần gần nhau.
Trong một bon thường có vài ba dòng họ.
Bon là đơn vị xã hội cơ bản của người M’nông. Mỗi bon M’nông truyền thống là
một đơn vị tổ chức xã hội hoàn chỉnh độc lập về kinh tế, văn hóa, xã hội và tự quản
theo các nguyên tắc của luật tục.
Trong bon, ngoài dân làng còn một số người khá đặc biệt như: Chủ làng; người xử
kiện; thầy cúng; tôi tớ.Ngày nay trong bon còn có thêm một số cán bộ và tổ chức đoàn
thể, ban ngành khác như: Chi bộ, Đoàn Thanh niên, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội
cựu chiến binh,... có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, vận động nhân dân trong bon thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
1.2.5. Đời sống văn hóa
Văn hóa vật chất: Người M’nông truyền thống ở nhà dài, mỗi ngôi nhà dài thường là
nơi cư trú của vài ba gia đình mẫu hệ, mỗi gia đình nhỏ trong nhà dài có sự độc lập về
bếp, không gian sống, sinh hoạt nhưng vẫn dưới sự quản lý của bà chủ gia đình. Nhà ở
có hai loại là nhà sàn và nhà trệt nhưng đại bộ phận làm nhà trệt.
Về trang phục, cơ bản trang phục của nam nữ M’nông giống các dân tộc Tây
Nguyên, điểm khác biệt thường ở hoa văn, màu sắc trên thân khố và váy áo. Cả nam
và nữ đều mặc áo chui đầu. Người M’nông trước đây có tục cà răng, căng tai.
Bữa ăn phụ thuộc vào thiên nhiên, ngày thường ăn cơm gạo tẻ nấu trong nồi đất, ăn
với các loại rau rừng, cá suối hoặc thịt thú săn bắt được. Gia súc gia cầm nhà nào cũng
nuôi nhưng chủ yếu để phục vụ cho nghi lễ cúng thần hoặc đãi khách.


8
Văn hóa tinh thần: Người M’nông có niềm tin vào thế giới siêu nhiên, vào mối
liên hệ giữa con người với nhiều thế lực vô hình và cách ứng xử của con người với thế
giới xung quanh cũng xuất phát từ cách họ nhìn nhận, lý giải cuộc sống. Trong thế
giới tinh thần của người M’nông, còn có những sự vật, con người có những khả năng
đặc biệt chi phối đời sống thực tiễn cũng như tinh thần của cả cộng đồng như ma lai,

bùa ngải, phù thủy...
Người M’nông cóphong tục tập quán và hệ thống lễ hội phong phú, giàu bản
sắc.Văn hóa nghệ thuật khá đa dạng với nhiều thể loại như thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ, sử thi, lời nói vần, dân ca, v.v... Ngoài ra, người M’nông có nhiều loại nhạc
cụ khác nhaulàm bằng đá, bằng tre, nứa, sừng trâu. Nghệ thuật điêu khắc, tạo hìnhkhá
đa dạng.
Nhìn chung, sự tồn tại và phát triển của cư dân M’nông thể hiện rõ sự thích nghi của
con người với môi trường tự nhiên, thể hiện quá trình vận động trong chính cộng đồng
để đảm bảo nhu cầu vật chất lẫn tinh thần một cách đa dạng.
1.3. Khái quát một số địa bàn điền dã tiêu biểu
1.3.1. Huyện Krông Nô
Là huyện vùng cao của tỉnh có 11 xã, 01 thị trấn huyện lị với 70.003 người cư trú
trong 95 thôn bon, buôn, tổ dân phố.Việc nghiên cứu tập trung ở xã Nâm Nung, ở 3
bon chínhlà Yok Ju, Rcập, Ja Răh với nhóm cư dân M’nông Preh.
1.3.2. Huyện Đăk Song
HuyệnĐăk Song có biên giới tiếp giáp Campuchia bao gồm 09 đơn vị hành chính,
dân số 66.718 người với 102 thôn, bon, bản, tổ dân phố.Trong quá trình điền dã,
chúng tôi chọn nghiên cứu ở hai xã Trường Xuân và Đăk N’drung với cư dân M’nông
chủ yếu thuộc nhóm Nâr, Nong.
1.3.3. Huyện Cư Jut
Nằm vị trí “cửa ngõ” tỉnh Đăk Nông ở phía bắc và tiếp giáp thành phố Buôn Mê Thuột
(Đăk Lăk) với07 xã và 01 thị trấn, dân số 97.765 người gồm 19 dân tộc chung sống
trong 123 thôn, buôn, bon, tổ dân phố.Lựa chọn của chúng tôi là thị trấn Ea T’ling vùng đất giao thoa mạnh giữa các dân tộc thiểu số cùng người Kinh và có kinh tế phát
triển. Chúng tôi khảo sát hai bon U1 và U2 với cư dân M’nông thuộc nhóm Preh.
1.3.4. Huyện Tuy Đức
Tuy Đức là huyện biên giới nằm ở Tây Nam tỉnh Đăk Nông có đường biên giới
giáp Campuchia với 06 đơn vị hành chính gồm 25 bon và 23 thôn, dân số 45.725
người. Địa bàn chúng tôi tập trung nghiên cứu là xã Quảng Trực với 07 bon: Bu Prăng
1, Bu Prăng 2, Bu Lum, Bu Sop, Bu Nung, Bu Krăk, Bu Gia với khá nhiều người
M’nông thuộc nhóm Biăt.

Tiểu kết chương 1
Chương 1 đi sâu làm rõ những vấn đề có tính chất nền tảng giúp người nghiên cứu
tiếp cận và giải quyết các vấn đề liên quan đến luận án. Trước hết là những khái niệm
cơ bản như tín ngưỡng, nghi lễ, lễ hội, giá trị văn hóa…
Để tiếp cận vấn đề, ba lý thuyết nghiên cứu được sử dụng là lý thuyết chức năng, cấu
trúc và chủ nghĩa duy vật văn hóa. Mục đích nhằmlý giải đặc trưng các thành tố, mối
quan hệ các thành tố trong chỉnh thể tín ngưỡng, lễ hội. Từ đó làm rõ vai trò, chức năng,
giá trị của đối tượng nghiên cứu trong đời sốngcư dân M’nông. Đồng thời, lý giải


9
nguyên nhân mai một, thay đổi một số loại hình tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của
người M’nông dưới tác động của các yếu tố như kinh tế, xã hội, tôn giáo….Chương 1
cũng khái quát nguồn gốc, lịch sử hình thành, địa bàn phân bố, tổ chức xã hội, đời sống
văn hóa của người M’nông. Những đặc trưng dân cư, văn hóa, … ở một số địa bàn tiêu
biểu như huyện Krông Nô, Đăk Song, Cư Jut, Tuy Đức cũng được giới thiệu.

CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦANGƯỜI M’NÔNG
Các loại hình tín ngưỡng hiện còn dấu ấn và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cư
dân M’nông không nhiều. Do đó, trọng tâm chương nghiên cứuba loại hình tín
ngưỡng truyền thống là tô tem, hồn linh, đa thần với những quan niệm và biểu hiện rất
đặc trưng.
2.1.Tín ngưỡng tô tem
2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng tô tem
Tôtem(totemism) hay còn gọi là thuyết vật tổ là hình thức tín ngưỡng ra đời rất
sớm trong xã hội loài người. Theo nghĩa đen,tô tem có nghĩa họ hàng hay có họ hàng.
Bản chấttô tem là niềm tin về mối liên hệ siêu nhiên của con người với động/thực vật
hoặc một đối tượng nhất định. Trong tô tem giáo, cách thể hiện thường là cấm kỵ. Có
thể lấy quan điểm của S. Reinach (1910) - người đã công thức hóa tô tem giáo thành

