Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
PHẦN I: BÀI TẬP THẢO LUẬN CỦA NHÓM
TÍN NGƯỠNG TÔN SÙNG TỰ NHIÊN
I. TÍN NGƯỠNG
1. Khái niệm
Tín ngưỡng có thể hiểu một cách nôm na là niềm tin, sự ngưỡng mộ tuyệt đối
đối với một đối tượng siêu nhiên nào đó có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống sinh
hoạt của con người.
Như vậy tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa do con người quan hệ với tự
nhiên, xã hội và chính bản thân mình mà hình thành. Lòng tin ở một lực lượng siêu
nhiên, sự sợ hãi sẽ bị trừng phạt hay hy vọng sẽ được che chở, niềm tin rằng mình sẽ
được giải thoát mọi nỗi tai ương…là hạt nhân ban đầu của tín ngưỡng. Niềm tin đó
còn tồn tại, chừng nào con người chưa làm chủ được tự nhiên, xã hội và con người.
Khi con người còn gặp những bất hạnh, may rủi, còn muốn thoát khỏi mọi nỗi đau
khổ thì họ còn dựa vào đấng siêu nhiên tối cao, huyền bí nào đó.
2. Phân biệt tín ngưỡng- Tôn giáo- Mê tín dị đoan
2.1. Tín ngưỡng- Tôn giáo
- Giống nhau: cùng là lòng tin tuyệt đối vào một đấng cao siêu huyền bí nào
đó, đều là sự phản ánh hư ảo, sai lạc đối với hiện thực.
- Khác nhau:
+ Tôn giáo với tư cách là một giáo lý, giáo pháp chính là sự phát triển một tín
ngưỡng, được cộng đồng thể chế, quy phạm hóa cao độ. Mỗi tôn giáo cần có: một hệ
thống giáo lý, một vị giáo chủ đứng đầu, một hệ thống thể chế, nghi lễ thờ tự và nơi
thờ tự. Một hệ thống tổ chức gồm giáo luật nghiêm chỉnh, giáo hội với các tín đồ.
+ Tín ngưỡng (có khi còn được gọi là tín ngưỡng dân gian, tôn giáo dân gian)
về cơ bản do nhân dân, những người lao động sáng tạo ra. Nó chủ yếu mới là sự
sùng tín, nó nằm trong tâm thức của con người. Nó không có tính hệ thống, không
mang tính triết lý nhân sinh hoàn chỉnh cũng như nhiều yếu tố khác của tôn giáo như
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
1
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
đã nêu ở trên. Khái niệm tín ngưỡng vì vậy rộng rãi hơn,dân dã hơn khái niệm tôn
giáo.
2.2. Phân biệt tín ngưỡng- mê tín dị đoan
- Tín ngưỡng là niềm tin tuyệt đối vào một đấng cao siêu, coi đó là chỗ dựa
tinh thần khi cuộc sống gặp khó khăn, bù đắp cho họ những mất mát. Còn tín
ngưỡng dị đoan là tin tưởng mọt cách mù quáng, mê muội.
- Con người tìm đến một đấng tối cao để mong một sự bù đắp về tinh thần,
nhờ đó con người cảm thấy được an ủi, sự đau khổ trở nên nhẹ nhàng hơn, từ đó
giúp họ có thêm niềm tin, nghị lực để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc
sống. Còn mê tín dị đoan làm cho người ta mê muội, mất tự tin, mất hết ý chí vươn
lên.
- Tín ngưỡng kêu gọi mọi người hãy sống tốt, yêu thương con người, đòi hỏi
tính hướng thiện, còn mê tín dị đoan vì là niềm tin mù quáng nên dễ dẫn đến những
hành động tiêu cực, có khi dẫn đến cuồng tín, dễ bị bọn phản động lợi dụng xúi giục.
- Tín ngưỡng là niềm tin nằm trong tâm thức con người, mang tính chất dân
dã. Còn mê tín dị đoan quá nhấn mạnh đến yếu tố siêu phàm, siêu nhiên, huyền bí, vì
thế đặt ra những nghi lễ phiền phức, làm rối loạn cuộc sống bình thường. Việc thờ
cúng tổ tiên, thờ các vị thần có công với đất nước sẽ không còn là những nhân tố văn
hóa cao đẹp khi gắn cho nó những điều huyền bí, với những nghi thức cúng lễ linh
đình, những hủ tục phiền hà mang yếu tố ma thuật, phù thủy.
