Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Thực trạng điều trị bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện y học cổ truyền vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.23 KB, 148 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) luôn là một thách thức của Y học,
một vấn đề thời sự cấp bách khi tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ tử vong, tỷ lệ di chứng
vừa và nặng còn khá cao. Tỷ lệ mới mắc ở Hoa Kỳ là 700.000-750.000, tử
vong 130.000 .
TBMMN là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ hai trên thế giới và là
nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế (48% liệt nửa người trong đó có 24-53%
phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn trong đời sống hàng ngày). Ngày nay với
sự ra đời của các đơn vị điều trị TBMMN cấp (Đơn vị đột quỵ não) và ứng
dụng nhiều thành tựu Y học tiến bộ mà tỷ lệ tử vong và di chứng đã giảm
đáng kể . Bên cạnh sự phát triển của Y học hiện đại (YHHĐ) với nhiều đột
phá trong việc tạo ra các chế phẩm dược sinh khả dụng cao, các công nghệ
cao trong việc rút ngắn thời gian chẩn đoán bệnh, các thiết bị tối tân trong quá
trình theo dõi, đều trị TBMMN ở giai đoạn cấp, chúng ta còn thấy những
thành tựu quan trọng của hai ngành Phục hồi chức năng (PHCN), Y học cổ
truyền (YHCT) trong cả giai đoạn cấp và giai đoạn phục hồi giúp bệnh nhân
trở lại hội nhập xã hội sau thời gian điều trị tại bệnh viện.
Theo xu hướng phát triển nền Y học của nhiều nước trong khu vực và
nhu cầu xã hội, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có một số quan điểm chỉ
đạo về việc Phát triển nền đông y Việt Nam, theo đó, quan điểm số 4 đã chỉ ra
nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa đông y và tây y trên tất cả các khâu: tổ chức,
đào tạo, kế thừa, nghiên cứu, áp dụng vào phòng bệnh và khám, chữa bệnh,
nuôi trồng dược liệu, bảo tồn các cây, con quý hiếm làm thuốc, sản xuất
thuốc; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đông y . Bệnh viện YHCT Vĩnh Phúc
đã từng bước thực hiện chỉ thị này từ năm 2008 đến nay và đã thu được nhiều
kết quả đáng kể. Nói đến những kết quả này phải kể đến việc số lượng bệnh


2



nhân đến viện khám và điều trị ngày càng tăng đi cùng với chất lượng khám
chữa bệnh ngày càng tốt hơn qua các năm.
Theo kết quả của đề tài nghiên cứu cấp cơ sở của Bệnh viện, trong 5
năm từ 2007 – 2011 có gần 20% bệnh nhân đến viện điều trị với bệnh lý
chính là tim mạch, trong đó gần 75% là bệnh nhân TBMMN và di chứng
TBMMN . Trước tình hình đó, Bệnh viện YHCT Vĩnh Phúc đã từng bước đầu
tư cả về vật chất và con người nhằm phục vụ cho việc nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn, đồng thời chú ý nâng cao kỹ năng
hồi sức cấp cứu nói chung và bệnh lý tim mạch nói riêng cho cán bộ (CB)
công nhân viên trong bệnh viện bằng nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh
đó, Bệnh viện cũng chú trọng đến việc phối hợp nhiều phương pháp PHCN
cho bệnh nhân TBMMN sau giai đoạn cấp, hạn chế các thương tật thứ cấp,
giúp bệnh nhân hòa nhập xã hội tốt hơn. Nhờ đó Bệnh viện đã mở rộng thêm
được phạm vi điều trị của mình, từ chỉ PHCN cho các bệnh nhân (BN)
TBMMN giai đoạn phục hồi, sang điều trị cả giai đoạn cấp.
Dù vậy, cho đến hiện nay chưa có một đề tài, nghiên cứu nào tại Bệnh
viện đưa ra được nhận định mang tính hệ thống, bao quát về tình hình điều trị
bệnh nhân TBMMN, do vậy đề tài: “Thực trạng điều trị bệnh nhân tai
biến mạch máu não tại Bệnh viện Y học cổ truyền Vĩnh Phúc’’ được tiến
hành với hai mục tiêu sau:
1-

Mô tả thực trạng điều trị bệnh nhân TBMMN dưới 03 tháng tại
Bệnh viện YHCT Vĩnh Phúc giai đoạn từ 03/ 2012 – 03/ 2015.

2-

Mô tả một số thuận lợi và khó khăn trong điều trị bệnh nhân tai biến
mạch máu não dưới 03 tháng tại các khoa điều trị của bệnh viện Y

học cổ truyền Vĩnh Phúc.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Tai biến mạch máu não theo quan điểm của YHHĐ.
TBMMN được định nghĩa là tình trạng tổn thương chức năng thần kinh
xảy ra đột ngột do nguyên nhân mạch máu não (thường tắc hay vỡ động mạch
não). Các tổn thương thần kinh thường khu trú hơn là lan tỏa, tồn tại quá 24
giờ, hoặc diễn biến nặng có thể tử vong trong vòng 24 giờ .
Trên lâm sàng được chia thành 2 thể chính là: nhồi máu não hay thiếu
máu não cục bộ (chiếm 80%) và chảy máu não (xuất huyết não) , .
1.1.1. Xuất huyết não
Chảy máu não là hiện tượng chảy máu vào trong nhu mô não đột ngột
và cấp tính. Chảy máu não có tỷ lệ 10-30% của TBMMN chung và là nguyên
nhân đưa đến tàn phế hay tử vong trong vòng 6 tháng với tỷ lệ 30-50% .
- Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của xuất huyết não:
Chảy máu não tự phát thường xuất hiện ưu thế tại các phần sâu của bán
cầu đại não, vị trí chảy máu tại nhân đậu chiếm khoảng 35-50% các trường
hợp. Chảy máu não gần như hầu hết bắt nguồn từ những phình mạch, các
phình mạch này chủ yếu thấy tại các động mạch xuyên, chúng là tận cùng của
các động mạch nền não, thân não, tiểu não sau dưới và tiểu não trước trên.
Thành mạch suy yếu tạo nên những phình mạch. Tăng huyết áp là yếu tố
thuận lợi cho sự vỡ thành động mạch, và hậu quả là máu tràn vào tổ chức não.
Quá trình chảy máu thường xảy ra trong 6 giờ đầu. Những khối máu
nhỏ thường tách theo các nếp gấp, làm căng các sợi trục, sau này khi chúng bị
ly giải sẽ để lại một hốc, các tổ chức bị chèn ép sẽ có cơ may hồi phục một
phần, như vậy mức độ di chứng đã giảm thiểu nhiều so với triệu chứng lâm

