Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý VÀ CÁC BỆNH TÂM THẦN KÈM THEO CỦA TRẺ 6 – 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.98 KB, 47 trang )

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý VÀ
CÁC BỆNH TÂM THẦN KÈM THEO CỦA TRẺ 6 – 12 TUỔI KHÁM VÀ
ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2014

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn tăng động giảm chú ý (tiếng Anh là Attention Deficit Hyperactivity
Disorder - viết tắt là ADHD). ADHD là một dạng rối loạn phát triển thường gặp ở
trẻ em. Theo “Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần - IV” (1994)
(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4th Edition – DSM-IV),
ADHD có biểu hiện quá mức tình trạng không tập trung chú ý, hoạt động không
kiểm soát và tăng hoạt động, làm ảnh hưởng đến việc học tập, phát triển cảm xúc
và kĩ năng xã hội của trẻ.
Hiện tượng ADHD đã xuất hiện từ rất lâu, tên gọi của nó được thay đổi theo thời
gian. Chỉ khi DSM - IV đưa ra thuật ngữ “Rối loạn tăng động giảm chú ý”, thì định
danh rối loạn ADHD với các dạng biểu hiện: Giảm thiểu chú ý (Attention Dificit
Disorder - ADD), tăng động/xung động (Hyperactivity Disorder - HD) và tăng
động giảm chú ý (Attention Deficit Hyperactivity Disorder - ADHD) mới được sử
dụng rộng rãi, thống nhất trong khoa học.
ADHD là bệnh có tỷ lệ mắc cao, theo DSM-5 hiện có 5% số trẻ mắc ADHD [1].
Tại Mỹ tỷ lệ ADHD luôn tục tăng từ 7,8% năm 2003 đến 9,5% năm 2007 và 11%
năm 2011 [2]. Chi phí điều trị ADHD cũng rất tốn kém, tại Mỹ chi cho mỗi ca
khoảng 12.005 đến 17.458 Đô la Mỹ [3].
Trẻ mắc ADHD gặp nhiều khó khăn trong các mối quan hệ với bố, mẹ, với bạn bè
và với thầy cô giáo. Một số nghiên cứu cho thấy trẻ mắc ADHD có các hành vi
chống đối, thách thức gia đình, xã hội và có nguy cơ lạm dụng các chất [5][6][7]
[8].

2




Tại Bệnh viện Nhi Trung ương mỗi tháng có hàng trăm ca được khám, điều
trị ADHD, các trẻ khi được đưa đến bệnh viện thường có các biểu hiện bệnh ở mức
độ trầm trọng, gặp các khó khăn trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Do vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu Nhằm có thêm bằng chứng mối liên quan giữa
ADHD với các bệnh tâm thần kèm theo.

3


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Lịch sử thuật ngữ ADHD
Trong những tài liệu cổ xưa, có những bằng chứng cho thấy ADHD không phải là
hiện tượng mới xuất hiện. 2500 năm trước, nhà khoa học, nhà vật lý học Hypocrate
đã mô tả một tình trạng mà ta có thể so sánh với cái mà ngày nay ta biết về ADHD.
Ông mô tả những bệnh nhân này là có "những đáp ứng tăng nhanh cho những trải
nghiệm cảm giác nhưng cũng ít bền bỉ vì tâm trí chuyển nhanh chóng sang ấn
tượng tiếp theo". Cuối thế kỷ 19, người ta gặp những thuật ngữ mô tả trong các tài
liệu y học như "thằng ngốc điên" (mad idiod), "mất trí xung động" (impulsive
insanity) và "thiếu ức chế" (defective inhibition). Bourneville (1897) đưa ra khái
niệm “chứng không ổn định ngu ngốc” (débiles instables). Năm 1898, Kreapelin
mô tả một dạng nhân cách bệnh lý với cái tên “nhân cách bồn chồn không yên”
(psychopathes instables). Demoor (1901), mô tả những trẻ em ở trường học có đặc
điểm là bồn chồn không yên (instabilite) với thuật ngữ “múa giật tâm thần” (chorée
mentale). Still (1902) làm báo cáo cụ thể về 43 trẻ có những mô tả có vẻ tương tự
những định nghĩa ngày nay. Theo đó, trẻ "bệnh thiếu kiểm soát về đạo đức"
(morbid defects of moral control, defect in moral control) là những trẻ tăng động,
sỗ sàng, đối kháng, khả năng kiềm chế kém, không thể tập trung chú ý, có khó
khăn trong học tập và có những vấn đề về hành vi, không tuân theo kỷ luật. 1905,