Như vậy giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan chỉ là một ranh giới rất nhỏ, Khi
tín ngưỡng bị quá lạm dụng thì nó sẽ chuyển sang cái đối lập với chính nó là mê tín
dị đoan.
II. TÍN NGƯỠNG TÔN SÙNG TỰ NHIÊN
1. Nguồn gốc hình thành tín nguỡng tôn sùng tự nhiên
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
2
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Khi thoát khỏi cuộc sống “ăn lông, ở lỗ”, con người vẫn phụ thuộc rất nhiều
vào tự nhiên. Tự nhiên đối với họ vừa là nguồn nuôi dưỡng vừa là mối đe dọa khôn
lường. Vì trình độ khoa học hạn chế, họ không giải thích được các hiện tượng tự
nhiên nên gắn cho nó những tính năng siêu phàm. Một mặt con người vừa chống lại,
mặt khác lại sợ hãi nên muốn cầu hòa với tự nhiên bằng cách tôn sùng nó. Với cư
dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng, sự gắn bó
với tự nhiên càng lâu dài và bền chặt, họ luôn sống hòa hợp với tự nhiên. Việc đồng
thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến một hệ quả là trong
lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong hình thức tín ngưỡng là tín
ngưỡng đa thần.
2. Các hình thức tín nguỡng tôn sùng tự nhiên
Thứ nhất là tín ngưỡng tôn thờ mặt trời. Mặt trời được coi là một vị thần
thiêng liêng, có quyền năng hơn bất kỳ một thiên thần nào khác. Mặt trời ban phát
ánh sáng và sức ấm nóng, đem lại sinh khí cho con người và vạn vật trên trái đất. Vì
vậy, không chỉ người dân Đông Nam Á, vùng cư dân nông nghiệp lúa nước mà tất
cả các dân tộc trên trái đất đều tôn thờ Mặt Trời, thường gọi là nữ thần Mặt trời. Tục
thờ Mặt trời ở Đông Nam Á biểu hiện ở phong tục cúng gà trong đêm giao thừa.
Theo thần thoại của một số dân tộc Việt Nam kể rằng: Khi Ngọc Hoàng mới sáng
tạo ra trời đất, thấy lạnh lẽo, ẩm thấp, Người bèn sai 10 mặt trời suốt ngày đêm chiếu
sáng để sấy khô mặt đất. Nhưng khi mặt đất đã khô trắng mà Ngọc Hoàng quên
không thu các mặt trời lại khiến con người và mọi vật khốn đốn vì nắng hạn. Có một
chàng dũng sĩ giương cung tên bắn liên tiếp rụng 9 mặt trời. Mặt trời cuối cùng sợ
quá bay tít lên cao và không dám ló mặt ra nữa. Mặt đất lại lạnh lẽo, tối tăm. Con
người và loài vật rủ nhau đi gọi mặt trời nhưng đều thất bại, cuối cùng chỉ có con gà
trống khỏe mạnh cất tiếng gáy vang lừng khiến mặt trời tò mò ngó xuống, quên cả
sợ hãi khiến mặt đất lại sáng bừng lên. Đêm giao thừa là đêm tối nhất, người ta bảo
đó là lúc mặt trời lặn sâu nhất. Nhà nhà bảo nhau cúng một con gà trống với mong
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
3
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
ước con gà sẽ đánh thức mặt trời chiếu sáng cho đủ đầy ánh sáng của một năm. Đó
chính là mong ước đủ nắng đủ mưa, mưa thuận gió hòa của cư dân nông nghiệp. Tục
thờ mặt trời còn được ghi lại trên trống đồng Đông Sơn. Trên mặt trống, giữa trung
tâm là hình mặt trời với 14 tia, và cuộc sống trên trái đất xoay quanh mặt trời theo
chiều ngược của kim đồng hồ. Tín ngưỡng thờ mặt trời cũng biểu hiện ở hình ảnh
mặt trời trên đỉnh đình, chùa.