sàng của những ngày đầu và tuần đầu. Những khối máu lớn trên 5cm đưa đến


4

các triệu chứng lâm sàng trầm trọng, thậm chí tùy vào vị trí của khối máu có
thể gây nên tụt não: tụt thùy đảo qua liềm đại não, hồi hải mã thùy thái dương
chèn vào cuống não, hoặc hạnh nhân tiểu não qua lỗ chẩm .
1.1.2. Nhồi máu não
Thiếu máu não cục bộ là hậu quả của sự giảm lưu lượng máu hoặc đình
chỉ sự lưu thông của một hoặc nhiều động mạch mà chúng tưới máu, nuôi
dưỡng vùng nào đó của não, nói cách khác là nhồi máu não .
1.1.2.1. Nguyên nhân:
Nguyên nhân tại mạch máu não như xơ vữa thành mạch, làm hẹp động
mạch, viêm động mạch nhất là động mạch nhỏ.
Nguyên nhân từ nơi khác như một mảng xơ vữa, một huyết khối di
chuyển tới một nhánh động mạch có đường kính bằng đường kính cục huyết
khối và làm mạch bị lấp .
1.1.2.2.Cơ chế bệnh sinh của nhồi máu não:
Lưu lượng máu não bình thường 55ml /100g não/ phút. Khi bị tai biến
thiếu máu cục bộ ổ nhồi máu phân biệt hai vùng rõ ràng :
+ Vùng trung tâm lưu lượng máu 10 - 15ml /100g não /phút. Các tế bào
vùng này chết không cứu vãn được gọi là vùng hoại tử.
+ Vùng ngoại vi, lưu lượng máu 23 - 30ml /100g não /phút, các tế bào
não không chết nhưng không hoạt động gọi là vùng tranh tối tranh sáng .
Vùng tranh tối tranh sáng còn được gọi là vùng nửa tối. Vùng này nếu
được tưới bù do tuần hoàn bằng hệ mạch hoặc nhờ thuốc giúp hấp thụ oxy,
vùng này hồi phục, vì vậy gọi là vùng điều trị. Thời gian tồn tại vùng nửa tối
gọi là cửa sổ điều trị, thường là 3 - 72 giờ, quá thời gian đó các tế bào chuyển
sang hoại tử, vì vậy phải điều trị càng sớm càng tốt, “thời gian là não – time is

brain”. Vùng nửa tối tồn tại được nhờ các yếu tố tăng trưởng thần kinh (FGF,
TGF, IGF). Nhiều khuyến cáo khuyên nên dùng các yếu tố tăng trưởng thần


5

kinh ngay giờ phút đầu tại nhà hoặc trên xe cấp cứu với hy vọng ké dài cửa sổ
điều trị chờ điều kiện thuận lợi để tế bào não hồi phục .
Vùng nửa tối phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế tự điều hòa lưu lượng máu
não. Lưu lượng này không phụ thuộc vào cung lượng tim nếu huyết áp trung
bình ở giữa các ngưỡng 90 – 150mmHg. Nếu huyết áp hệ thống thấp, máu lên
não ít thì các mạch não nhỏ tự giãn ra để giữ lưu lượng máu não ở mức ổn
định, ngược lại huyết áp hệ thống cao máu lên não nhiều thì các mạch nhỏ
não tự co lại không cho máu lên nhiều. Vùng nửa tối bị mất cơ chế tự điều
hòa máu não, lưu lượng máu não sẽ biến đổi theo cung lượng tim, tức là theo
huyết áp hệ thống. Nếu thấp sẽ gây hoại tử vùng nửa tối và nếu cao quá
ngưỡng sẽ gây phù não và chảy máu vùng nửa tối. Theo các khuyến cáo,
trong chảy máu não nếu huyết áp tăng cao phải cho hạ áp ngay nhưng hạ từ từ
15% mỗi ngày và giữ mức cao hợp lý khoảng 160-170/90-100 mmHg để
tránh gây giảm tưới máu não. Trong thiếu máu não cục bộ chỉ cho thuốc hạ áp
khi huyết áp trên 220/120 mmHg và giữ ở mức cao hợp lý .
1.1.2.3. Lâm sàng:
- Nhồi máu não lớn và toàn bộ bán cầu: thường xảy ra khi ổ nhồi máu
não trên 75% diện tích của khu vực cấp máu của động mạch não giữa, động
mạch não giữa và động mạch não trước hoặc toàn bộ ba khu vực động mạch
phối hợp với nhau . Thường do huyết khối động mạch não và tắc mạch não có
nguồn gốc từ tim và từ động mạch. Lâm sàng có rối loạn ý thức ở khoảng
30% trường hợp, liệt nửa người, rối loạn cảm giác nửa người, rối loạn thị
giác, quay mắt quay đầu nhìn về bên tổn thương, thất ngôn nếu tổn thương
bán cầu ưu thế .

- Nhồi máu ổ khuyết: là những ổ nhồi máu nhỏ (kích thước nhỏ hơn
15mm) nằm sâu do bệnh mạch máu nguyên phát ở nhánh xuyên của các động
mạch lớn . Do tắc những nhánh xuyên nhỏ gây ra ổ nhồi máu nhỏ và khu trú,


6

khi mô não hoại tử được lấy đi thì còn lại một xoang nhỏ. Có sự kết hợp giữa
hội chứng ổ khuyết và tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, đái tháo đường . Tùy
vị trí tổn thương mà có những đặc điểm lâm sàng khác nhau: hội chứng liệt
nửa người đơn thuần, hội chứng rối loạn cảm giác nửa người đơn thuần, hội
chứng rối loạn cảm giác - vận động, hội chứng rối loạn vận động - bàn tay
vụng về….
- Nhồi máu vùng phân thùy: giảm lưu lượng máu tới não gây tổn
thương ở giữa vùng phân bố của động mạch. Triệu chứng lâm sàng: bệnh
nhân thường vã mồ hôi, choáng váng, mờ mắt. Nhồi máu vùng ranh giới
giữa động mạch não giữa và động mạch não sau gây bán manh. Nếu tổn
thương bên bán cầu trội có rối loạn ngôn ngữ, mất chú ý nửa bên thân
người .
- Nhồi máu não chảy máu: là sự xuất hiện ổ nhồi máu não do thiếu
máu cục bộ, trong đó có một vùng chảy máu tồn tại trong tổ chức não đã bị
hoại tử. Thời gian hình thành chảy máu trong ổ nhồi máu thường khó xác
định một cách chính xác, thường là từ 48h sau khi xảy ra TBMMN. Theo nhiều
tác giả chụp cắt lớp vi tính (CLVT) liên tục trong 4 tuần liên tục thì nhồi máu
não chảy máu xảy ra là 10% (24 giờ), 39% (7 ngày) và 54% (14 ngày). Trong
trường hợp này thái độ xử trí phải xem như là chảy máu não .
1.1.3. Những yếu tố nguy cơ của TBMMN
Các yếu tố nguy cơ được chia thành hai nhóm: Nhóm không thay đổi
được và nhóm có thể thay đổi được ,.
1.1.3.1.Nhóm không thay đổi được:

Tuổi, giới, chủng tộc, di truyền, địa lý. Có thể coi tuổi, giới, tiền sử gia
đình là những yếu tố nhận dạng khá quan trọng mặc dù không thay đổi được
nhưng nó giúp chúng ta tầm soát tích cực hơn các yếu tố nguy cơ khác. Nhiều
nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến kết luận TBMMN tăng theo tuổi và
tăng vọt lên từ lứa tuổi 50 trở đi. Nam giới bị TBMMN nhiều hơn nữ từ 1,5 đến
2 lần .