12 điều - để khẳng định những đặc trưng cho loại hình tín ngưỡng này, dù biểu hiện
của nó có thể không đầy đủ hoặc khác biệt nhất định ở các nền văn hóa khác nhau
như: Không được ăn, giết một số thú vật; con người nuôi một số cá thể thú vật ấy và
chăm nom chúng cẩn thận; sự cấm chỉ ăn uống đôi khi chỉ vào một bộ phận nào đấy
trong thân thể con vật; người ta khi ở trong tình thế cần thiết giết một con vật thường
xin lỗi nó và tìm mọi cách làm giảm thiểu sự vi phạm tabu, tức là sự giết chóc;khi con
vật bị hiến tế, nó được khóc thương một cách long trọng; các bộ lạc, các cá nhân lấy
tên mình là tên của con vật tô tem…
2.1.2. Tín ngưỡng tô tem ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Minh đã chứng minh người Ve tồn tại tín ngưỡngtô
tem.Vương Hoàng Trùkhẳng định tô tem của người Chăm là Cau và Dừa.Đặng
Nghiêm Vạn nghiên cứu và chỉ ra những biểu hiệntô tem ở người Khơ Mú như tên
dòng họ mang tên chim, thú, cây, đồ vật…cùng những huyền thoại, kiêng kị, nghi lễ
liên quan đến tô tem.Ngoài ra, còn nhiều tộc người cũng có những bằng chứng cho sự
tồn tại tín ngưỡng tô tem như người Thái, Mường, Hrê, Dao...
Ở Tây Nguyên, tín ngưỡng tô tem cũng được nhận diện ở một số dân tộc như Ba
Na, Gia Rai, Ê Đê… và nhận định “Một vài tộc người ở Tây Nguyên vốn có tục “cà
răng” như dấu ấn về sự mong muốn có hình dáng gần gũi với đặc trưng của tổ tiên
(loài vật nhai lại)”được xem như một trong những dấu hiệu cụ thể chỉ ra mối liên hệ tô
tem với con trâu của một số tộc người trên vùng đất này.
2.1.3. Tín ngưỡng tô tem của người M’nông
Tín ngưỡng tô tem ở người M’nôngcó hai biểu hiện cơ bản. Trước hết là qua cách
đặt tên dòng họ.Hiện người M’nông có trên hai trăm dòng họ, trong đó có khá nhiều
dòng họ đặt tên theo động vật, thực vật, sự vật như Kpơr (lá cây); Ya (con cá sấu);


10
Dâng Ja Reh (bãi cỏ tranh); R’pu (con trâu);…Biểu hiện thứ hai trong tín ngưỡng tô
tem của người M’nông làkiêng kị giết, ăn một số loài động thực vật.
Hiện nay, việc cấm giết/hái, ăn một số loài động thực vật nào đó ở người M’nông

còn khá nhiều dấu ấn. Gần như tất cả những người được phỏng vấnđều khẳng định có
biết những kiêng kị cấm giết, ăn thịt/hái một số loài động vật/thực vật. Dấu ấn tín
ngưỡng tô tem còn thể hiện trong di sản văn hóa tinh thần của cư dân M’nông như các
truyền thuyết, huyền thoại.
Nghiên cứu về con trâu trong văn hóa M’nông, đã có khẳng định trâu chính là “vật
tổ” xa xưa và “hồn trâu” giúp con người gần gũi với thần linh hơn “các hồn” khác.
Xét trên thực tế và dựa trên quan điểm của Reinach đã trình bày ở trên, chúng tôi cho
rằng trâu là con vật tô tem của người M’nông bởi một số lý do nhưngười M’nông nuôi
trâu với một sự yêu quý đặc biệt và chăm sóc rất cẩn thận; có những dòng họ kiêng ăn
thịt trâu; không tự tiện giết trâu nếu không có lý do liên quan đến tâm linh; những dịp
lễ lớn mới làm thịt trâu nhưng phải qua rất nhiều nghi lễ. Trâu được chăm sóc, “làm
đẹp”, được khóc thương trước khi tiến hành nghi lễ…
Nhìn chung, tư liệu còn lại không nhiều nhưng cũng giúp đưa ra ý tưởng vềsự tồn tại
tín ngưỡng tô tem trong đời sống cư dân M’nông. Với con trâu, tuy không kiêng kị theo
kiểu cấm ăn thịt nhưng qua phân tích ở trên và theo các biểu hiệntrong công thức tô tem
của S.Reinach, chúng tôi cho rằng trâu có thể là tô tem của người M’nôngvà một số dân
tộc Tây Nguyên trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
2.2. Tín ngưỡng đa thần
2.2.1. Về quan niệm
Tín ngưỡng đa thầnlà hình thức phổ biến không chỉ ở riêng dân tộc M’nông mà ở
nhiều dân tộc trên thế giới. Một trong những cơ sở giúp hình thành tín ngưỡng này là
nhận thức hạn chế của con người khi đối diện với tự nhiên. Vì thế, nảy sinh niềm tin
vào sự chi phối của thế lực thần thánh có sức mạnh và khả năng tác động đến con
người. Tín ngưỡng đa thần quan niệm thế giới được tạo thành bởi hai phần là hữu hình
và vô hình.
Ở Tây Nguyên, tín ngưỡng này có mặt trong đời sống văn hóa tất cả các tộc người.
Với người M’nông, niềm tin vào thần linh thể hiện khá rõ nét. Đó là thế giới gồm ba
tầng: Tầng trời, tầng trên mặt đất và tầng dưới mặt đất. Mỗi tầng có nhiều bon, tầng
nào cũng có thần (Brah) cư ngụ và cai quản. Các thần có vai trò, chức năng riêng, bên
cạnh thần lành giúp đỡ con người còn có thần dữ chuyên trừng phạt, làm hại con

người. Các thần đều có gia đình, cũng biết yêu thương, giận hờn và cũng sinh hoạt,
lao độngnhư con người. Thông qua quan niệm về thế giới thần linh của dân tộc
M’nông, dễ dàng nhận ra đó làánh xạ thế giới con người, con người đã lấy thực tiễn
cuộc sống của mình để xây dựng hình ảnh thế giới thần linh.
Cơ sở hình thành tín ngưỡng này của người M’nông chính là môi trường tự nhiên,
điều kiện sống và nhận thức hạn chế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
2.2.2. Về biểu hiện
Hệ thống nghi lễ được tổ chức thường xuyên trong đời sống dân tộc M’nông là dấu
hiệu rõ nét của tín ngưỡng đa thần.
Đối với cá nhân, nghi lễ trải dài theo suốt đường đời.Mỗi bước ngoặt trong đời
người đều có nghi lễ cầu cúng thần. Khi một sinh linh được hình thành trong bụng mẹ,


11
người ta đã tổ chức lễ cúng cầu xin sự chở che. Những năm tháng từ 1 tuổi, 2 tuổi đến
trưởng thành, lập gia đình cũng như khi về già, qua đời, các nghi lễ cầu cúng với ước
mong sức khỏe, bình an được tổ chức thường xuyên.Với sinh hoạt cộng đồng, nghi lễ
cúng thần là một phần không thể thiếu. Những vấn đề liên quan đến bon làng từ chọn đất
làng, làm nhà cộng đồng đến xử phạt, chiến tranh…đều phải cúng tế cầu xin sự ưng thuận
của các thần. Tronghoạt động kinh tế nông nghiệp nương rẫy, các công đoạn chọn đất,
đốt rẫy, gieo hạt, thu hoạchđều tổ chức lễ cúng thần Đất, thần Lúa….Kèm theo đó là
những kiêng cữ được thực hiện nghiêm túc tránh làm các thần bực mình, nổi giận gây
nên tai họa như sâu bệnh, hạn hán, mất mùa.
Theo cư dân M’nông, thần linh có thể gửi “thông điệp” hoặc bộc lộ “quan điểm” qua
hệ thống các “tín hiệu” nhận biết. Đó là giấc mơ, điềm báo, phép thử, bói điềm. Nếu
giấc mơ, điềm báo thể hiện điều xấu, sự không hài lòng của các thần, mọi việc phải dời
lại, không ai dám coi thường. Điểm đặc biệt trong tư duy ngườiM’nông là dù thế giới
thần linhđa dạng, phong phú nhưng không tuyệt đối tôn thờ một vị thần nào và cũng
không xem vị thần nào có vai trò cai quản muôn loài.
Tóm lại, mọi việc trong đời sống người M’nông đều có bóng dáng thần linh, mối

quan hệ với thần linh là sợi dây thiêng liêng gắn kết các cá nhân trong cộng đồng lại
với nhau trong số mệnh chung.
2.3. Tín ngưỡng hồn linh
2.3.1. Đặc điểm của tín ngưỡng hồn linh
Hồn linh giáo (animism) là hình thức tín ngưỡng dựa trên niềm tin vào sự tồn tại
của linh hồn, thế giới linh hồn. Linh hồn có vaitrò quan trọng hơn thể xác và có khả
năng chi phối thể xác. Mọi vật trong thế giới đều tồn tại linh hồn.
Theo S. Freud, giấc mơ là cơ sở của tín ngưỡng hồn linh và cũng là cơ sở để khẳng
định sự bất tử của linh hồn kể cả khi thể xác đã tiêu tan. Linh hồn vẫn tiếp tục đời
sống của nó sau khi rời bỏ thể xác, vẫn có khả năng tác động đến những người xung
quanh và trở thành nỗi sợ hãi với người còn sống.
Qua xem xét cách “ứng xử” với linh hồn, chúng ta sẽ nhận ra niềm tin về linh hồn.
Dấu hiệu rõ nét nhất là thờ cúng linh hồn. Ngoài ra, việc tiến hành tang lễ cho người
chết và những nghi thứctrong tang lễ cũng xuất phát từ niềm tin vào linh hồn và sự
tiếp tục “sống” của con người sau khi chết. Liên quan đến niềm tin về linh hồn còn có
những biểu hiện kiêng kịnhư không được vẽ lên mặt người đang ngủ hay kiêng đánh
thức người đang ngủ một cách đột ngột….
2.3.2. Tín ngưỡng hồn linh ở Việt Nam
Người Chăm quan niệm con người có hồn và xác. Khi chết nếu hồn không được
trở về với tổ tiên thì trở thành vong hồn.Người Dao khẳng định con người có 12 hồn
cư trú ở những bộ phận khác nhau của cơ thể người như đầu, mắt, mũi, ngực,
bụng….trong khi người Tà Mun cho rằng mỗi người chỉ cómột hồn chính và một hồn
phụ. Hồn cũng có sự phân loại rõ ràng, có hồn của người sống, hồn người chết, hồn
ác, hồn thiện.
Đối với các dân tộc Tây Nguyên, niềm tin vào linh hồn càng thể hiện đậm nét.
Người Xơ Đăng cho rằng mỗi người có rất nhiều linh hồn. Linh hồn đi lạc thì chủ linh
hồn sẽ bệnh.Theo người Gia Rai, con người có hai phần là pô (thể xác) và bongat
(linh hồn), bongat thường chui ra khỏi nách, lỗ tai của người để đi với hình dạng con