Tín ngưỡng thờ mặt trời còn gắn liền với tục thờ lửa. Để cầu mong sự sống và
sinh sôi nảy nở, các dân tộc có nhiều lễ hội liên quan đến mặt trời và lửa: Thả cầu
lửa trên không trung, giăng đèn lồng kết hoa, rước đèn, hội hoa đăng, trò chơi cướp
cầu, hội đánh phết, ném còn… Có thể kể đến một số lễ hội đánh phết ở Cẩm Khê,
hội phết Sơn Vi, và đặc biệt là hội đánh phết Hiền Quang ở Phú Thọ. Mặc dù đây là
tín ngưỡng thờ vị nữ tướng của Hai Bà Trưng là Thiều Hoa, và trò đánh phết là diễn
lại việc luyện quân đánh giặc, nhưng ban đầu đó là tín ngưỡng thờ mặt trời. Quả
phết được đẽo gọt từ củ tre, sơn son tượng trưng cho mặt trời, đòn phết làm bằng gốc
tre cong. Sân chơi thường là sân đình, hai đầu sân (theo hướng đông- tây) đào lỗ làm
mục tiêu. Hai đội chơi dùng gậy phết đánh quả phết (từ đông sang tây tượng trưng
cho hướng đi của mặt trời) vào lỗ đối phương thì sẽ thắng. Mọi người hò reo, cổ vũ
rất sôi nổi.
Mặt trăng được coi là vị thần tối cao sau mặt trời. Ta có thể tìm thấy dấu vết
của tín ngưỡng thờ mặt trăng trong lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng (cặp sừng
trâu giống hình trăng khuyết). Đây cũng chính là tín ngưỡng thờ thủy thần của cư
dân vùng biển, vì trăng chi phối sự lên xuống của thủy triều. Truyền thuyết kể rằng,
một đêm, người dân thấy một vầng hào quang sáng trên biển.Họ nhìn thấy một ông
tiên râu tóc bạc phơ đứng xem một cặp trâu đang trọi nhau. Người dân tin đó là vị
thần phù hộ, bèn lập đền thờ, tôn làm vị thành hoàng phù hộ cho họ. Vào ngày tổ
chức lễ hội, có hai con trâu trọi nhau trước cổng đền. Người dân tin rằng vị thần
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
4
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
thích xem trâu trọi nên hàng năm tổ chức trọi trâu để tưởng nhớ vị thành hoàng. Lễ
hội này chính là biểu hiện của tín ngưỡng thờ thủy thần và tục hiến tế cho thủy thần.
Tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên thiết thân với cuộc sống của người
trồng lúa nước như thờ Đất, thờ Nước, thờ Trời cũng rất phổ biến. Tín ngưỡng này
gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, một đặc trưng của văn hóa của vùng nông nghiệp lúa
nước. Ba vị nữ thần Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước được thờ chung như một bộ tam tài
dưới dạng tín ngưỡng Tam Phủ cai quản ba vùng trời, đất, nước, còn gọi là Mẫu
Thượng thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (Mẫu Thủy). Đông Nam Á là vùng
văn hóa sông nước và biển cả. Sông biển hùng vĩ với con người là quyền năng vô
hạn. Khi hiền hòa thì cho con người mọi thứ, nhất là nước để sống, nhưng khi giận
giữ thì thật kinh hãi: lụt lội, bão tố. Con người thờ thần Nước để cầu mong mưa
thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Có thể nói tục thờ thần Nước rất sôi động và có
mặt trong nhiều lễ hội, tập trung vào giai đoạn chuyển mùa- vào mùa mưa và bắt đầu
vào vụ sản xuất. Các nước Lào, Campuchia, Thái Lan… đều có lễ hội té nước, tắm
nước- một hoạt động cầu mưa. Những lễ hội rước nước, đua thuyền, hội trống làm
sấm cầu mưa, “cướp bưởi cầu mưa, cướp dừa cầu nước”… rất phổ biến ở khắp mọi
miền trên đất nước ta. “Cướp bưởi cầu mưa, cướp dừa cầu nước” là tục cướp cầu đặc
sắc cả về lối chơi và cấu tạo quả cầu. Cầu không phải làm bằng gỗ, bằng gỗ tre mà
bằng một loại quả: quả bưởi hoặc quả dừa, loại quả có nhiều nước. Một số xã ở
huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc mỗi khi đại hạn, sẽ làm lễ đảo vũ, sau đó chơi cướp
cầu nước để cầu “mưa nắng phải thì”. Tế lễ trong đình xong, người chủ tế mang quả
dừa cúng ở mâm thờ ra tung cho mọi người bắt. Tất cả người dân sẽ đổ xô vào, hò
la, hăng hái tranh nhau quả dừa thiêng. Ai cướp được phải giữ chặt, luồn nhanh khỏi
đám đông, chạy ra ao trước sân đình tung quả dừa xuống nước. Thế là thắng cuộc.