7

1.1.3.2.Nhóm có thể thay đổi được:
Tăng huyết áp: Tăng huyết áp là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh
sinh của TBMMN. Tăng huyết áp tâm thu, tâm trương hay cả tâm thu lẫn tâm
trương là YTNC độc lập gây ra tất cả các loại TBMMN. Khi huyết áp tâm thu
(HAtt) từ 160mmHg trở lên và/hoặc huyết áp tâm trương (HAttr) từ 95mmHg
trở lên, tỷ lệ TBMN ở người tăng huyết áp so với những người huyết áp bình
thường sẽ tăng từ 2,9 lần (đối với nữ) đến 3,1 lần (đối với nam) , .
Rối loạn lipid máu: lipid trong huyết tương tồn tại dưới dạng kết hợp
với apoprotein và được chia làm ba loại: lipoprotein trọng lượng phân tử thấp
(LDL – Cholesterol) chiếm 40 đến 50% các loại lipoprotein tham gia vào cơ
chế gây dày lớp áo trong của thành mạch; lipoprotein trọng lượng phân tử cao
(HDL – Cholesterol) chiếm 17 đến 23% các loại lipoprotein có tác dụng bảo
vệ thành mạch; triglycerid chiếm 8 đến 12% các lipoprotein và cũng tham gia
vào cơ chế tạo mảng xơ vữa mạch. Mức độ HDL thấp (dưới 0,9mmol/l), mức
độ cao của Triglycerid (trên 2,3mmol/l) cộng với sự tăng huyết áp sẽ gia tăng
gấp đôi nguy cơ TBMMN .
Béo phì: là một yếu tố không trực tiếp gây TBMMN mà thông qua
các bệnh tim mạch. Có sự liên quan rất rõ rệt giữa béo phì, tăng huyết áp và
sự đề kháng Insulin.
Các bệnh lý tim: Rung nhĩ không có bệnh lý van tim, nhồi máu cơ tim

cấp, phì đại thất trái, bệnh tim do thấp, các tai biến do van tim giả là nguyên
nhân chủ yếu gây tắc mạch não từ tim. Tần suất và tính phổ biến của rung nhĩ
tăng theo tuổi, với mỗi khoảng mười năm liên tục sau 55 tuổi tỷ lệ rung nhĩ
tăng gấp đôi , .
Đái tháo đường: là yếu tố nguy cơ gây ra tất cả các thể TBMMN .
Hút thuốc lá: Hút thuốc lá trực tiếp hay thụ động đều làm tăng nguy cơ
bệnh lý tim mạch và nhất là tùy thuộc số lượng hút kết hợp thời gian hút.


8

Nguy cơ tương đối của TBMMN ở người hút thuốc lá nhiều (trên 40 điếu/
ngày) gấp hai lần ở người hút thuốc lá ít (dưới 10 điếu/ ngày) .
Rượu: liều nhỏ hàng ngày làm giảm co tim và giãn mạch nên làm huyết
áp giảm nhẹ và tăng áp bù nên làm giảm nguy cơ chết do tim mạch. Lạm
dụng rượu (56 đến 70g rượu hàng ngày hoặc say quá chén) sẽ làm tăng áp lực
máu, tăng kết tập tiểu cầu, tăng đông máu, tăng mức triglycerid, cơn rung nhĩ
kịch phát, bệnh cơ tim và liên quan đến sự gia tăng của nguy cơ TBMMN
(đặc biệt là thể chảy máu não) .
Tiền sử bị tai biến thoáng qua: Cơn thiếu máu não thoáng qua là tình
trạng rối loạn chức năng não bộ khu trú hay chức năng thị giác có đặc điểm
đột ngột, có nguồn gốc thiếu máu não cục bộ. Cơn kéo dài không quá 24
giờ và không để lại di chứng. Nguy cơ xảy ra TBMMN sau cơn thiếu máu
thoáng qua là 10% trong năm đầu tiên; sau đó trong năm năm tiếp theo,
mỗi năm có tỷ lệ 5% .
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác cũng được xếp vào nhóm này như
tình trạng kháng insulin, sử dụng thuốc ngừa thai, lạm dụng thuốc và dùng
thuốc gây nghiện, ít vận động thể lực, bệnh tế bào hình liềm, tăng acid uric
máu, nhiễm khuẩn, yếu tố tâm lý, tăng homocystein máu, các yếu tố đông
máu, hẹp động mạch cảnh chưa có triệu chứng , , .

1.1.4. Xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh
1.1.4.1.Các xét nghiệm cơ bản:
- Công thức máu: Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, số lượng tiểu
cầu .
- Sinh hóa máu: định lượng glucose, ure, creatinin, điện giải đồ,
cholesterol, triglycerid, cholesterol – LDL, cholesterol – HDL, đông máu cơ
bản nhằm xác định yếu tố nguy cơ, bệnh lý kèm theo, định hướng điều trị , , .


9

- Một số xét nghiệm khác chỉ định thêm tùy thuộc vào từng bệnh nhân:
xét nghiệm nước tiểu thường quy, nước tiểu 24h,....
1.1.4.2. Chẩn đoán hình ảnh.
- Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) sọ não để khẳng định loại tai biến,vị trí
và độ lớn của tổn thương , . Chụp CLVT nên được thực hiện nhanh chóng vì
giúp phân biệt một cách chính xác nhồi máu não và xuất huyết não. Trên thực
tế chụp CLVT sọ não cho kết quả âm tính xấp xỉ một phần ba số trường hợp
TBMMN đã được chẩn đoán lâm sàng , .
- Chụp cộng hưởng từ sọ não có độ nhạy cao hơn chụp CLVT sọ não.
Hình ảnh xuất huyết não là hình ảnh tăng tín hiệu thì T1 ,.
- Chụp X quang: chụp X quang tim phổi để tìm các bệnh lý ở phổi, phế
quản khi có chỉ định .
- Ghi điện tim, xét nghiệm men tim và siêu âm tim mạch: để phát
hiện bệnh lý van tim, cơ tim, huyết khối trong các buồng tim, rối loạn nhịp
tim , .
- Siêu âm ổ bụng tổng quát.
• Một số xét nghiệm khác:
- Chọc dò dịch não - tuỷ: giúp chẩn đoán phân biệt giữa nhồi máu não
và chảy máu trong sọ. NMN có dịch não - tủy trong, các thành phần dịch não

- tủy không thay đổi .
- Ghi điện não: thường thấy hoạt động điện não giảm, nhưng những
thay đổi này không đặc hiệu .
- Chụp động mạch não: chụp động mạch số hoá xoá nền cho hình ảnh
động mạch não rõ nét, phát hiện được tắc, hẹp mạch máu, phình mạch, dị
dạng mạch, co thắt mạch não .
- Siêu âm Doppler: để phát hiện dấu hiệu tắc, hẹp hệ động mạch cảnh
trong và ngoài sọ .