12
nhện hoặc con gián. Nhiều tộc người ở Tây Nguyên quan niệm khi chết hồn thoát khỏi
xác, biến thành ma đi lang thang rồi đầu thai vào người phụ nữ nào đó. Ngoài ra, đồng
bào còn cho rằng con người đau ốm do linh hồn rời bỏ tạm thời vì đi lạc, bị bắt... Khi
đau ốm, họ thường mời thầy cúng về cúng cho hồn là vì thế.
Chính vì quan niệm chết chỉ là sự chấm dứt tạm thời một giai đoạn nên các dân tộc
Tây Nguyên hình thành những nghi thức tang lễ và ứng xử với người chết mang đậm
tinh thần bình đẳng như chia của cho người chết, nuôi mả sau khi chôn.
2.3.3. Tín ngưỡng hồn linh ở người M’nông
Người M’nông quan niệm con người cũng có hai phần là linh hồn và thể xác. Hồn
có ba loại gồm hồn trâu, hồn nai và hồn dế, cào cào. Trong đó, hồn trâu là hồn chính,
nếu hồn trâu chết con người sẽ chết. Hồn nai, dế, cào cào là hồn phụ, nếu các hồn này
đi ra ngoài cơ thể, bị lạc lối hoặc bị ma lai bắt ăn thịt, con người sẽ bị ốm.
Hồn vẫn thường ra khỏi con người trong lúc ngủ để “dạo chơi”, khi đó con người sẽ
có giấc mơ là những gì hồn trải qua. Khi con người chết, linh hồn rời bỏ thể xác để đến
xứ phan do hai thần Dê, Dơm cai quản. Nếu là người tốt sẽ được đầu thai lại làm người,
nếu xấu không được đầu thai mà sẽ biến thành malang thang.
Điều khác biệt trong niềm tin linh hồn của người M’nôngso với một số dân tộc
khác là linh hồn không bất tử dù có tái sinh, đầu thai. Niềm tin đó tạo nên một hệ
thống cách ứng xử với linh hồn và những thứ người ta tincó liên quan đến linh hồn.
Cụ thể các nghi lễ:Lễ đặt tên và Cúng hồn cho đứa trẻ mới sinh nhằm tìm và tiếp nhận
linh hồn tổ tiên trở về nhập vào đứa trẻ.Lễ xỏ tai là nghi lễ phản ánh niềm tin vào linh
hồn vì nếu không làm lễ này hồn đứa trẻ sẽ buồn bỏ về làng ma và đứa trẻ sẽ chết.
Những khi có người ốm, niềm tin hồn phụ đi lạc làm ảnh hưởng đến sức khỏe con
người dẫn đến nhiều lễ cúng. Sau khi qua đời, tùy trường hợp chết mà người M’nông
tiến hành các nghi thức tang lễ phù hợp.Nhìn chung, tang lễ thể hiện rõ nét niềm tin
vào linh hồn và thế giới linh hồn, việc ứng xử cũng nhằm hướng đến cuộc sống tốt
đẹp của hồn ở thế giới bên kia và việc quay về đầu thaithuận lợi.
Dấu ấn về tín ngưỡng hồn linh của người M’nông ngoài tư liệu còn có thể thấy rõ
trong truyện cổ, nhất là sử thi M’nông.

2.4. Nền tảng hình thành đặc trưng văn hóa tín ngưỡng dân tộc M’nông
2.4.1. Môi trường tự nhiên
Người M’nông ở Đăk Nông cư trú nơi thung lũng có nhiều sông suối,xung quanh
được bao bọc bởi rừng núi để tiện sản xuất, khai thác nguồn lợi từ rừng.Vì thế, từ nhận
thức đến ứng xử của con người đều chịu tác động và có bóng dáng thần linh để cầu
mong mùa màng tốt tươi. Ước mong mùa màng bội thu có thể bắt gặp trong tín ngưỡng
liên quan đến canh tác nương rẫy với hệ thống lễ nghi phong phú và khá đặc trưng.
Ngoài ra, nếp sống nương rẫy tạo sự gắn bó mật thiết giữa con người với môi
trường. Rừng bên cạnh là không gian sinh tồn còn là không gian thiêng, nơi cư ngụ
của thần linh và các thế lực siêu nhiên khác. Đó là một trong những nguyên nhân khởi
phát đời sống tín ngưỡng đa dạng, phong phú của cả cộng đồng. Tín ngưỡng tô tem
kiêng hái, giết ăn một số loại động thực vật có mối liên hệ nhất định với đời sống gắn
bó với rừng của cư dân M’nông.


13
2.4.2. Môi trường xã hội
Bon là tổ chức xã hội hoàn chỉnh nhất của người M’nông. Mỗi bonđều độc lập có
khu đất ở, đất canh tác, rừng để khai thác với ranh giới tự nhiên rõ rệt và bộ máy tự
quản riêng. Mỗi bon cũng là một cộng đồng về tín ngưỡng, tâm linh. Đặc tính cộng
đồng chi phối và để lại dấu ấn khá rõ trong tín ngưỡng người M’nông.
Hợp thành bon là các gia đình mẫu hệ. Ở phạm vi gia đình, dòng họ thì tính cộng
đồng là nền tảngchi phối nhiều đặc trưng trong tín ngưỡng cư dân M’nông. Với tín
ngưỡng hồn linh, các nghi thức diễn ra theo vòng đời người từ khi sinh ra đến lúc chết
luôn có sự góp mặt các thành viên gia đình và dòng họ. Ngoài ra, dấu ấn cộng đồng
thể hiện trong việc kiêng không “động chạm” đến tô tem dòng họ mình qua những câu
chuyện được truyền lại từ tổ tiên, ông bà về mối liên hệ giữa con người với các tô tem
dòng họ.
2.4.3. Giao lưu văn hóa
Đăk Nông có hơn40 dân tộc cư trú. Nhìn chung, một số đặc trưng tín ngưỡng

người M’nông được hình thành bởi sự giao lưu, ảnh hưởng, tiếp biến ba “nguồn”
chính: cộng cư với các cư dân bản địa cùng sinh sống từ lâu đời như người Ê Đê, Mạ,
…; giao lưu với các dân tộc nơi khác di cư đến như Việt, Dao, Tày, Nùng…; sự tiếp
xúc với văn hóa phương Đông, phương Tây. Sự giao lưunày phần nào tạo những nhân
tố mới trong tín ngưỡng truyền thống của người M’nông.
Tóm lại, sự giao lưu nội văn hóa cũng như ngoại văn hóa của người M’nông cũng
góp phần hình thành những đặc trưng văn hóa tín ngưỡng nhất định.
Tiểu kết chương 2
Qua tìm hiểu, có thểthấy người M’nông hiện còn ba loại hình tín ngưỡng chính là
tô tem, đa thần và hồn linh. Dấu ấn các loại hình tín ngưỡng này không giống nhau.
Rõ nét hơn cả là tín ngưỡng hồn linh và đa thần. Tín ngưỡng tô tem chỉ còn dưới dạng
tàn dư và khá mờ nhạt.
Với tín ngưỡng tô tem, sự tồn tại tín ngưỡng này thể hiện qua một sốđặc điểm như
không giết/hái một số động/thực vật, đặt tên dòng họ theo tên động/thực vật... Cùng
với đó là nhiều câu chuyện lý giải về cấm kỵ do người dân cung cấp hay các tài liệu
ghi lại.
Tín ngưỡng đa thần thể hiện rõ qua quan niệm và cách thể hiện. Về quan niệm,
người M’nông tin vào thế giới thần linh ngự trị ở ba tầng trời, đất và dưới mặt đất.
Các thần có cuộc sống và tình cảm như con người, chỉ khác con người ở quyền năng.
Có thần tốt, thần xấu, con người muốn bình yên cần phải tôn thờ các vị thần.Niềm tin
đó là nền tảng chi phối cách ứng xử của người M’nông trong mọi mặt đời sống. Cụ
thể nhất là việc thực hiện các nghi lễ cầu cúng trong suốt đời người, trong canh tác
nương rẫy, trong sinh hoạt cộng đồng nhằm cầu mong sự bình yên, no đủ.
Dấu ấn tín ngưỡng hồn linh trong đời sống cư dân M’nông thể hiện qua
nhữngniềm tin vào sự tồn tại linh hồn,nghi lễ cúng linh hồn trong vòng đời người từ
khi mang thai đến khi qua đời, rõ nét nhất là qua các nghi lễ tang ma.
Phân tích, lý giải từ góc độ văn hóa, chúng tôi nhận ra những nét văn hóa đặc trưng
trong tín ngưỡng của người M’nôngcó nền tảng từmôi trường tự nhiên, môi trường xã
hội và sự giao lưu, tiếp biến văn hóa suốt tiến trình phát triển tộc người.