Phillippe và Paul-Boncour đề xuất thuật ngữ “những học sinh không ngồi yên”
(l’ecolier instable). Hohman (1922), Strecker và Ebaugh (1923) đưa ra khái niệm
“rối loạn hành vi sau viêm não” (postencephalitic behavior disorder). Năm 1934,
Kahn và Cohen đưa ra thuật ngữ “cưỡng bức một cách có hệ thống" (organically
driven, organic driveness). Strauss & Lehtinen, 1947 với “Hội chứng tổn thương

4


não ở trẻ em" (brain-injured child syndrome). Strauss & Kephart, 1955: “Hội
chứng tổn thiệt não tối thiểu” (minimal brain damage syndrome, MBD syndrome).
Ounsted (1955) đã sử dụng thuật ngữ “hội chứng tăng động” (hyperkinetic
syndrome). Và “hội chứng tăng động ở trẻ em” (hyperactive child syndrome)
(Chess, 1960). Năm 1968, Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần của
Hội tâm thần học Mỹ lần thứ 2 (Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders (DSM-II; APA, 1968) đưa ra thuật ngữ “phản ứng tăng động ở trẻ em”
(hyperkinetic reaction of childhood). Từ thời điểm này, thuật ngữ định danh rối
loạn với các đặc điểm cơ bản: giảm chú ý, tăng động và xung động được sử dụng
rộng rãi trong khoa học như một thuật ngữ thống nhất.
2. Định nghĩa.
Gabrielle Weiss trong sách giáo khoa về “Tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên”
định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) như sau: “Trẻ tăng động chỉ chú
ý trong khoảng thời gian ngắn, khó ức chế kiểm soát được biểu lộ bằng hành vi và
nhận thức xung động và những bồn chồn không thích hợp. Những điều đó không
chỉ phản ánh bằng việc trẻ lao đầu vào một việc gì đó có thể nguy hiểm mà không
suy nghĩ. Trẻ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh hoạt động, chú ý và điều chỉnh
các tương tác xã hội vào các chuẩn tình huống bình thường. Những đặc điểm này
dẫn đến việc, sự hiện diện của chúng thường gây rắc rối cho những người lớn và
không được bạn bè cùng lứa ưa thích. Kết quả học tập của trẻ ở trường kém; nhiều
trẻ mất khả năng học tập đặc trưng và/hoặc đi kèm rối loạn hành vi.

3. Cơ chế bệnh sinh
Nhiều bằng chứng cho thấy, một nguyên nhân đơn nhất không thể giải thích được
cho những nhóm trẻ có ADHD.
5