10

1.1.5. Chẩn đoán TBMMN
1.1.5.1. Nhồi máu não
+ Tiền sử: thiếu máu não thoáng qua, các yếu tố nguy cơ (tăng huyết
áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, bệnh lý tim mạch)
+ Tính chất xuất hiện: các triệu chứng, dấu hiệu thần kinh khu trú xuất
hiện đột ngột từ vài phút, vài giờ, tối đa có thể vài ngày. Các triệu chứng có
thể tăng dần đến ngày thứ 3-4 sau đó giảm dần.
+ Triệu chứng thần kinh khu trú: biểu hiện thiếu sót chức năng vùng
não bị tổn thương. Liệt nửa người, có thể kèm theo rối loạn cảm giác, thất
ngôn, bán manh, chóng mặt, liệt các dây thần kinh sọ não, hội chứng giao
bên…
+ Rối loạn ý thức: thường không có hoặc nhẹ, rối loạn ý thức nặng nếu
tổn thương diện rộng, có thể kèm rối loạn tâm thần trong những ngày đầu, đặc
biệt ở bệnh nhân trên 65 tuổi.
+ Cơn động kinh: cục bộ hoặc toàn thể (5% các trường hợp)
+ Chụp cắt lớp vi tính: hình ảnh vùng giảm tỷ trọng ở nhu mô não
thuộc khu vực động mạch bị tổn thương chi phối .
1.1.5.2. Xuất huyết não

+ Khởi phát: thường đột ngột, đau đầu dữ dội, nôn, rối loạn ý thức (có
thể hôn mê).
+ Các triệu chứng thần kinh khu trú: xuất hiện nhanh, rầm rộ như liệt
nửa người, liệt dây thần kinh sọ não,…
+ Cơn động kinh cục bộ hoặc toàn thể (chiếm 10-20% các trường hợp)
+ Hội chứng màng não: có thể có nếu kèm xuất huyết màng não.
+ Hội chứng tăng áp lực nội sọ: nếu ổ xuất huyết lớn.
+ Chụp cắt lớp vi tính: hình ảnh ổ tăng tỷ trọng ở nhu mô não thuộc
khu vực của động mạch bị tổn thương chi phối .


11

1.1.6. Phân chia giai đoạn TBMMN
TBMMN để lại di chứng thường gặp nhất là liệt nửa người với các mức
độ khác nhau. Liệt nửa người có thể diễn biến qua các giai đoạn: cấp tính, hồi
phục và giai đoạn di chứng .
- TBMMN giai đoạn cấp tính: giai đoạn này BN còn có các yếu tố
nguy cơ như: tăng huyết áp, đái tháo đường, các bệnh tim mạch như hẹp van
hai lá, xơ vữa động mạch, suy tim,… thay đổi về tri giác, nhận thức: hôn mê ở
các mức độ khác nhau: lú lẫn, mất định hướng, giảm tập trung chú ý, rối loạn
trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy, cảm xúc và mất thực dụng,… khiếm khuyết vận
động: liệt nửa người, liệt các dây thần kinh sọ não,… các rối loạn giác quan:
rối loạn cảm giác nông, sâu, thường được hồi phục hoàn toàn trong 2 tháng
đầu; các hậu quả của bất động: các thương tật thứ cấp như loét do đè áp, teo
cơ, cứng khớp, bội nhiễm phổi hoặc tiết niệu,….
- TBMMN giai đoạn hồi phục: Ở giai đoạn này các triệu chứng ở giai
đoạn cấp tính đã ổn định. Tri giác nhận thức được cải thiện nhờ đó mà các
hoạt động ăn uống, bài tiết, hô hấp đươc kiểm soát, giảm bớt các nguy cơ
thương tật thứ cấp. Khiếm khuyết vận động đặc trưng bởi liệt mềm chuyển

sang liệt cứng với mẫu co cứng điển hình và “cử động khối”. Hội chứng vai
tay và hiện tượng đau khớp vai bên liệt còn được gọi là phản xạ loạn dưỡng
giao cảm: khớp vai sưng, đau, co rút, hạn chế vận động, đau lan xuống các
khớp còn lại của chi. Các hoạt động chức năng: BN thường di chuyển bằng xe
lăn, có thể tự lăn trở, ngồi dậy; các hoạt động tự chăm sóc ở tay liệt phục hồi
chậm hơn, chủ yếu nhờ tay lành. Rối loạn ngôn ngữ và lời nói, phổ biến nhất
là thất ngôn ở 1 trong 4 hình thái ngôn ngữ: nghe hiểu, nói, đọc và viết .
- TBMMN giai đoạn di chứng: Quá trình hồi phục diễn ra chậm dần,
sau 6 tháng bị tai biến khả năng hồi phục rất hạn chế. Nói đến các di chứng
sau tai biến là nói tới giai đoạn này. Tuy nhiên, những rối loạn nhận thức và
ngôn ngữ vẫn tiếp tục được cải thiện hàng năm sau khi bị bệnh. Theo thống


12

kê của khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai, thời gian trung bình từ
khi bị tai biến tới khi BN đi được là 30 ngày. Những vấn đề chính BN có thể
gặp phải trong giai đoạn này là: co cứng và co rút các khớp bên liệt, rối loạn
thăng bằng và điều hợp, hạn chế về giao tiếp, trầm cảm .
1.1.7. Điều trị TBMMN
Điều trị TBMMN phải đạt được mục đích “Hạn chế tàn phế mà không
tăng tỷ lệ tử vong” theo phương châm phát hiện sớm các YTNC, điều trị dự
phòng là căn bản .
1.1.7.1.Nguyên tắc điều trị:
Điều trị TBMMN nhằm mục đích phòng các biến chứng, khôi phục tổn
thương cấp tính của nhu mô não và phòng đột quỵ tái phát :
- Phòng biến chứng: chống phù não; kiểm soát huyết áp động mạch;
phòng huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc động mạch phổi; phòng viêm phổi do
sặc hoặc trào ngược; kiểm soát đường máu; kiểm soát thân nhiệt; theo dõi và
chăm sóc; phẫu thuật mở hộp sọ hoặc dẫn lưu não thất giảm áp lực nội sọ (khi

cần); điều trị nguyên nhân và yếu tố nguy cơ.
- Khôi phục các tổn thương nhu mô não cấp tính: các thuốc tiêu sợi
huyết; thuốc chống đông heparin; thuốc chống ngưng tập tiểu cầu aspirin;
thuốc bảo vệ tế bào thần kinh.
- Phòng tái phát TBMMN: là kiểm soát tốt các yếu tô nguy cơ.
1.1.7.2. Một số thuốc điều trị TBMMN
Để điều trị và dự phòng các cơn TBMMN, ngoài việc điều trị nguyên
nhân (tăng huyết áp, các bệnh lý tim mạch, đái tháo đường, rối loạn lipid máu,
…) các thuốc thường được dùng phải nhằm vào các mục tiêu sau :
- Khôi phục lại tuần hoàn của vùng não bị tổn thương:
+ Cải thiện lưu huyết não.
+ Cải thiện việc cung cấp máu cho vùng thiếu máu.