14
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG

3.1. Các lễ hội truyền thống của người M’nông
3.1.1. Lễ hội liên quan đến cuộc đời con người
3.1.1.1. Phân loại
Nghi lễ vòng đời người M’nông gắn với một số giai đoạn, dấu mốcnhất định trong
cuộc đời, từ khi là một bào thai trong bụng mẹ, được sinh ra, lớn lên, trưởng thành, về
già cho đến khi từ giã cuộc đời về thế giới bên kia. Có thể chia nghi lễ vòng đời người
theo các giai đoạn:Nghi lễ liên quan đến sinh đẻ và thời thơ ấu; Nghi lễ liên quan đến
tuổi trưởng thành; Nghi lễ liên quan đến tuổi già và tang ma.
3.1.1.2. Một số nghi lễ vòng đời tiêu biểu của người M’nông
* Nghi lễ liên quan đến sinh đẻ và thời thơ ấu
Lễ cúng khi có thai(bư brahta să năp): Tổ chức khi biết người phụ nữ mang thai.
Mục đích mong muốn mẹ tròn con vuông.
Lễ bảo vệ thai nhi trong bụng mẹ (mprang ndul):Khi người phụ nữ mang thai đến
tháng thứ sáu, lễ này được tổ chức với mong muốn ngăn cản ma quỷ, ngải thần và
thần briăng “ăn” đứa trẻ.
Lễ đặt tên (moh săk) và Lễ cúng hồn cho trẻ mới sinh (mpih kon yôn bê): Tám
ngàysau khi sinh đứa trẻ được đặt tên. Mục đíchtìm xem hồn ai trong số ông bà, tổ
tiên đã chết về đầu thai để đặt tên đứa trẻ theo vần người đó.
Lễ thổi tai (khôm tôr):Lễ này nhằm giúp tai đứa bé thông suốt, lớn lên trở thành
người của cộng đồng. Thực hiện xong lễ, đứa trẻ cần tuân thủ một số kiêng cữ như
không liếm đũa bếp, không ăn bốc cơm đầu nồi…
* Nghi lễ liên quan đến tuổi trưởng thành
Lễ cà răng (ot sôk):Khi đứa trẻ được 15 tuổi, cha mẹ sẽ làm lễ cà răng cho con.
Đây là nghi lễ thừa nhận đứa trẻ là thành viên của cộng đồng.
Lễ trưởng thành (bư brah văt bôk n'hao săk):Lễ này được tổ chức cho con trai khi

bước vào giai đoạn trưởng thành (khoảng 15 đến 20 tuổi).
Lễ cưới (tâm nsông):Lễ cưới bao gồm khá nhiều nghi lễ bắt buộc. Nhìn chung, có
ba lễ chính: lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới.
* Nghi lễ liên quan đến tuổi già và tang ma
Lễ ăn trâu mừng sức khỏe(bư brah n’hai săk bu ranh ăk num): Người M’nông có hệ
thống lễ mừng sức khỏe kéo dài suốt cuộc đời. Lớn nhất là lễ mừng sức khỏe (mừng
thọ) khi được 70 tuổi có tổ chức ăn trâu và chỉ được thực hiện một lần trong đời.
Lễ tang (bư brah phan):Cư dânM’nôngphân ra chết lành(già yếu, bệnh tật) và chết
dữ(tai nạn ngã cây, leo núi,…)đểtổ chức tang lễ khác nhau. Sau khi chôn 7 ngàylàm
Lễ tiễn hồn người chết, 3 năm làm Lễ vĩnh biệt linh hồn người chết. Sau lễ này, gia
đình trở lại sinh hoạt bình thường, không kiêng kị, lễ nghi gì liên quan đến người chết
nữa.
3.1.2. Lễ hội liên quan đến lao động sản xuất
3.1.2.1. Quan niệm
Người M’nông là cư dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp theo loại hình canh tác
nương rẫy trồng lúa khô. Tín ngưỡng hồn lúa là yếu tố cơ bản chi phối, tạo nên hệ


15
thống nghi lễ nông nghiệp. Vì vậy, nghi lễ nông nghiệp của người M’nông gắn liền
với cây lúa rẫy. Đó là các nghi lễ trải dài theo chu kỳ trồng cây lúa rẫy từ lúc chọn đất,
gieo tỉa, chăm sóc, bảo vệ cho đến khi lúa chín, thu hoạch đưa lúa vào kho. Những
nghi lễ được tổ chức thường mang đậm dấu ấn tín ngưỡng đa thần.
Quan niệm khác là quan niệm về hồn Lúa. Cây lúa được coi trọng bởi đó là lương
thực chính giúp duy trì đời sống. Người M’nôngtôn thờ thần Lúa vì họ tin rằng giữ
hồn lúa khỏe mạnh lúa sẽ tốt tươi, hồn lúa ốm yếu hoặc tức giận bỏ đi sẽ mất mùa.
Cần phải trân trọng thần để làm cây lúa sinh sôi và mùa màng thuận lợi.
3.1.2.2. Biểu hiện
Lễ hội nông nghiệp chịu sự chi phối của chu kỳ sản xuất và phản ánh tâm tư,
nguyện vọng cư dân M’nông trong hoạt động nương rẫy.Đồng thời thể hiện mối quan

hệ, cách ứng xử với môi trường tự nhiên cũng nhưxã hội. Nghi lễ trước, trong mùa
nhằm cầu xin lực lượng siêu nhiên ban mưa thuận gió hòa để mùa màng tươi tốt. Sau
mùa để tạ ơn thần linh và hưởng những thành quả sau thời gian lao động cực nhọc.
Nghi lễ nông nghiệp có thể chia thành ba nhóm:
Nghi lễ liên quan đến việc phát rẫy: Lễ khẩn đất phát rẫy; Lễ phát rẫy cúng cơm;
Lễ cúng tạ ơn rìu rựa; Lễ cúng đốt rẫy; Lễ cúng cấm rẫy.
Nghi lễ liên quan đến canh tác nương rẫy: Lễ cúng khi trỉa lúa; Lễ kết vòng cúng
lúa; Lễ cắm nêu cúng lúa; Lễ cúng lúa mới (Lễ mừng ăn cơm lúa mới).
Nghi lễ liên quan đến thu hoạch: Lễ cúng bắt đầu tuốt lúa; Lễ mừng bảy mươi gùi
lúa; Lễ mừng một trăm gùi lúa; Lễ mừng tuốt lúa xong và lễ nhổ rạ; Lễ cúng lúa trước
khi xuất kho; Lễ cúng tắm lúa.
3.1.3. Những lễ hội khác trong đời sống cộng đồng
Lễ kết bạn (tâm jan jiăng):Lễ kết bạn chỉ dành cho những người ngoài dòng tộc.
Đây là lễ thường gặp trong đời sống người M’nông, ý nghĩa tương tự lễ kết nghĩa của
người Kinh. Theo chúng tôi, lễ này thường được tổ chức do điều kiện đời sống bấp
bênh, thiếu nhân lực trong sản xuất nông nghiệp nên tạo thêm mối liên hệ anh em sẽ
giúp đem lại lợi ích nhất định cho cả hai bên thực hiện nghi lễ kết bạn.
Lễ cúng cổng bon (ver bri):Mục đích kiêng cữ các thần ác ngoài rừng. Lễ được
tiến hành tại cổng vào ra của bon, phạm vi tổ chức cả bon.
Lễ kết nghĩa giữa 2 bon (tăm jun): Đây là lễ lớn quan trọng trong cộng đồng, được
chuẩn bị và tiến hành chu đáo với nhiều nghi thức nhỏ. Lễthường tổ chức hai năm một
lần, quy mô tùy khả năng kinh tế của bon.
Lễ cúng bờ rào bon (rgăp mpêr):Người M’nông tổ chức rào bonkhi có những vấn
đề gây bất an trong cộng đồng. Sau khi rào xong phải làm lễ cúng nhằm cầu xin thần
hàng rào bảo dân làng yên ổn.
Lễ trồng bùa ngải (tăm gun dôih):Khi mới lập bon ở khu vực mới, bon phải tổ
chức trồng ngải gun dôih ở ngoài bon. Mục đích chính là bảo vệ bon làng.
Bên cạnh đó còn rất nhiều nghi lễ khác nhưCúng tạ thần cây đa (tâm ônh klăch
jri); Cúng sau khi giết rùa, rắn, ba ba, kỳ đà (tâm sreh bêh kop or); Cúng mừng đá
thần (mlum mlar)…Ngoài ra, người M’nông còn hệ thống nghi lễ liên quan đến săn

bắt voi nhưLễ cúng săn bắt voi; Lễ cưới voi nhà; Lễ cúng sức khoẻ cho voi; Lễ cắt ngà
voi; Lễ cúng khi bắn chết voi rừng; Lễ cúng khi bán voi; Lễ cúng khi gây thương tích
cho voi; Tang lễ cho voi. Đây là nét đặc biệt trong lễ hội của người M’nông bởi đồng