Mọi người hò reo vui mừng, hy vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Các bà Mây, Mưa, Sấm, Chớp cai quản những hiện tượng tự nhiên hết sức
quan trọng trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đây cũng là một tín
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
5
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
ngương thuộc tín ngưỡng thờ thần Nước. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, nhóm nữ
thần này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Tháp
Lôi, Pháp Điện. Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời
Lý, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm
chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc. Hội chùa Dâu chính là lễ hội của cư dân nông
nghiệp, ý nghĩa sâu xa là cầu cho mưa thuận gió hòa, ước mơ ngàn đời của cư dân
nông nghiệp. Các nghi thức trong hội Dâu xét cho cùng đều bắt nguồn từ tín ngưỡng
thờ thần Nước. Ban ngày rước Tứ Pháp về chùa Dâu, thể hiện sự cộng hưởng Mây
+Sấm + Chớp = Mưa. Ban đêm rước Tứ Pháp đi tuần nhiễu một vòng từ đông sang
tây, diễn ta chu kì quả đất xoay tròn, tạo ra năm tháng, bốn mùa.
Trong mảng tín ngưỡng sùng bái tự nhiên còn có tín ngưỡng thờ vật tổ. Vật tổ
ở đây có thể là con vật hoặc cây cối. Chim, rắn, cá sấu là những loài động vật phổ
biến hơn cả ở vùng sông nước, vì thế được sùng bái hàng đầu. Những con vật đó đã
được mĩ lệ hóa thành các biểu tượng mang tính biểu trưng: Tiên và Rồng. Theo
truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng”, là “giống Rồng Tiên’’.
Tiên Rồng là một cặp đối,trong đó Tiên được trừu tượng hóa từ giống chim (cho nên
mẹ Âu Cơ đẻ trứng), Rồng được trừu tượng hóa từ hai loại bò sát rắn và cá sấu có rất
nhiều ở vùng sông nước Đông Nam Á. Các dân tộc thiểu số cũng coi nhiều loài chim
là vật tổ của dân tộc mình. Trong sử thi thần thoại “Đẻ đất đẻ nước” cũng quan niệm
con người sinh ra từ trứng một loài chim. Tín ngưỡng này ngày nay vẫn được thể
hiện ở phong tục cúng bát cơm và quả trứng cho người chết.
Là cư dân nông nghiệp nên ở nước ta ít thờ các con thú lớn (khác cư dân du
mục). Tuy vậy, tín ngưỡng tôn sùng cá voi của các cư dân vùng biển dọc từ Thanh
Hóa đổ vào rất phổ biến. Cá voi- được gọi là cá Ông được cư dân biển thờ vì Ngài
đã phù hộ cho họ ở ngoài khơi.
Trong huyền thoại của nhiều dân tộc có kể lại con người được sinh ra từ cây.