13

- Khôi phục, bảo vệ chức năng tế bào thần kinh và dự phòng các cơn tái nhiễm:
+ Thuốc chống kết dính tiểu cầu.
+ Thuốc bảo vệ tế bào thần kinh.
+ Phục hồi và tái tạo vùng não tổn thương.
a. Thuốc giãn mạch.
Để duy trì cung cấp máu cho vùng tổn thương quanh ổ nhồi máu,
những nghiên cứu đã không thuyết phục được rằng điều trị bằng thuốc giãn
mạch hạ áp sớm là cần thiết và có lợi. Vì vậy trong vòng 24-48 giờ sau cơn
thiếu máu cấp chỉ khi huyết áp tăng hơn 220/120 mmHg mới cần dùng thuốc
giãn mạch.
Các thuốc giãn mạch hạ huyết áp thường dùng trong TBMMN là:
Nimodipin (Nimotop), Flunarizin (Sibelium), Naftidrofuryl (Praxilen),
Buflomedil (Fonzylan) .
b. Thuốc làm tiêu Fibrin và tan huyết khối t-PA.

Chất hoạt hóa plasminogen của mô (tissue plasminogen activator, t-PA)
được giải phóng ra từ tế bào nội mô, có tác dụng chuyển plasminogen không
có hoạt tính thành plasmin.
Chế phẩm của t-PA là Alteplase (t-PA tái tổ hợp – recombinant t-PA)
chỉ dùng tiêm tĩnh mạch trong khoảng thời gian 3 giờ sau tai biến. Do vậy
trong thực hành lâm sàng bệnh nhân được điều trị bằng rt-PA rất hạn chế .
c. Thuốc chống đông máu.
Heparin trọng lượng phân tử thấp (Low molecular weight heparin LMWH) chỉ gắn được kháng thrombin, tác dụng chủ yếu là ức chế yếu tố X
hoạt hóa. LMWH dùng dự phòng viêm tắc tĩnh mạch, nghẽn mạch. Cho đến
nay các chế phẩm của LMWH đang được thử nghiệm đánh giá trên lâm sàng,
tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy trên điều trị TBMMN chưa thuyết
phục, chưa hơn aspirin. Ở Việt Nam hiện nay chưa dùng thuốc này trong điều
trị TBMMN .


14

d. Thuốc chống kết dính tiểu cầu.
Aspirin: liều thấp từ 50-325 mg/ngày có tác dụng chống kết dính tiểu
cầu do ức chế thromboxan synthetase, làm giảm tổng hợp thromboxan A2 của
tiểu cầu nên có tác dụng chống ngưng kết.
Ticlopidin (Ticlid): được coi như một tiền thuốc vì không có tác dụng in
vitro. Thuốc có tác dụng sau 2 ngày dùng thuốc và đạt tối đa sau từ 5 – 8 ngày.
Clopidogrel (Plavix): Trên màng tiểu cầu có các thụ thể gắn ADP,
clopidogrel ức chế không hồi phục và chọn lọc sự gắn ADP vào thụ thể tiểu
cầu nên ngăn cản được kết tập tiểu cầu trong suốt cả đời sống của tiểu cầu.
Triflusal (Disgren): thuốc ức chế chọn lọc thromboxan synthetase nên
làm giảm tổng hợp thromboxan A2 của tiểu cầu. Ngoài ra, thuốc còn ức chế
phosphodiesterase nên ngăn cản giáng hóa AMP vòng thành 5’AMP, do đó
cản trở sự huy động Ca2+, cản trở kết dính tiểu cầu.

Pentoxifylin (Torental): Thuốc cải thiện được dòng máu tới vùng tổn
thương thiếu máu do điều chỉnh được sự biến dạng bệnh lý của hồng cầu, ức
chế kết dính tiểu cầu và làm giảm được độ nhớt máu đã bị tăng. Do đó được
chỉ định rộng rãi cho các trường hợp viêm tắc, co thắt động mạch ngoại vi, rối
loạn tuần hoàn não .
e. Thuốc bảo vệ thần kinh.
Là những thuốc ngăn cản các quá trình sinh chuyển hóa bất thường
trong tế bào thần kinh xảy ra khi bị tổn thương hoặc sau thiếu máu, có khả
năng cải thiện tổn thương não ở bệnh nhân thiếu máu não cấp .
Lubeluzol (dẫn xuất của benzothiazol): thiếu máu não làm giải phóng
nhiều chất dẫn truyền thần kinh kích thích, đặc biệt là glutamat, trong khi sự
tái thu hồi chất này bị giảm. Lubeluzol ức chế giải phóng glutamat, ức chế
tổng hợp oxyd nitric (NO) và chẹn kênh Na +, Ca2+, là những tác nhân làm
nặng thêm tổn thương tế bào gây chết tế bào thần kinh.


15

Citicolin (Cytidin 5’-diphosphocholin hay CDP-cholin): là chất điều
biến màng tế bào thần kinh. Có tác dụng hoạt hóa sinh tổng hợp phospholipid
cấu trúc màng tế bào thần kinh, tăng chuyển hóa ở não. Ngoài ra còn khôi
phục hoạt tính của ATPase ty thể và Na+/K+-ATPase màng tế bào thần kinh, ức
chế sự hoạt hóa phospholipase A2 và thúc đẩy tái hấp thu dịch phù não. Do
vậy, citicolin được coi như một chất bảo vệ thần kinh trong tình trạng thiếu
máu, thiếu oxy, cải thiện trí nhớ và sự học tập .
Edaravon (3-methyl-1-phenyl-2-pyrazolin-5-one): là một thuốc mới có
tác dụng bẫy gốc tự do mạnh đang được dùng để làm giảm tổn thương thần
kinh do tai biến mạch máu não. Trong tổn thương thiếu máu não, quá trình
oxy hóa khử bị rối loạn làm phát sinh nhiều gốc tự do, các gốc này gây tổn
thương màng tế bào. Edaravon có tác dụng ức chế tổn thương nội mạc mạch

và cải thiện được tổn thương tế bào thần kinh trong thiếu máu não .
Cerebrolysin: có tác dụng bảo vệ thần kinh, có nguồn gốc từ não lợn,
được sản xuất bằng kỹ thuật sinh học, gồm các peptid trọng lượng phân tử
thấp và các acid amin, thuốc không chứa protein, lipid và không mang tính
kháng nguyên. Tác dụng của cerebrolysin là kích thích dinh dưỡng tế bào thần
kinh giống như các yếu tố dinh dưỡng tế bào thần kinh thiên nhiên (NGF),
điều hòa chuyển hóa của tế bào thần kinh sau chấn thương thiếu máu. Sau cơn
TBMMN có thể dùng liều 10-30ml/ngày, thời gian cho mỗi đợt điều trị là 3-4
tuần. Có thể nhắc lại sau 4-6 tháng .
Yếu tố phát triển: Các yếu tố phát triển có tác dụng dự phòng và điều
trị cơn thiếu máu não cấp. Có thể kể ra là yếu tố phát triển bạch cầu hạt
(granulocyte colony stimulating factor / G-CSF), yếu tố phát triển tế bào sợi
(basic fibroblast growth factor / bFGF) và erythropoietin (EPO) .