16
bào có truyền thống săn bắt, thuần dưỡng voi. Vì thế, từ kiêng cữ đến các nghi lễ đều
được coi trọng và mang đậm giá trị nhân văn.
3.2. Các yếu tố cấu thành lễ hội
3.2.1. Các yếu tố cốt lõi
Lễ hội là chỉnh thể được cấu thành bởi nhiều yếu tố có quan hệ hỗ tương với
nhaunhư thời gian, không gian, lời khấn, lễ vật, âm nhạc. Trong đó, thầy cúng, lễ vật,
lời khấn là các yếu tố cốt lõi nhất, được thừa nhận và tuân theo. Vì hệ thống nghi lễ
diễn ra thường xuyên, thầy cúngluôn được trọng vọng với vai trò“cầu nối” truyền đạt
nguyện vọng của cá nhân, cộng đồngvới thần linh. Lễ vậttrong mỗi nghi lễ của đồng
bào M’nông có sự khác biệt nhưng không thể thiếu rượu cần và vật hiến sinh như gà,
vịt, heo, trâu. Lễ vật thường gắn với tính chất lớn hay nhỏ của lễ. Lời khấn trong nghi
lễ rất quan trọng và thường do thầy cúng thực hiệnnhằmtác động tới thần linh. Lời
khấn thường gồm ba nội dung: Mời, cầu mong, hứa hẹn.
Ba yếu tố trên chi phối tạo nên giá trị và ý nghĩa của nghi lễ. Ba yếu tố này liên kết
chặt chẽ không thể tách rời, khó có thể thay đổi nhằm hướng đến đích chung là thể
hiện nguyện vọng cũng như bày tỏ lòng thành với các đấng siêu nhiên.
3.2.2. Các yếu tố bổ trợ
Các yếu tố này không thật sự nghiêm ngặt, có thể thay đổi tùy thực tế nhưng vẫn góp
phần tạo nên những giá trị cốt lõi của nghi lễ.Không gian nghi lễ diễn ta trong không
gian văn hóa cộng đồng như bến nước, đất ở, đất làm rẫy, đất nhà mồ. Thời gian tùy
thuộc phạm vi lễ, lễ lớn từ 3 đến 7 ngày, lễ nhỏ gói gọn trong 1 ngày.Cồng chiêng
không để biểu diễn đơn thuần mà gắn với nghi lễ. Sử dụng chiêng tùy thuộc lễ và cần
tuân theo những nguyên tắc nhất định.Ngoài ra, trong nghi lễ còn sử dụng một số nhạc
cụ như r’let, mbuăt….. Gắn liền nghi lễ có diễn tấu cồng chiêng là các điệu múa.Một số

nghi lễ còn tích hợp các thể loại văn học dân gian nhưsử thi, truyện cổ, dân ca.
Nhìn chung, đa số yếu tố cấu thành nghi lễ trên hiệnvẫn tồn tại dù có sự khác biệt
nhất định giữa các địa phương.
3.3. Chức năng của tín ngưỡng và lễ hội trong đời sống văn hóa M’nông
3.3.1. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội
Xét về cấu trúc, tín ngưỡng là thành tố quan trọng nhất của lễ hội, trong lễ hội
truyền thống không thể không có hạt nhân quan trọng là tín ngưỡng, nếu không nó chỉ
là nghi lễ đời thường trong giao tiếp.Xét về quan hệ, tín ngưỡng tác động và chi phối
nhiều biểu hiện của lễ hội.Từ đó, tạo nên tổng thể giúp thực hiện nhiều chức năng
quan trọng trong đời sống cộng đồng.
3.3.1.1.Tín ngưỡng chi phối lễ hội
Tín ngưỡng là nguồn gốc của lễ hội. Tín ngưỡng là hình thức ra đời trong xã hội
nguyên thủy khi khả năng nhận thức của con người còn hạn chế. Từ tư duy đó, nghi lễ
lễ hội được tổ chức nhằm cầu mong sự bình yên trong đời sống còn nhiều bất trắc.
Nếu không có tín ngưỡng, con người sẽ không tiến hành các nghi thức thờ cúng mà
đối tượng hướng đến là thế giới siêu nhiên, là những gì con người bằng tư duy hữu
hạn của mình không nhận thức được.
Tín ngưỡng chi phối nội dung của lễ hội. Một số nghi lễ vòng đời, đặc biệt nghi lễ
tang ma, có nguồn gốc từ tín ngưỡng hồn linh. Hầu hết nghi lễ trong sản xuất nông
nghiệp và đời sống cộng đồng, tín ngưỡng đa thần là cơ sở tạo nên các nghi thức. Việc


17
kiêng cữ không ăn một số động/thực vật hay cách thể hiện nỗi tiếc thương bằng hành
động, bằng tiếng khóc trâu trong nghi lễ có ăn trâu của cư dân M’nông cũng khởi
nguồn từ niềm tin về quan hệ họ hàng, sự gắn bó của con người với thế giới trong tín
ngưỡng tô tem.
Tín ngưỡng là chuẩn mực tạo nên giá trị của lễ hội. Chuẩn mực là điều luôn được
thực thi trong các lễ hội nhằm đem lại lợi ích thiết thực nào đó. Tại lễ hội, những
chuẩn mực này lại được quy định bởi niềm tin với thế giới siêu nhiên. Kiêng cữ trong

tín ngưỡng đa thần, hồn linh, tô tem chính là ví dụ cụ thể nhất. Nói khác hơn, con
người tư duy, hành động dựa trên quy chuẩn niềm tin mà mình hướng đến.
3.3.1.2. Lễ hội phản ánh tín ngưỡng
Lễ hội là sự cụ thể hóa tín ngưỡng. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội là mối
quan hệ giữa nguyên nhân và hiện tượng. Không có niềm tin tín ngưỡng đơn thuần.
Thông qua nghi lễ, niềm tin tín ngưỡng được cụ thể hóa, nhờ đó giúp nhận diện đối
tượng thiêng mà con người hướng tới.
Lễ hội là hình thức của tín ngưỡng. Với người M’nông, phương thức chuyển tải tín
ngưỡng tô tem, đa thần, hồn linh là những nghi lễ, kiêng kị được đồng bào thực hiện
nghiêm túc. Như vậy, “lõi” của phần lễ là tín ngưỡng, tín ngưỡng là nội dung còn lễ
hội chỉ là hình thức để chuyển tải niềm tin với thế giới siêu nhiên.
Lễ hội chứa đựng thế giới biểu tượng làm nên giá trị của tín ngưỡng . Lễ hội chứa
đựng rất nhiều yếu tố mang tính biểu tượng. Những lời nói, hành động, cử chỉ trong
nghi lễ đều mang tính biểu tượng cao. Nhìn chung, biểu tượng thể hiện trong nghi thức,
lời khấn, lễ vật… của người M’nông khá nhất quán. Vì thế, những biểu tượng trong
nghi lễ đã tạo nên ý nghĩa, giá trị văn hóa nhất định cả về mặt đạo đức lẫn tâm linh.
3.3.2. Chức năng tín ngưỡng và lễ hội của người M’nông
* Chức năng tâm lý
Trong điều kiện môi trường như Tây Nguyên, nghi lễ diễn ra vào những dấu mốc
nhất định trong cuộc đời con người, cuộc sống cộng đồng và trong sản xuất nông nghiệp
phần nào giúp đem lại niềm tin vào sự chở che, hỗ trợ của thần linh với con người. Vì
thế, giải tỏa một phần sức ép tâm lý trong điều kiện đời sống vật chất còn quá bấp bênh
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, may rủi.
* Chức năng xã hội
Nghi lễ của người M’nôngxóa mọi khoảng cách để con người cùng sáng tạo,
hưởng thụ những giá trị văn hóa của mình. Nhờ đó, giúp cân bằng để con người tiếp
tục sống với những liên kết xã hội mới. Mỗi người tham dự nghi lễ có thêm sợi dây vô
hình cố kết với nhau khiến họ thấy mình là thành tố của tổng thể và tìm thấy lợi ích
riêng trong cái chung. Tóm lại, thực hiện các nghi lễ có ý nghĩa xã hội lớn hơn là duy
trì, củng cố các quan hệ cộng đồng nhằm đảm bảo quan hệ với các thiết chế khác

trong quản lý xã hội của tộc người.
* Chức năng giáo dục
Thực hành nghi lễ, thờ cúng các vị thần như thần Rừng, thần Suối… là cách giáo
dục ý thức gắn bó với bon làng, giáo dục cách ứng xử với môi trường tự nhiên để con
người biết trân trọng, gìn giữ mối quan hệ thiết thân với môi trường sống.