Có hai loại cây mà con người thờ: cây tự nhiên và cây lương thực. Những cây tự
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
6
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
nhiên thường là những cây cổ thụ tượng trưng cho sự trường tồn. Đó là cây si, cây
đa, cây đề. Cũng có dân tộc coi đó là cây vũ trụ và sau này được biểu thị bằng cây
nêu ngày Tết ở người Việt. Là vùng nông nghiệp lúa nước nên loại cây trồng được
tôn sùng nhất ở nước ta và một số nước Đông Nam Á chính là cây lúa. Khắp nơi, dù
là người Việt hay các dân tộc khác đều có tín ngưỡng thờ thần Lúa, hồn Lúa, Mẹ
Lúa. Người ta biểu hiện lòng thành kính tôn sùng mẹ lúa bằng nhiều hình thức: gọi
vía lúa, rước lúa, rước mạ, làm lễ xuống đồng, cầu nước, cầu ánh sáng cho lúa phát
triển. Có làng còn có tục rước bông lúa thần. Người ta buộc bông lúa vào ngọn cây
mía rước khắp cánh đồng lúa để cầu lúa tốt. Có thể kể đến tục rước lúa trong hội Trò
Trám ở Tứ Xã, Phú Thọ. Khi cây lúa có hạt người ta làm lễ cúng cơm mới. Cúng
cơm mới là một nghi lễ để bày tỏ lòng biết ơn với trời đất, với tổ tiên, cầu cho mưa
thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, đặc biệt là cám ơn Mẹ Lúa. Tiêu biểu là lễ cúng
cơm (xôi) mới của các dân tộc Việt, Thái, H’mông, Mường, Cao Lan (Bắc Giang)
….. Truyền thuyết Hùng Vương còn kể nhiều về sự tích vua Hùng thăm dân, dạy
dân cấy lúa, cùng với các lão làng gọi vía lúa, cầu cho dân đủ ăn, đủ mặc. Và nơi
vua Hùng hằng năm vẫn lên gọi Vía Lúa là đền Thượng- nơi thờ trời đất, thờ thần
lúa. Trong ngôi đền này xưa thờ một hòn đá hình hạt lúa.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
7
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Đền Bạch Mã
Đền Bạch Mã, một trong Thăng Long tứ trấn.
Đền Bạch Mã được coi là một trong tứ Trấn của kinh thành Thăng Long, nằm ở
địa chỉ 76 phố Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
1. Lịch sử
Xưa kia nơi đền Bạch Mã tọa lạc thuộc địa dư phường Hà Khẩu, tổng Đông
Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Thăng Long.
Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỷ 9 để thờ thần Long Đỗ (Rốn Rồng)- vị
thần gốc của Hà Nội cổ. Năm 1010, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng
Long, định đắp thành nhưng nhiều lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người
cầu khấn ở đền thờ thần Long Đỗ thì thấy một con ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần
theo vết chân ngựa, vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Thần được vua Lý
Thái Tổ phong làm Thành hoàng của kinh thành Thăng Long.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
8
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Văn bia hiện còn ở đền cho biết, đền Bạch Mã được tu bổ lớn vào niên hiệu
Chính Hòa (1680-1705) đời Lê Hy Tông, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) lại
được tu bổ thêm: sửa lại đền, dựng riêng văn chỉ, xây Phương đình, qui mô ngày
càng rộng rãi, cảnh quan tôn nghiêm, nổi tiếng ở chốn đất thiêng.
2. Kiến trúc, hiện vật
Hiện tại ngôi đền có qui mô kiến trúc lớn, quay theo hướng Nam gồm có nghi
môn, phương đình, đại bái, thiêu hương, cung cấm và nhà hội đồng ở phía sau. Các
mục hạng này được bố trí theo chiều dọc, trong một không gian khép kín. Kiến trúc
đền còn lưu lại hiện nay chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ
19). Nổi bật trong kết cấu kiến trúc của đền là toàn bộ khung nhà gỗ với hệ thống cột
gỗ lim lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu "giá chiêng chồng rường con nhị", đặc
biệt là "hệ củng 3 phương" tại nhà phương đình vừa có tác dụng chịu lực, vừa là tác
phẩm nghệ thuật và sử dụng để treo đèn trong các ngày lễ hội và kết cấu "vòm vỏ
cua" đỡ mái hiên nhà thiêu hương. Trên các cốn gỗ, xà lách, xà ngang, các vì chồng
rường đều có nhiều mảng trang trí với các đề tài phong phú và nét trạm chắc, khỏe.
Trong nội thất của đền, phương đình ở phía trong, bên trái có cây hương, bàn
thờ, phía ngoài có miếu thờ Tề Vương Phi, bên phải phương đình thờ Bể Núi. Thiêu
hương và cung cấm có ban thờ và đồ tế lễ.