16

f. Phục hồi và tái tạo vùng não tổn thương.
Vinpocetin (Cavinton): là dẫn xuất tổng hợp của cây Vinca minor.
Cavinton có khả năng cải thiện vi tuần hoàn do tác dụng ức chế sự kết dính
tiểu cầu trong lòng mạch, làm màng hồng cầu trở nên mềm mại hơn, tăng khả
năng biến dạng có hồi phục của màng hồng cầu, hồng cầu dễ luồn lách trong
các mao mạch có đường kính nhỏ. Vinpocetin còn làm tăng lưu lượng máu
đến não do làm giảm sức cản thành mạch của động mạch cảnh trong và động
mạch đốt sống nền, nhưng chỉ xảy ra ở thành mạch vùng bị tổn thương, rất ít
tác dụng ở vùng lành. Vinpocetin còn làm tăng khả năng vận chuyển và cung
cấp oxy của hemoglobin cho mô, đặc biệt là mô não .
Piracetam (Nootropyl): là một thuốc hướng thần nhưng không có tác
dụng an thần hoặc kích thần. Thuốc có tác dụng trực tiếp lên não làm cải thiện
chức năng não cả ở người bình thường và người có suy giảm chức năng.

Thuốc làm màng hồng cầu mềm dẻo hơn do đó cải thiện được vi tuần hoàn.
Làm tăng sự thu nhận oxy và glucose ở mô não bị tổn thương do co thắt
mạch trong nhồi máu não .
Cao Ginkgo biloba (Cebrex - Tanakan): Cao chiết xuất từ lá cây
Ginkgo biloba. Thuốc có tác dụng làm giảm kết dính tiểu cầu, giảm tính thấm
nội mạc, giảm co thắt phế quản và đáp ứng viêm; ngăn cản được tổn thương
phospholipid màng tế bào; bình thường hóa sự chuyển hóa của não trong điều
kiện thiếu máu do làm tăng tiêu thụ glucose và hạn chế sự mất cân bằng điện
giải; cải thiện được trí nhớ và tăng tính linh hoạt, tư duy .
Raubasin (Duxil): là hỗn hợp của almitrin và raubasin, có tác dụng
chống thiếu oxy cho não do làm tăng áp lực riêng phần của oxy trong máu
động mạch (PaO2), tăng độ bão hòa oxy trong máu động mạch (SaO 2), làm
tăng chuyển hóa của mô não. Không dùng cùng với IMAO .


17

1.1.7.3.Phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN
Bệnh nhân TBMMN thuộc loại đa tàn tật vì ngoài giảm khả năng vận
động bệnh nhân còn có nhiều rối loạn khác kèm theo như rối loạn về ngôn
ngữ, thị giác, cảm giác, nhận thức .
Theo Swenson (1984) đề xuất: bệnh nhân thiếu máu não cục bộ không
hoàn toàn nên bắt đầu tập vận động sau 2 - 3 ngày; bệnh nhân chảy máu não
có thể tập sau ngày thứ 14 .
Mục tiêu phục hồi chức năng:
- Độc lập tối đa trong các sinh hoạt bản thân hàng ngày như: ăn uống,
tắm rửa, thay quần áo, đại tiện, di chuyển trong nhà,…
- Hoạt động trợ giúp những việc làm từ đơn giản đến phức tạp với khả
năng tối đa như: chăm sóc gia đình, vệ sinh, nấu ăn, giao tiếp,…
- Hoạt động xã hội: lao động hữu ích, văn hóa thể thao, học tập, và cao

hơn là trở lại nghề nghiệp cũ .
a. Phục hồi chức năng giai đoạn cấp tính: Ngoài các mục tiêu chăm
sóc, nuôi dưỡng, theo dõi và kiểm soát chức năng sống, kiểm soát các yếu tố
nguy cơ, phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMMN ở giai đoạn này nhằm 2
mục tiêu chính là :
- Đề phòng các thương tật thứ cấp: tổn thương do nhiễm trùng phổi,
nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm trùng da; loét do đè ép; teo cơ, co rút cơ…
- Nhanh chóng đưa người bệnh ra khỏi trạng thái bất động tại giường.
Các hoạt động được tiến hành bao gồm: cho ăn đúng cách tránh nghẹn,
sặc; lăn trở 2h/lần; tư thế bệnh nhân nằm hướng bên liệt ra ngoài để tăng khả
năng nhận kích thích, dùng gối kê vai, hông bên liệt, hướng dẫn người nhà
bệnh nhân tư thế đúng tránh loét do đè ép; tập theo tầm vận động của các
khớp, tự tập phối hợp bên lành - bên liệt (tập làm cầu, cài hai tay gấp vai lên
1800,…); cho bệnh nhân ngồi dậy tại giường ngay khi có thể .


18

b. Phục hồi chức năng giai đoạn phục hồi: Ở giai đoạn này việc phục
hồi chức năng mang tính toàn diện, nhằm tác động lên toàn bộ những khiếm
khuyết, giảm khả năng của người bệnh sớm cho họ độc lập .
Mục tiêu:
- Duy trì tình trạng sức khỏe ổn định, tạo điều kiện cho việc tập luyện,
vận động phục hồi các chức năng.
- Tăng cường sức mạnh cơ bên liệt.
- Tạo thuận và khuyến khích tối đa các hoạt động chức năng.
- Kiểm soát các rối loạn tri giác, nhận thức, giác quan, ngôn ngữ.
- Hạn chế và kiểm soát các thương tật thứ cấp.
- Giáo dục và hướng dẫn gia đình cùng tham gia phục hồi chức năng .
Các dạng bài tập, hoạt động phục hồi chức năng:

- Tăng cường sức mạnh cơ bên liệt: tùy theo mức độ hồi phục ở các cơ
mà bệnh nhân sẽ có các bài tập chủ động trợ giúp, chủ động theo tầm vận
động hoặc có kháng trở. Để tái rèn luyện thần kinh cơ, bệnh nhân được tập
các hoạt động chức năng, đặc biệt là di chuyển.
- Nếu trương lực cơ tăng quá mạnh: sử dụng một số bài tập và kỹ thuật
khác để kéo giãn, ví dụ kéo giãn khớp cổ chân, kỹ thuật ức chế co cứng đối
với các khớp ở gốc chi và ngọn chi, đứng bàn nghiêng hoặc sử dụng nẹp
chỉnh hình. Đôi khi cần sử dụng thuốc giãn cơ phối hợp.
- Rối loạn thăng bằng và điều hợp: được tiến hành ngay từ đầu bằng
các bài tập thăng bằng ngồi, đứng, đi. Có thể sử dụng nạng, gậy, thanh song
song, khung đi, có thể cho bệnh nhân đi trên ghế băng, đi theo hình vẽ trên
mặt đất, tập bàn nhún,… .