18
3.4. Giá trị văn hóa trong tín ngưỡng và lễ hội của người M’nông
3.4.1. Giá trị nhân sinh
Giá trị nhân sinh được bộc lộ rõ qua nghi lễ. Đó là quan niệm, tư duy của người
M’nông với cuộc đời như sự sinh, sự sống, cái chết cùng các quan hệ cá nhân, gia
đình, dòng họ, cộng đồng gắn với môi trường tự nhiên và xã hội.Đó cũng là quan
niệm, tư duy về linh hồn. Những nhìn nhận đó sẽ chi phối cách ứng xử của con
ngườicũng như phản ánh mối quan hệ giữa con người với các quan hệ xã hội, con
người với môi trường tự nhiên.
3.4.2. Giá trị tâm linh
Giá trị tâm linh thể hiện rõ trong quan hệ giữa người sống và người chết, người
sống với thần linh. Quan hệ đó luôn hướng tới cái thiêng, sự cao cả và được xem là
đích đến để cùng đoàn kết xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Đồng thời, tạo chỗ dựa tinh
thần vững chắc cho các thành viên trong cộng đồng.
3.4.3. Giá trị đạo đức
Là nền tảng giúp duy trì nề nếp gia đình, trật tự xã hội theo những tiêu chuẩn,
nguyên tắc nhất định. Với ngườiM’nông, qua cách ứng xử trong nghi lễ, các đặc
trưngvăn hóa mang giá trị đạo đức theo quan hệtrên- dưới, trước - sau, gia đình - làng
bon, cá nhân - cộng đồng. Qua đó, góp phần điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên và
của cả cộng đồng.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 làm rõ những đặc điểm tiêu biểu trong lễ hội truyền thống của người
M’nông theo ba nhóm lễ hội liên quan đến vòng đời, lao động sản xuất và đời sống

cộng đồng. Một số lễ hội tiêu biểu cho mỗi nhóm cũng được giới thiệu để đem lại cái
nhìn chung nhất.
Lễ hội là hiện tượng xã hội tổng thể với nhiều thành tố có liên hệ lẫn nhau. Tìm
hiểu các yếu tố cấu thành lễ hội, có thể thấy lễ hội truyền thống của người M’nông
được tạo thành bởi những yếu tố cốt lõi như lễ vật, thầy cúng, lời khấn và các yếu tố
bổ trợ có quan hệ linh hoạt hơn như các điệu múa, nhạc cụ, ẩm thực,…
Lễ hội và tín ngưỡng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Gần như tất cả các lễ hội
truyền thống của người M’nông đều xuất phát, đều là sự cụ thể hóa tín ngưỡng nào
đó. Ngược lại, tín ngưỡngthường là nguồn gốc lễ hội, chi phối nội dung lễ hội và là
chuẩn mực tạo nên giá trị văn hóa lễ hội.
Với người M’nông, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống giúp thực hiện chức năng
tâm lý; chức năng xã hội và chức năng giáo dục. Đồng thời, chứa đựng nhiều giá trị
văn hóa độc đáonhư giá trị nhân sinh; giá trị tâm linh; giá trị đạo đức.

CHƯƠNG 4
SỰ BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI CỦA NGƯỜI M’NÔNG
Ở TỈNH ĐĂK NÔNG HIỆN NAY
4.1. Những biến đổi cụ thể trong tín ngưỡng và lễ hội
4.1.1. Tín ngưỡng và lễ hội liên quan đến vòng đời
4.1.1.1. Thay đổi trong sinh đẻ, nuôi con


19
Sự thay đổi diễn ra không giống nhau giữa các bộ phận cư dân. Ở nhóm theo Công
giáo và Tin Lành, sự thay đổi diễn ra rõ nét, cụ thể, nhanh và mạnh hơn so với nhóm
cư dân còn lại. Nhìn chung, trong sinh đẻ cũng như nuôi con, người M’nông hiện có
nhiều thay đổi cả trong quan niệm cũng như cách tổ chức, tiến hành nghi lễ.
4.1.1.2. Thay đổi trong lễ cưới, mừng thọ, tang ma
Điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi cùng giao lưu văn hóa đã tác động làm thay đổi
quan niệm, chuẩn mực cũng như nghi thức hôn nhân của người M’nông. Nghi lễ cưới

xin hiện giản lược khá nhiều hoặc biến đổi tương tự người Kinh.
Lễ mừng thọ ít được tổ chức lớn mà chủ yếu mang tính kỷ niệm gói gọn trong
phạm vi gia đình, dòng họ, thậm chí nhiều gia đình không còn tổ chức nữa.
Nghi thức tang ma truyền thống giản lược nhiều, các thành tố của nghi lễ đã dần
thay đổi theo hướng tích hợp, ảnh hưởng văn hóa người Kinh.
4.1.2. Tín ngưỡng và lễ hội liên quan đến lao động sản xuất
4.1.2.1. Thay đổi trong nhận thức
Thay đổi dễ nhận thấy nhất là quan niệm về vai trò thần linh. Niềm tin về thần linh
vẫn tồn tại nhưng không chi phối đời sống như trước. Ngoài ra, khi tôn giáo mới xâm
nhập, một bộ phận người M’nông đã chuyển đổi niềm tin đa thần sang độc thần. Quan
niệm về quyền uy, sự ban phát, chở che của thần linh vì thế không còn tác động mạnh
mẽ các thành viên trong cộng đồng.
4.1.2.2. Thay đổi trong thực hành nghi lễ
Thay đổi nhận thức dẫn đến thay đổi các hình thức sinh hoạt tâm linh gắn liền nếp
sống nương rẫy truyền thống. Nhiều nghi lễ mất đi, nhất là những nghi lễ liên quan
đến phát rẫy và canh tác. Nếu còn cũng không được tổ chức thường xuyênvà thay đổi
khá nhiều. Với bộ phận cư dân không theo đạo, các nghi lễ giản lược nhiều. Bộ phận cư
dân theo đạo không tổ chức nghi lễ nông nghiệp mà chỉ đọc kinh cầu nguyện. Sự
chuyển đổi cũng khác nhau ít nhiều giữa các địa bàn cư trú.
4.1.3. Tín ngưỡng và lễ hội khác
Thời gian gần đây, hệ thống lễ nghi liên quan đến các sinh hoạt cộng đồng ngày
càng bị suy giảm, mai một nhanh về quy mô lẫn hình thức.Những người theo đạo, đặc
biệt Tin Lành, đã bỏ hết các nghi lễ cổ truyền. Những người không theo đạo, nghi lễ
nếu còn cũng tổ chức trong phạm vi hẹp bởi số người tham gia chỉ là những người theo
tín ngưỡng đa thần. Về nội dung, trình tự tổ chức nghi lễ không đúng theo truyền
thống mà bị đơn giản hóa đến sơ sài.Thật ra, đã khá lâu lễ hội mang tính cộng đồng
theo đúng nghĩa dường như không còn.
4.2. Các tác nhân tạo nên sự biến đổi
4.2.1. Chính sách của nhà nước, của địa phương
Ở Đăk Nông, các chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa (trong đó có tín

ngưỡng, lễ hội của người M’nông) được ban hành dựa trên những quyết định, đề án
của Đảng, Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và được đặt trong bối
cảnh thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia 132, 134, 135, 168, 167 cũng như
chính sách dân tộc trong cả nước.
Nhìn chung, chủ trương và chính sách là áp lực bên ngoài tác động và bước đầu
tạo nên xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, một số chủ trương liên