3.1. Ảnh hưởng của di truyền:
Cha mẹ của trẻ ADHD có rối loạn nhân cách chống đối xã hội, chứng nghiện rượu,
lạm dụng ma tuý có thể có những biểu hiện tương tự của ADHD trong thời thơ ấu
của họ. Những nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ cao ở anh chị em ruột của trẻ tăng
động. Trong một nghiên cứu trên 238 cặp song sinh, Goodman và Stevenson
(1989) đã tìm ra sự phù hợp cho chẩn đoán lâm sàng tăng động ở 51% các cặp sinh
đôi cùng trứng và 33% các cặp sinh đôi khác trứng. Một số nhà nghiên cứu đã suy
đoán rằng có một gene riêng lẻ đã góp phần vào việc bộc lộ rối loạn này. Mặc dầu
những khiếm khuyết của gene riêng rẽ đã được nhận dạng là có ảnh hưởng trực
tiếp đến ADHD, nhưng cũng có nhiều vị trí lại có liên quan đến nó. Những vị trí đó
bao gồm một gene vận chuyển dopamine trên nhiễm sắc thể số 5, một gene
dopamine D4 receptor trên nhiễm sắc thể 11,và vùng HLA trên nhiễm sắc thể số 6.
Hiện nay, người ta vẫn còn chưa rõ, tại sao có những khác nhau như vậy. Cũng có
thể đó là những biến thể khác nhau. Cũng có thể là một chỉ báo rằng có nhiều gene
cùng tham gia, hoặc những kết hợp của các gene dẫn đến biểu hiện phân kiểu
ADHD khác nhau. Khoảng 46% trẻ trai và 32% trẻ gái mang gene sẽ có khả năng
phát triển thành ADHD.
3.2. Nghiên cứu hoá thần kinh:
Tác động mạnh mẽ của những chất kích thích đối với những triệu chứng của
ADHD làm người ta cho rằng những rối loạn này là do sự loạn chức năng của quá
trình gây tiết adrenatin hoặc hệ thống tiết huyết thanh. Những báo cáo trước đây
cho rằng những sản phẩm chuyển hoá não như MHPG thấp hơn trong nước tiểu
của trẻ tăng động, so với nước tiểu của trẻ bình thường.
Những nghiên cứu gần đây đo axit phenylatic tiết niệu, phenylalanine và tirosin và

không tìm ra sự khác biệt. Nồng độ axit homovanitic (HVA) trong một nghiên cứu
6


thấy rằng nó thấp hơn trong chất dịch xương sống của trẻ tăng động, tuy nhiên,
trong các nghiên cứu khác thì chưa được chứng minh. Ba chất ức chế oxidaza
monoaxit (MAO) đã được phát hiện ra để cải thiện hành vi của trẻ tăng động.
Clorgyline là chất ức chế MAO A tuyển chọn, tranylcypromine ức chế cả MAO A
và MAO B, deprenyl ức chế MAO B. Chất ức chế MAO A ảnh hưởng đến
norepinephrine và serotomin, chất ức chế MAO B ảnh hưởng đến
plenylethylamines, dopamin chịu ảnh hưởng của cả MAO A và MAO B. Vì vậy,
những kết quả trị bệnh tích cực của 3 chất ức chế MAO không cho phép chúng ta
đánh giá tầm quan trọng của một chất này so với chất kia.
Một nghiên cứu chứng minh chứng tăng động ở động vật bằng cách sử dụng một
chất gây ngộ độc thần kinh, 6-hydroxyldopamine (6-OHDA) phá hủy neuron
dopamine và làm hạ thấp nồng độ dopmine ở khe synap. Tuy nhiên, những thử
nghiệm với dopamine agonist thuần khiết lại không làm giảm được hoạt động và
tăng thời gian chú ý cho trẻ ADHD. Serotonin cũng được gợi ý là nguyên nhân rối
loạn của trẻ ADHD. Các kết quả nghiên cứu trên động vật với serotonin đã gợi ý
những thay đổi không đặc trưng về các mức độ hoạt động và hành vi hung tính.
Tuy nhiên, sử dụng fenfluramin, một thứ thuốc làm giảm nồng độ serotonin lại
không chứng minh được lợi ích của trị liệu.
3.3. Chì trong máu
Một nghiên cứu (Thomson và cs, 1989) trên 500 trẻ Fdimburg thông báo phát hiện
về mối quan hệ phản ứng nhanh giữa mức chì trong máu và mức đánh giá hành vi
trên thang đo cho giáo viên, thấy điểm tổng và điểm đo mục hành vi công kích,
chống đối xã hội và tăng động. Nghiên cứu đã chứng thực rằng, mức chì trong máu
cao có khả năng gây các vấn đề hành vi và nhận thức ở trẻ. Tuy nhiên, đáng lưu ý
là hầu hết trẻ mắc ADHD không có lượng chì cao hơn mức bình thường trong máu.
7