19

Tiến hành song song với các bài tập là:
- Hoạt động trị liệu: Tăng cường khả năng hoạt động của tay, giúp độc
lập trong sinh hoạt, cải thiện năng lực thể chất và tinh thần, giúp người bệnh
sớm hội nhập với xã hội.
- Ngôn ngữ trị liệu: được chỉ định trong trường hợp bị thất ngôn, nhằm
mục đích thiết lập một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ bổ sung và thay thế những
hình thái ngôn ngữ bị mất hoặc tổn thương.
- Dụng cụ chỉnh hình: được sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả với nhiều
mục đích khác nhau: trợ giúp các hoạt động chức năng, chỉnh hình và các
dụng cụ vật lý trị liệu. Các dụng cụ chỉnh hình có thể dùng cho bệnh nhân là:
đai nâng vai, nẹp cổ chân, máng đỡ cổ tay. Khi mẫu co cứng quá mạnh, các cơ
đối vận yếu, có nguy cơ biến dạng khớp cần chỉ định nẹp chỉnh hình .
Các mục tiêu không phải bao giờ cũng đạt được dù tiến hành phục hồi
chức năng sớm. Kết quả cuối cùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi, mức

độ nặng, mức độ tổn thương của bệnh, tình trạng ban đầu, yếu tố nguy cơ đi
kèm, trình độ học vấn, sự hợp tác của bệnh nhân và gia đình,….
1.2. Tai biến mạch máu não theo quan điểm của YHCT
Trong YHCT không có bệnh danh TBMMN nói chung hay xuất huyết
não, nhồi máu não nói riêng. Với triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện
đột ngột trong giai đoạn cấp theo YHHĐ, YHCT xếp TBMMN vào chứng
trúng phong. Sau giai đoạn cấp với triệu chứng liệt nửa người nổi bật, bệnh
được YHCT xếp vào chứng bán thân bất toại .
1.2.1. Một số quan niệm về trúng phong và nguyên nhân trúng phong
Trúng phong còn gọi là thốt trúng, vì bệnh phát sinh cấp, đột ngột và rất
nặng, triệu chứng thường nhiều biến hóa, phù hợp với tính thiện hành đa biến của
phong. Bệnh nhân đột nhiên ngã ra bất tỉnh hoặc vẫn còn tỉnh, bán thân bất toại
hoặc tứ chi không cử động được, miệng méo, mắt lệch, nói khó .


20

Qua các thời đại có nhiều học thuyết khác nhau:
- Từ thời Hán – Đường về trước:
Trong Linh Khu nói: “Hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh vệ, dinh
vệ hơi suy thì chân khí tán mất, tà khí đóng lại phát thành chứng thiên khô”.
Sách Kim Quỹ cho rằng: “Mạch lạc hư không, phong tà thừa cơ xâm
nhập gây chứng trúng phong, tùy theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng hậu
ở kinh lạc hay tạng phủ” .
- Từ thời Hán – Đường về sau:
“Hà gian lục thư” chủ trương “Tâm hoả cực mạnh”, nhiệt khí uất kết
gây ra bệnh.
Trong “Đan khê tâm pháp – Trúng phong luận” cho rằng “Đàm thấp
sinh nhiệt” mà gây nên bệnh.
“Đông đản tập thư” cho rằng “Chính khí hư tụ”: hư tổn chân khí nên

dễ bị trúng phong.
Diệp Thiên Sỹ thiên về phong dương: do huyết kém, thủy không hàm
mộc, can dương cang thịnh, phong dương vọng động, âm dương cùng tổn
thương là nguyên nhân gây trúng phong.
Danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) đã nói: “Trúng phong là đầu mối các
bệnh, biến hoá lạ thường và phát bệnh khác biệt. Triệu chứng là thình lình ngã
ra, hôn mê bất tỉnh, miệng méo mắt lệch, sùi bọt mép, bán thân bất toại, nói
năng ú ớ, chân tay cứng đờ không co duỗi được. Các chứng trạng như thế đều
là trúng phong cả” .
Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) mô tả
chứng trúng phong như sau: “Trúng phong là bỗng nhiên ngã vật ra, người
mắc bệnh này bảy đến tám phần do âm hư, còn do dương hư chỉ một hai
phần, bệnh phần nhiều do hư yếu bên trong mà sinh ra phong, thỉnh thoảng
mới có ngoại phong...” .


21

Ngày nay, đúc kết kinh nghiệm của các danh y đi trước và kinh
nghiệm thực tiễn, các thầy thuốc YHCT cho rằng nguyên nhân của trúng
phong là do:
+ Nội thương hao tổn: tố chất cơ thể âm huyết suy, dương thịnh hoả
vượng, phong hoả dễ tích hoặc do cơ thể già yếu can thận âm hư, can
dương thiên thịnh, khí huyết thượng nghịch lên che mờ nguyên thần, đột
nhiên mà phát bệnh .
+ Ẩm thực bất điều: do ăn uống không điều độ, ảnh hưởng đến công
năng tỳ vị, thấp nội sinh tích tụ sinh đàm, đàm thấp sinh nhiệt, nhiệt cực sinh
phong, phong kết hợp với đàm phạm vào mạch lạc, đi lên trên làm tắc thanh
khiếu gây bệnh .
+ Tình chí thương tổn: uất nộ thương can, can khí bất hoà, khí uất hoá

hoả, can dương bạo cang, thận thủy hư không chế ước được tâm hoả, khí
huyết thượng xung lên não mà gây bệnh .
+ Khí huyết hư tà trúng vào kinh lạc: do khí huyết không đủ, mạch
lạc hư rỗng nên phong tà nhân chỗ hư trúng vào kinh lạc làm khí huyết tắc
trở. Hoặc người béo khí suy, đàm thấp thịnh, ngoại phong dẫn động đàm
thấp bế tắc kinh lạc gây nên bệnh .
- Như vậy nguyên nhân của trúng phong theo YHCT là do ngoại
phong và nội phong nhưng chủ yếu do nội phong là chính.
Ngoại phong: do ảnh hưởng của khí hậu, phong tà nhân chính khí cơ
thể suy giảm, tấu lý sơ hở, mạch lạc trống rỗng mà xâm nhập vào.
Nội phong: phong do bên trong cơ thể sinh ra, do âm dương mất cân
bằng, chính khí cơ thể suy kém làm hao tổn chân âm, ảnh hưởng đến can
thận. Can là tạng thuộc phong, nếu can âm suy kém sẽ dẫn đến can hoả
vượng, nhiệt hoá hoả, hoả thịnh thì phong động, che lấp các khiếu, rối loạn
thần minh gây nên chứng trúng phong. Nếu nhẹ là trúng phong kinh lạc, nặng


22

là trúng phong tạng phủ, chữa không kịp thời sẽ tử vong hoặc để lại di chứng
bán thân bất toại.
1.2.2. Phân loại chứng trúng phong
Chứng trúng phong chia làm hai thể lớn:
- Trúng phong kinh lạc (TPKL) nói chung không có sự thay đổi về thần
chí, bệnh nhẹ. Triệu chứng chính là chân tay tê dại, yếu nửa người, nói khó,
rêu lưỡi trắng, mạch phù sác.
- Trúng phong tạng phủ (TPTP) bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa
người có hôn mê, có hai chứng:
Chứng bế: bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai bàn tay nắm
chặt, da mặt đỏ, chân tay ấm, không có rối loạn cơ tròn, mạch huyền hữu lực.