20
quan đến xây dựng phục hồi nghi lễ truyền thống nặng tính trình diễn và không có sự
tham gia của nhiều người dân. Vì thế, hiệu quả vẫn còn hạn chế.
4.2.2. Kinh tế
Những năm vừa qua, kinh tế thị trường được xác lập dựa trên quản lý nhà nước tạo
cơ chế thoáng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cùng đầu tư, làm ăn. Vì thế, thu
hẹp dần ranh giới vùng miền, tộc người tạo nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống
người M’nông. Bên cạnh thuận lợi, những yếu tố trên cũng làmsự phân hóa giữa các
khu vực kinh tế, các cộng đồng người càng trở nên rõ nét.Điều đó làm sa sút nếp sống,
phong tục tập quán, khủng hoảng niềm tin,trong đó có niềm tin tín ngưỡng.
Đặc biệt,trong bối cảnh phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiện nay,
cây lúa không chiếm vai trò chủ đạo mà thay vào đó là cây công nghiệp như tiêu, cà
phê, chè, cao su. Điều này khiến nghi lễ nông nghiệp gắn bó với tín ngưỡng hồn Lúa
và chu kỳ canh tác lúa rẫy truyền thống của người M’nông mai một dần.
4.2.3. Xã hội
Hiện có hơn 40 dân tộc cùng sinh sống ở Đăk Nông. Việc cộng cư, xen cài trong
môi trường đa văn hóatạo nhiều thuận lợi. Ngược lại, quá trình này phần nào phá vỡ
quy hoạch, làm quá tải cơ sở hạ tầng ở địa phương và tình trạng thiếu đất canh tác của
cư dân M’nông càng tăng, đồng nghĩa với việc phá vỡ không gian xã hội truyền thống
làm ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa tộc người.
Các chính sách, định hướng và quản lý văn hóa còn chưa thấy vai trò văn hóa với
phát triển nên có một số chủ trương gây tâm lý tự ti, mặc cảm. Ngoài ra, chưa có biện

pháp khai thác, bảo quản văn hóa truyền thống hữu hiệu. Trình độ dân trí thấp cũng
khiến việc nhận diện, định hướng giá trị văn hóa còn nhiều hạn chế.
Thay đổi cơ cấu gia đình khiến sự cố kết các thành viên ngày càng lỏng lẻo. Tính
cộng đồng bị tách rời, rạn nứt, suy giảm. Điều này cũng dẫn đến sự biến mất nhiều
nghi lễ lễ hội truyền thống.
Nguyên nhân quan trọng khác là tác động của tôn giáo.Sự chuyển đổi niềm tin đa
thần sang tôn giáo như Công giáo, đặc biệt Tin Lànhđã tác động lớn đến văn hóa
truyền thống cư dân M’nông. Không thể phủ nhận mặt tích cực của các tôn giáo này
nhưng cũng không thể không thấy sự mai một, biến mất nhiều tín ngưỡng lễ hội
truyền thống có sự tác động của các tôn giáo mớinhư Công giáo, Tin Lành.
4.2.4. Khoa học công nghệ
Cách mạng khoa học công nghệ thời đại toàn cầu hóa đã và đang tác động đến mọi
mặt đời sống xã hội Việt Nam. Văn hóa nhân loại lan tỏa nhanh chóng, người M’nông
có cơ hội tiếp xúc nhiều nền văn hóa trên thế giới, biến môi trường truyền thống khép
kín trở nên mở hoàn toàn.Nhìn chung, khoa học công nghệ đã làm thay đổi đời sống văn
hóa thế hệ trẻ một cách căn bản. Sự thay đổi này mang tính hai mặt: Vừa tạo sự phát
triển, giao lưu hội nhập nhưng lại vừa phá vỡ kết cấu bên trong của văn hóa truyền
thống, nhất là văn hóa tinh thần gắn liền môi trường sinh tồn khép kín từ bao đời.
4.3. Xu hướng biến đổi của tín ngưỡng và lễ hội
4.3.1. Xu hướng tích cực
Xu hướng giao lưu, hội nhập và tạo nên những giá trị văn hóa mới trong tín ngưỡng,
lễ hội truyền thống. Văn hóa người M’nông nói riêng không còn ở trạng thái ngưng
đọng mà có điều kiện giao thoa với nhiều luồng văn hóađể hội nhập văn hóa đương đại.


21
Nhìn chung, xu hướng tích cực chủ đạo là tiếp nhận, chọn lọc theo mức độ khác nhau
tinh hoa các dân tộc khác.Nhờ đó, tạo nên đời sống tinh thần hài hòa trong sự phát triển
chung của các dân tộc trên cùng vùng đất.
Xu hướng gọn nhẹ, tiết kiệm, tiến bộ. Trong nghi lễ hiện nay, từ nhận thức đến tổ

chức, ứng xử của người M’nôngthay đổi theo hướng tiến bộ, văn minh hơn. Những lễ
cúng rườm rà, lễ vật tốn kém dần mất đi, mà đối với đa số người M’nông còn thiếu
thốn, khó khăn thì đây là sự giảm nhẹ gánh nặng về kinh tế. Nhờ đó, tạo nên đời sống
tâm linh nhẹ nhàng, không quá bị ràng buộc bởi những định chế khắt khe phải nhất
nhất tuân theo.
Xu hướng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống. Nhiều chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đều hướng tới đích
bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của cư dân M’nông. Nhờ đó, góp
phần tạo nên xu hướng phục hồi lễ hội truyền thống. Cùng với đó là cơ hội giữ gìn
những giá trị mang tính bản sắc của tộc người trong tiến trình phát triển.
4.3.2. Xu hướng tiêu cực
Xu hướng đơn giản hóa nghi lễ. Việc đơn giản hóa nghi lễ vô tình làm mất đi nhiều
giá trị tạo thành bản sắc tộc người như rượu cần, cồng chiêng, diễn xướng dân gian... Ở
góc độ kinh tế, việc đơn giản hóa tạo sự nhẹ nhàng trong đời sống vật chất, tinh thần của
người M’nông nhưng dưới góc độ văn hóa truyền thống, sự đơn giản hóa này làm mất
đi nhiều đặc trưng văn hóa tộc người biểu hiện trong lễ hội.
Xu hướng phục dựng nghi lễ không đúng truyền thống, thiếu tính bền vững. Dưới
sự chỉ đạo của chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan, nhiều nghi lễ
truyền thống được phục dựng. Thế nhưng,sự phục dựng nhiều lúc còn máy móc,
không hẳn đúng với nghi lễ truyền thống, không phản ánh phần “hồn” nghi lễ. Ngoài
ra, khi không còn chủ trương, hết kinh phí thì những nghi lễ này cũng không còn ai
quan tâm thực hiện.
Xu hướng đồng hóa trong các hoạt động văn hóa. Mặt trái đó bộc lộ rõ nhất là khi
văn hóa truyền thống của người M’nông chịu ảnh hưởng văn hóa mới với cường độ và
phạm vi ảnh hưởng mạnh. Từ đó, người dân choáng ngợp, nhiễu loạn cũ - mới, truyền
thống - hiện đại, không có điều kiện tiếp thu chọn lọc khiến nhiều đặc trưng bị quay
lưng, đồng nghĩa văn hóa truyền thống mất nhiều bản sắc.
4.4. Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng, lễ hội của người
M’nông
4.4.1. Các định hướng cơ bản

Hiện nay, vấn đề đặt ra là bảo tồn, phát huy tín ngưỡng, lễ hội người M’nông vừa
phù hợp thời đại, vừa giữ được những giá trị vốn có.Vì vậy, cần lưu tâm ba định
hướng bảo tồn chính:
Tính hệ thống của các thành tố.Việc đề ra giải pháp cần tôn trọng nguyên tắc tổng
thể, tính hệ thống của chủ thể văn hóa, hoạt động văn hóa. Cần thấy sự tồn tại tín
ngưỡng, lễ hội trong quan hệ các thành tố khác nhau để khi đưa ra chủ trương tạo sự
gắn kết giữa các thành tố cũng như lớp văn hóa lắng đọng trong nghi lễ. Ngoài ra, chú
ý quan hệ hữu cơ không tách rời giữa kinh tế, văn hóa và phát triển.
Tính khả thi của các giải pháp. Các chủ trương chính sách phải xuất phát từ thực
tiễn khách quan, phù hợp đặc điểm tự nhiên, đáp ứng nguyện vọng cư dân M’nông.


22
Tóm lại, tính khả thi của các giải pháp phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng tín ngưỡng, lễ
hội cổ truyền nhưng phải thường xuyên củng cố bổ sung các yếu tố mới, tích cực nhằm
phát huy những giá trị văn hóa M’nông tiêu biểu trong xã hội hiện đại.
Tính đồng bộ trong thực hiện. Để đồng bộ trong thực hiện cần đồng bộ trong cả chỉ
đạo và tuyên truyền, tránh tình trạng mỗi nơi một phách không những không hiệu quả
mà còn phản tác dụng. Trong chỉ đạo, chú ý nghiên cứu đầy đủ quy trình, phương thức
thực hiện, cơ chế, điều kiện kinh tế xã hội có định hướng để các giải pháp đưa ra
thống nhất đồng bộ trên mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo.
4.4.2. Đề xuất một số giải pháp
Ba định hướng trên là nền tảng để chúng tôi đề xuất ba nhóm giải pháp sau:
Về kinh tế:Phát triển sản xuất cả chiều rộng lẫn chiều sâu, chú trọng chất lượng,
hoàn thành định canh định cư,giảm nghèo bền vững. Khuyến khích đầu tư vào các
vùng kinh tế trọng điểm, chuyển đổi từ nông nghiệp sơ khai sang nông nghiệp hiện
đại để cải thiện đời sống. Chú trọng trồng rừng, giao rừng cho người dân nhằm bảo vệ
và hưởng lợi từ rừng, khắc phục tâm lý mất đất mất rừng giúp bảo lưu văn hóa truyền
thống. Đây là vấn đề quan trọng bởi văn hóa của cư dân M’nông là “văn hóa rừng”.
Tăng thu nhập cho một bộ phận cư dân M’nông bằng cách nâng cao nhận thức của