Hiện đền còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị như: bia đá, sắc phong, kiệu thờ,
hạc thờ, đôi phỗng, Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã
là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long-Hà Nội về nhiều mặt.
3. Đền Bạch Mã - một biểu hiện của tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên.
Có hơn một nghìn năm lịch sử, Đền Bạch Mã là một trong những di tích kiến
trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
9
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Ngôi đền thiêng “Bạch Mã”, có tên lạ này, và trở thành tòa “Đông trấn chính
từ” (đền chính, trấn giữ mạn Đông) kinh thành Thăng Long. Trong đó đặc sắc nhất
là cuộc hóa thân thành hình tượng Ngựa Trắng, để giúp Lý Thái Tổ xây vòng thành
lũy bao quanh Kinh thành.
Trong thế giới của ngôn ngữ biểu tượng, Ngựa Trắng chính là hình ảnh của Mặt
Trời. Nếu bằng chu kỳ đều đặn của một ngày đêm, Mặt Trời thực hiện một vòng
tuần hoàn linh diệu trên vũ trụ: Mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, để rồi hôm
sau lại tái hiện từ phương Đông… Thì Ngựa Trắng trong giấc mơ cầu mộng của Lý
Thái Tổ cũng hiện ra từ ngôi “Đông trấn chính từ”. Đi một vòng thần thánh trên
vùng đất thiêng “Rồng hiện lên” mới được đặt định là Thành Kinh đô nước Việt từ
Đông sang Tây, rồi lại trở về điểm xuất phát, biến mất vào trong ngôi đền cổ, để
khoanh lại miền đế đô Kinh kỳ ấy cho thành một vùng “Thánh địa” có “Địa linh
nhân kiệt” ở bên trong.
Lý Thái Tổ định đô Thăng Long, khi cứ nương theo dấu chân Ngựa Trắng mà
xây đắp thành công vòng tường lũy bao quanh Kinh thành, thì chính là đã thực hiện
được cái “quy hoạch” linh thiêng cho tòa Kinh đô nước Việt, do ông-trong hình
tượng Ngựa Trắng - vạch ra. Vì thế, ông phải và xứng đáng được nhận danh hiệu
cùng thiên chức thiêng quý nhất: “Quốc đô định bang Thành hoàng đại vương” để
ngự tại ngôi đền Bạch Mã được bảo trợ cho cái địa bàn mà ông đã là người cắm đất
xây ngôi làng-Hà Nội - gốc đầu tiên. Ngôi làng cổ ấy, ngay từ thời gian đầu Công
nguyên, đã nhờ “cặp mắt xanh” của ông, mà có thế “Nhìn sông tựa núi” tuyệt hảo.
Sông, ở đây chính là dòng “Nước chảy trong ngần/ Có con buồm trắng chạy gần
chạy xa”. Từ hai nghìn năm trước, vốn là một nhánh chính bên bờ phải của dòng
sông Mẹ (sông Cái, Hồng Hà) uốn lượn tắm tưới và nối đường đi lại cho cả một
miền “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc,
Đông, Tây” - Như lời Người định đô Thăng Long nghìn năm sau sẽ nói.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
10
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Còn núi, thì vốn là một doi đất cao ở bên và là sản phẩm đắp bồi, từ dòng chảy
của nhánh sông rồi sẽ mang tên của ông, có cảnh trí tự nhiên cực kỳ tươi tốt, nên đã
thành tên gọi núi Nùng. Những cái nhìn huyền thoại và phong thủy, từ rất lâu trước
khi có tên gọi núi Nùng (nghĩa là tươi tốt), đã nhận ra ở đấy có một “huyệt đạo”.
Dưới thông sâu đến âm ty địa phủ, trên nối cao tới thiên đường thượng giới. Vì thế
gọi đây là núi Long Đỗ (Rốn Rồng).