Chứng thoát: bất tỉnh, mắt nhắm, miệng há, tay duỗi, chân tay lạnh, có
rối loạn cơ tròn, mạch trầm huyền vô lực .
Trúng phong được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn cấp tính, giai đoạn
hồi phục, giai đoạn di chứng . Trong phạm vi đề tài chúng tôi chủ yếu đề cập
đến giai đoạn cấp và giai đoạn hồi phục.
1.2.3. Điều trị
1.2.3.1. Giai đoạn cấp
Có 3 trạng thái: Không có rối loạn ý thức, bệnh nhân tỉnh táo; Hôn mê
nông; Hôn mê sâu .
- Điều trị trường hợp không có rối loạn ý thức:
+ Bệnh thường xuất hiện ở trạng thái tĩnh (đang nghỉ, sau khi làm việc
mệt mỏi hoặc sau khi ngủ dậy). Do phong trúng kinh lạc làm khí huyết trong
kinh lạc bị trở ngại gây nên. Phép chữa: Trừ phong, dưỡng huyết, thông lạc.
Bài thuốc thường dùng Đại tần giao thang .
+ Hoặc do can thận âm hư, phong dương nhiễu lên, hiệp với đàm chạy vào
kinh lạc, lạc mạch không thông lợi cho nên miệng méo, mắt xếch, lưỡi cứng, khó


23

nói, nửa người không cử động. Phép chữa: Tư âm tiềm dương, tức phong thông
lạc. Bài thuốc thường dùng: Trấn can tức phong thang .
- Điều trị trường hợp hôn mê nông:
+ Thường do phong nhiệt nhiễu thanh không (não), đàm thấp hoặc đàm
nhiệt làm bế tắc tâm khiếu - phong trúng tạng phủ .
+ Triệu chứng: thường lúc tỉnh lúc mê, mặt đỏ, người nóng, hàm răng
cắn chặt, nằm không yên, thở thô, có nhiều đờm, đại tiểu tiện không thông,
mạch huyền sác.
+ Pháp điều trị: cấp cứu, khai bế tỉnh thần.
+ Phương dược: chủ yếu dùng An cung ngưu hoàng hoàn .

+ Châm cứu: châm chích nặn máu các huyệt Bách hội, Thập tuyên
để thanh nhiệt, hạ áp. Châm kích thích mạnh huyệt Nhân trung để khai khiếu
tỉnh thần .
- Điều trị ở giai đoạn hôn mê sâu: YHCT gọi là chứng thoát .
+ Triệu chứng: hôn mê sâu, mắt mở, vã mồ hôi, chân tay lạnh, thở yếu,
mạch vi muốn tuyệt.
+ Pháp điều trị: hồi dương cố thoát.
+ Phương dược: Sâm phụ thang gia vị.
+ Châm cứu: cứu cách muối huyệt Thần khuyết, hoặc cứu huyệt Quan
nguyên, Khí hải đến khi chân tay ấm, sờ thấy mạch đập .
1.2.3.2. Giai đoạn phục hồi
Sau giai đoạn cấp bệnh nhân hoặc tử vong, hoặc hồi phục để lại di chứng
như: liệt nửa người, miệng méo, mắt xếch, nói khó, đái ỉa không tự chủ,...
YHCT kết hợp dùng thuốc và châm cứu, xoa bóp bấm huyệt phục hồi di
chứng rất hiệu quả.
Các phương pháp trên đều có tác dụng cơ bản là điều chỉnh lại sự mất
cân bằng âm dương, làm cho kinh mạch được lưu thông, khí huyết điều hòa
cơ thể khỏe mạnh sẽ chống lại tác nhân gây bệnh, góp phần phục hồi liệt.
Đây là giai đoạn can thiệp điều trị tốt nhất để phục hồi các di chứng.


24

- Bán thân bất toại:
+ Khí hư huyết ứ, kinh lạc trở trệ
Triệu chứng: khí hư không vận hành được huyết, huyết không vinh dưỡng
được cân cơ, khí huyết ứ trệ, mạch lạc tắc trở làm cho các chi thể không vận động
được, bệnh nhân mất cảm giác, không biết đau, ngứa .
Pháp điều trị: ích khí hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc .
Phương dược: Bổ dương hoàn ngũ thang .

+ Chính khí hư, phong tà trúng vào kinh lạc
Triệu chứng: bán thân bất toại, miệng méo mắt xếch, lưỡi cứng nói khó
hoặc không nói được, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù hoãn .
Pháp điều trị: bổ chính trừ phong, điều hòa khí huyết .
Phương dược: Tiểu tục mệnh thang, hoặc bài Đại tần giao thang để trừ
phong thanh nhiệt, điều lý khí huyết thì kinh lạc thông suốt, chân tay cử động
được, lưỡi mềm nên nói được .
+ Âm hư dương xung, mạch lạc ứ trở
Triệu chứng: bán thân bất toại, chân tay co cứng, tê tay chân, hoa mắt
chóng mặt, mặt đỏ, phiền táo không yên, nói khó, chất lưỡi đỏ, rêu vàng,
mạch huyền hữu lực .
Pháp điều trị: bình can tiềm dương, tức phong thông lạc .
Phương dược: Thiên ma câu đằng ẩm (Phụ lục 5) [8].
- Rối loạn ngôn ngữ:
+ Phong đàm trở trệ kinh lạc
Triệu chứng: lưỡi to bè, nói ngọng, nói khó, rêu lưỡi trắng mỏng, dính,
mạch huyền tế .
Pháp điều trị: trừ phong, trừ đàm, tuyên thông khiếu lạc .
Phương dược: Giải ngự đơn .


25

+ Thận tinh hư tổn
Triệu chứng: không nói được, hồi hộp, đánh trống ngực, đoản khí, lưng
gối mỏi yếu, mạch trầm tế nhược , .
Pháp điều trị: tư âm, bổ thận, lợi khiếu .
Phương dược: Địa hoàng ẩm tử .
- Miệng méo, mắt lệch:
+ Triệu chứng: miệng méo mắt lệch, kèm theo chi thể tê bì, hoặc nói

khó, nhức đầu chóng mặt , .
+ Pháp điều trị: trừ phong đàm, thông lạc , .
+ Phương dược: Khiên chính tán .
- Ỉa đái không tự chủ do thận hư:
Triệu chứng: bán thân bất toại, ỉa đái không tự chủ, ù tai, lưng gối lạnh
đau, chân tay lạnh, chóng mặt, choáng váng, chất lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch
trầm trì , .
Pháp điều trị: tư thận âm, bổ thận dương , .
Phương dược: chủ yếu dùng Địa hoàng ẩm tử , .
1.2.3.3. Điều trị sau giai đoạn cấp bằng phương pháp không dùng thuốc
- Châm cứu:
Bệnh nhân đã qua giai đoạn cấp còn lại một số triệu chứng như: bán
thân bất toại, nói khó, miệng méo mắt xếch, đái ỉa không tự chủ…. Dựa theo
triệu chứng kết hợp tứ chẩn có pháp điều trị, xây dựng phác đồ huyệt phù hợp
cho từng thể.
+ Thể châm: Chọn huyệt ở kinh dương nửa người bên liệt là chính.
Huyệt chính gồm: Kiên ngung, Khúc trì, Thủ tam lý, Ngoại quan,
Dương trì, Hợp cốc, Hoàn khiêu, Phong thị, Túc tam lý, Dương lăng tuyền,
Giải khê. Liệt mặt châm nửa mặt bên liệt gồm: Hạ quan, Địa thương, Giáp xa.
Thủ pháp bổ hoặc tả.


×