doanh nghiệp trong tuyển dụng lao động là người M’nông, coi đó là nguồn lực quan
trọng cho phát triển của tỉnh mang tính bền vững lâu dài và có ý nghĩa.
Nhìn chung, phát triển kinh tế là điều kiện kiên quyết để bảo tồn, phát huy bản sắc văn
hóa. Vì kinh tế ổn định, phát triển người M’nông mới quan tâm đến vấn đề khác như phát
triển và bảo tồn các giá trị văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống mỗi người.
Về xã hội: Cần quan tâm bảo tồn không gian văn hóa bon làng.Để phục vụ mục
tiêu bảo tồn phát triển văn hóa, không coi nhẹ vai trò bon làng mà cần chú ý khai thác
sức mạnh tiềm tàng của hình thức tổ chức xã hội này.Ngoài ra, chú trọngkhông gian
văn hóa gia đình - nơi thực hành các nghi lễ vòng đời.
Những chính sách xã hội như 134, 135… cần triển khai đồng bộ nhằm giúp cư dân
M’nông có điều kiện hưởng lợi đầy đủ. Việc áp dụng luật pháp phải linh hoạt, kết hợp
hài hòa với luật tục khi giải quyết các vấn đề liên quan đến văn hóa cư dân M’nông
nói chung.
Hiện nay, đa số người M’nông ở Đăk Nông là tín đồ đạo Công giáo và Tin Lành.
Cần tăng cường tuyên truyền và phối hợp với các chức sắc tôn giáo để tăng cường
hiệu quả công tác giáo dục, vận động người dân hiểu rõ tầm quan trọng của việc thực
hiện chính sách của nhà nước, giải quyết vấn đề bảo tồn văn hóa theo hướng tích cực
“tốt đạo đẹp đời”.
Về văn hóa: Cần giúp người M’nông nhận diện và hiểu được những giá trị văn hóa
tộc người.Trong tiếp thu, chú ý định hướng đồng bào linh hoạt biếntinh hoa văn hóa
dân tộc khác thành những giá trị văn hóa mới.Vì vậy, phải khéo léo và ứng xử tế nhị,
phù hợp tránh quy chụp, chú ý gạn đục khơi trong để bảo tồn.
Đầu tư cho mục tiêu văn hóa cần được chú trọng hơn. Tăng cường tìm hiểu, ghi
chép, phục dựng…. để gìn giữ những lễ hội giàu giá trị nhân văn đang thay đổi hoặc
mai một theo thời gian. Trong phục hồi, cần cân nhắc chọn cái tinh tế giúp đưa đồng
bào “trở về” cội nguồn của họ.


23
Hạn chế tối đa bảo tồn bằng cách phục dựng theo hướng lắp ghép, áp đặt. Riêng với

lĩnh vực mới như khoa học công nghệ, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để vận dụng phù
hợp nhằm phát huy tốt nhất những tác động tích cực trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Tiểu kết chương 4
Chương 4 làm rõ những biến đổi trong tín ngưỡng, lễ hội liên quan đến vòng đời,
đến lao động sản xuất cũng như các lễ hội khác trong đời sống cộng đồng. Sự biến đổi
thể hiện ở cả quan niệm và cách thực hành. Điều dễ nhận thấy nhất là sự biến đổi không
đồng đều giữa các địa bàn, các nhóm cư dân (sự khác biệt khá lớn giữa bộ phận cư dân
theo đạo và không theo đạo). Có nhiều tác nhân tạo nên biến đổi như chính sách, kinh
tế, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ. Trong đó, đáng chú ý là các chính sách phát
triển. Xu hướng biến đổi tín ngưỡng, lễ hội của người M’nông hiện theo hai xu hướng
cả tích cực lẫn tiêu cực. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng, lễ hội của người
M’nônglà vấn đề không đơn giản và khó thành công nếu không có sự chung sức của các
cấp chính quyền. Vì thế, người nghiên cứu nêu lên ba định hướng bảo tồn cơ bản là tính
hệ thống của các thành tố, tính khả thi của giải pháp, tính đồng bộ trong thực hiện. Ba
định hướngcũng là cơ sở để chúng tôi đề xuất một số giải pháp theo ba nhóm kinh tế,
văn hóa và xã hội.

KẾT LUẬN
Qua những nội dung đã được trình bày, chúng tôi có một số kết luận sau:
1. Đăk Nông là địa bàn cư trú tập trung nhất của người M’nông với gần50 % dân
số. Ở vùng đất này, cư dân M’nông có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội địa phương. Hiện nay, người M’nông có 7 nhóm cư trú rải rác trên 08
huyện thịtrong tỉnh với quy mô khác nhau. Các nhóm có một số khác biệt về ngôn
ngữ, phong tục tập quán… nhưng cơ bản vẫn thống nhất trong văn hóa tộc người và
có ý thức tộc người khá rõ nét.
2.Theo nghiên cứu, người M’nông hiện còn ba hình thức tín ngưỡng là tô tem, hồn
linh, đa thần. Ba tín ngưỡng này phản ánh các mối quan hệ có điều kiện với thế giới
siêu nhiên mà đồng bào tôn kính. Tuy nhiên, sự tồn tại cũng như mức độ ảnh hưởng
đậm nhạt khác nhau tùy đặc thù địa bàn cư trú. Dễ nhận diện nhất là tín ngưỡng đa
thần, hồn linh còn tín ngưỡng tô tem mức độ ảnh hưởng và dấu hiệu nhận diện đã nhạt

đi nhiều.
3. Lễ hội truyền thống của người M’nông chứa đựng những giá trị tiêu biểu. Có thể
tạm chia lễ hội truyền thống của người M’nông thành ba nhóm: Lễ hội liên quan đến
cuộc đời con người; Lễ hội liên quan đến lao động sản xuất và Lễ hội khác trong đời
sống cộng đồng.Nhìn chung, các nghi lễ lễ hội của người M’nông cùng hướng đến
đích là cầu mong sự bình yên, suôn sẻ và may mắn.
4.Có hai nhóm yếu tố cấu thành nghi lễ. Nhómyếu tố cốt lõi(thầy cúng, lễ vật, lời
khấn)được tuân theo một cách chặt chẽ tạo nên giá trị và ý nghĩa của nghi lễ.
Nhómyếu tố bổ trợ(thời gian, không gian, cồng chiêng, múa…) không thật sự nghiêm
ngặt, có thể thay đổi tùy thực tiễn nhưng vẫn góp phần quan trọng tạo nên chỉnh thể
nghi lễ.
5.Tín ngưỡng và lễ hội có mối quan hệ mật thiết. Đó là quan hệ giữa nội dung và
hình thức, nguyên nhân và hiện tượng, chuẩn mực, giá trị và biểu tượng. Nói khác


24
hơn,quan hệ giữa tín ngưỡng và lễ hội là quan hệ hai chiều: Tín ngưỡng chi phối lễ
hội, lễ hội phản ánh tín ngưỡng. Nhờ đó, giúp thực hiệnchức năng tâm lý, chức năng
xã hội, chức năng giáo dụctrong đời sống của người M’nông.
6. Là chỉnh thể được cấu thành bởi nhiều yếu tố, tín ngưỡng và lễ hội dân tộc
M’nông thể hiện bagiá trị văn hóa đặc sắc: giá trị nhân sinh, giá trị tâm linh, giá trị
đạo đức. Các giá trị đó kết tinh trí tuệ, kinh nghiệm, sức sống, sức sáng tạo của cư dân
M’nông vàtác động đến sự phát triển chung của cộng đồng, chi phối cuộc sống mỗi
thành viên trong cộng đồngtừ khi ra đời đến khi mất.
7. Theo thời gian, tín ngưỡng, lễ hội của người M’nông có nhiều biến đổi. Xét đến
cùng, chính sách, kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ là những tác nhân chính tạo
nên những biến đổi. Biến đổi đáng chú ý nhất là sự thay thế hoặc mất đi phần nào liên
hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành cũng như chức năng tín ngưỡng, lễ hội.Nhìn
chung, sự biến đổi không giống nhau giữa các khu vực, thậm chí giữa các bon trong
cùng khu vực.

Dựa trên cơ sở những nội dung đã được nghiên cứu, chúng tôi nhấn mạnh ba định
hướng cụ thể là tính hệ thống của các thành tố; tính khả thi của các giải pháp; tính
đồng bộ trong thực hiện làm nền tảng để đề xuất ba nhóm giải phápchung về kinh tế,
văn hóa, xã hội nhằm bảo tồn những mặt tích cực cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực
trong tín ngưỡng và lễ hội của đồng bào M’nông.



×