Ngôi làng-Hà Nội-gốc đầu tiên đã tựa vào ngọn Long Đỗ (Rốn Rồng) ấy mà
xây dựng. Vì thế, có tên đầu tiên là Hương Long Đỗ (Làng Rốn Rồng). Và tên của vị
thần bảo hộ của làng, vì thế cũng được gọi là Thần Long Đỗ. Chính là vị thần đã
hiển linh trong thời chống Bắc thuộc làm khiếp vía những kẻ ngoại bang đã xây phủ
đô hộ ở ngay trên đất làng của thần, và trợ giúp Lý Thái Tổ khi Người định đô
Thăng Long, cũng lấy ngôi làng của thần làm tiêu điểm để mở rộng ra thành tòa
Kinh đô nước Việt.
Đấy là những điều đã được các bộ sách địa chí, sưu tập thần tích: “Tây Hồ Chí”
thế kỷ thứ 19, “Lĩnh Nam chích quái” thế kỷ thứ 14, và nhất là “Việt điện u linh” thế
kỷ thứ 14 ghi lại theo phương pháp tư duy và bằng bút pháp trung cổ: Phủ mây mù
và vàng son huyền thoại lên trên và lẫn vào trong những hạt nhân hiện thực của lịch
sử.
4. Lễ hội đền Bạch Mã.
Từ thần tích này đền mới đi vào “Thăng Long tứ trấn” (cùng với cạnh đền Voi
Phục trấn Tây, Quán Thánh trấn Bắc và đền Kim Liên trấn Nam) và mang ý nghĩa
thiêng liêng là một trong tứ trụ làm nên sự bền vững cho kinh thành Thăng Long.
Trải qua hơn 1000 năm, đền Bạch Mã là một trong những chứng tích quan trọng
về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật cũng như đời sống tinh thần của Hà Nội.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
11
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Đền Bạch Mã nằm ở phố Hàng Buồm, một trong những con phố cổ Hà Nội, là
địa điểm tập trung rất đông khách du lịch nước ngoài khi đến thăm quan, tìm hiểu
văn hóa Hà Nội truyền thống cũng như hiện đại. Là một trong Thăng Long tứ trấn,
lại có vị trí đặc biệt thuận lợi cho loại hình du lịch văn hóa, đền Bạch Mã không chỉ
có ý nghĩa tinh thần đối với người dân Hà Nội mà còn có khả năng trở thành một địa
chỉ du lịch hấp dẫn.
Mỗi năm lễ hội diễn ra một lần vào các ngày 19, 20 tháng 3 âm lịch. Các hoạt
động tế lễ diễn ra trong buổi sáng ngày 19 và 20. Chiều 19, chủ yếu diễn ra các hoạt
động văn nghệ.
Mở đầu lễ hội là lễ rước theo nghi lễ truyền thống, với sự tham gia của gần 500
người qua các tuyến phố : Hàng Buồm, Mã Mây, Hàng Chĩnh, Nguyễn Hữu Huân,
Lý Thái Tổ, Lê Thạch, Đinh Tiên Hoàng, Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường...
Đi đầu là đội múa rồng, sư tử, tiếp đến là đội cờ, trống chiêng, sinh tiền, đánh bồng,
bát âm; đội kiệu bát cống đền Bạch Mã với đầy đủ tàn, tán, lọng; đội tế nam quan
phường Hàng Buồm.
Đặc biệt, lần đầu tiên, lễ tiến Xuân Ngưu được phục dựng (dâng Trâu mùa
Xuân), một nghi thức quan trọng của lễ hội đền Bạch Mã từ xa xưa, với hình ảnh
mục đồng, mô hình trâu có kích thước bằng trâu thật, quan tri phủ và hai quan tri
huyện thành Thăng Long, cùng các lính hầu. Nghi lễ này có ý nghĩa tống tiễn mùa
Đông, đón nhận mùa Xuân, được hình thành từ thời Hậu Lê ở Thăng Long, vì thế,
nó vừa mang nghi thức cung đình, vừa có tính tín ngưỡng dân gian. Hình tượng trâu
trong Lễ tiến Xuân Ngưu được làm khung bằng tre, giấy bồi cứng bên ngoài, kích
thước bằng trâu thật. Đi cùng là Mục đồng (mang hình tượng thần Câu mang), quan
Tri phủ, cùng hai quan Tri huyện thành Thăng Long
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
12
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Ngoài các nghi thức truyền thống, lễ hội còn có chương trình biểu diễn nghệ
thuật dân tộc (chầu văn, ca trù, chèo, quan họ...), trình diễn võ thuật phục vụ nhân
dân tại sân khấu ngoài trời và trong phương đình đền Bạch Mã
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
13
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Một số hình ảnh lễ hội đền Bạch Mã:
Lễ rước thần Long Đỗ
Hát chầu văn Hát quan họ
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
14
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Lý ngựa ô Hát chầu văn
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
15
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
PHẦN II
BÀI LÀM CỦA CÁ NHÂN
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
16
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Tục thờ các vị thần nông nghiệp
Nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là vùng
bán sơn địa, sản xuất nông nghiệp là chính, các cư dân nông nghiệp Hà Nam cho đến
nay vẫn còn lưu giữ trong đời sống văn hoá tinh thần của mình nhiều hình thái tín
ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể nói, là tín ngưỡng thờ Tứ
Pháp.
Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ bốn vị thần tự nhiên có ảnh hưởng
quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào thiên
nhiên. Đó là bốn vị: thần Mưa (Pháp Vũ), thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm (Pháp
Lôi), thần Chớp (Pháp Điện). Truyền thuyết về việc xuất hiện tục tờ bốn vị thần này
được chép vào sách Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XIV) với tên Truyện Man Nương.
Truyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái Man Nương đến chùa
Phúc Nghiêm dốc lòng học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ tên là
Khâu Đà La.
Tình cờ một hôm, do nhà sư vô tình bước chân qua người Man Nương mà
nàng có mang. Nàng xấu hổ bỏ về quê. Đến khi sinh con, nàng mang đứa con gái ấy
đến trả nhà sư. Nhà sư mang đứa con đó gửi vào gốc cây trao cho Man Nương một
chiếc gậy và dặn khi nào hạn hán thì lấy gậy chọc vào đất để lấy nước cứu dân. Khi
Man Nương 80 tuổi, cây đa cổ thụ mang đứa con của bà bị đổ, trôi đến bến sông
Dâu. Bao nhiêu người cũng không kéo nổi cây lên bờ, chỉ có Man Nương động tay
vào thì cây di chuyển. Man Nương cho tạc cây thành 4 pho tượng Phật. Khâu Đà La
đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mang vào chùa thờ tự. Đứa con
bà gửi gốc cây nay đã hóa đá, rìu chạm vào bị mẻ hết, rước vào điện Phật để thờ thì
tảng đá phát hào quang rực rỡ. Người bốn phương tới đây cầu mưa, không lúc nào
không ứng nghiệm, bèn gọi Man Nương là Phật Mẫu. Ngày mùng 8 tháng 4, Man
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
17
Tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên
Nương tự nhiên hóa, nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm tới ngày
này, người bốn phương đến tụ tập ở chùa để vui chơi, tưởng nhớ đến Mẹ Phật.
Thoạt đầu, Tứ Pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy Lâu. Dần dần, do
tính chất linh ứng của nó mà lan dần ra nhiều vùng quê ở châu thổ Bắc bộ. Xét bản
chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh. Đây là
một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải đối mặt với muôn vàn
khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có linh hồn, người
nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần
đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối
với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn
đã ăn sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới
mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó
và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung hòa
với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó là nguyên nhân sâu xa
của cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín
ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn).
Kết quả của sự giao thoa văn hoá ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm
tính chất dân gian của người Việt mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian.
Người phụ nữ Việt Nam, người có công tái tạo một tôn giáo lớn trong những cơ
thể mới mang đậm tính bản địa, rất thiêng liêng, huyền bí mà rất gần gũi với cuộc
sống đời thường của người dân, được tôn làm Mẹ Phật. Đó là sự tôn vinh đối với
người có công tái tạo sinh thành một hình thức tôn giáo mới, tôn giáo của người dân
cầu mong mưa thuận gió hòa, phong đăng hòa cốc, tôn giáo của sự phát hiện ra sự
tương tác mật thiết giữa sự huyền bí của vũ trụ với cuộc sống đời thường. Đó là triết
lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống tâm linh của người dân Việt.
Dương Thị Hồng Thúy. K19-0588.Chuyên ngành Văn học dân gian
18