3.4. Nicotin, đặc biệt là việc hút thuốc ở người mẹ, là một độc tố từ môi trường có
thể đóng vai trò trong tiến triển của ADHD. Milberger và cs (1996) báo cáo 22%
người mẹ của những trẻ mắc ADHD hút trên một bao thuốc mỗi ngày trong suốt
quá trình mang thai, so với nhóm đối chứng chỉ có 8%. Hơn nữa, những nghiên
cứu trên động vật đã chỉ ra rằng nicotin làm tăng giải phóng dopamin và gây ra
tăng động (Fung và Lau, 1989; John và cs, 1982).
3.5. Nghiện một loại thức ăn:
Có một thời, người ta tuyên truyền rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng về ảnh hưởng của các loại thức ăn đóng hộp, thức ăn sẵn, thức ăn có nhiều
đường. Nhưng có ít người ủng hộ cho xác nhận của Feingold (1975) và những
người khác, rằng việc ăn đường và các thức ăn khác trực tiếp là nguyên nhân gây
ADHD. Những nghiên cứu kỹ càng thì cho rằng yếu tố này không có cơ sở khoa
học chắc chắn.
3.6. Giải phẫu hệ thần kinh:
Một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vai trò ảnh hưởng của thùy trước đối
với ADHD. Bởi lẽ nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến việc cải thiện những triệu
chứng của hội chứng vỏ não trước, thuộc quỹ đạo có khả năng liên quan đến các
hành vi xung động và hung tính. Một số nghiên cứu gần đây sử dụng chụp cắt lớp
bằng dòng positon (PET) đã chứng minh được những thay đổi về phát triển trong
suốt thời thơ ấu và vị thành niên, theo mật độ của thụ thể dopamine, lượng máy
não và sử dụng glucose ở thùy trước, như PET đo đạc trong một số nghiên cứu chỉ
ra là có sự khác biệt giữa trẻ tăng động và trẻ bình thường. Những bất thường trong
cấu trúc và chức năng của não cũng được nghi ngờ là nguyên nhân của ADHD.
Các nghiên cứu sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) có nhận thấy
những khác nhau về cấu trúc não nhưng lại không chỉ ra được kiểu cách cụ thể nào.
8



Có những báo cáo rằng, trẻ ADHD có vân thể chai nhỏ hơn các trẻ em bình
thường, nhưng một số nghiên cứu khác lại không nhận thấy sự khác nhau về đặc
điểm giải phẫu này. Các nghiên cứu sử dụng hình ảnh MRI cũng cho thấy khả năng
là nhân đuôi và các vùng trước trán ở trẻ ADHD thì nhỏ hơn. Có hay không những
khác nhau về giải phẫu này ảnh hưởng lên hoạt động thì vẫn còn chưa được chỉ ra
một cách đúng đắn.
3.7. Vai trò của yếu tố tâm lý xã hội:
Trong xã hội cạnh tranh và đẩy nhanh khoa học kỹ thuật của chúng ta, việc học tập
kém của trẻ (hành vi của chúng lại càng làm cho tình huống xấu đi) gây chấn sang,
lo âu cho cha mẹ, nảy sinh sự sợ hãi rằng trẻ sẽ không thể xin được việc làm thích
hợp khi lớn lên. Cùng lúc đó, với sự gia tăng ly hôn, cha (mẹ) độc thân, gia đình
pha tạp và cha mẹ làm việc suốt ngày, cha mẹ và cô giáo ít thời gian và ít quan
tâm, chăm sóc những trẻ mà vẻ ngoài là có tiềm năng tốt nhưng không tỏ ra cố
gắng vươn lên, những trẻ tăng động. Một nghiên cứu 25 năm về trẻ em Kawai bị
biến chứng lúc gần sinh phát hiện ra rằng những gia đình hạnh phúc, nguyên vẹn những gia đình có thể tạo ra được các tác nhân gia đình trong nhà có thể hoàn toàn
bù đắp được những rủi ro khi gần sinh, chỉ trừ trường hợp trẻ bị tổn thương quá
nặng (như: chậm phát triển) (Wernen, 1989).
4. Vấn đề chẩn đoán ADHD
Trên thế giới có hai hệ thống tiêu chuẩn lớn đề cập đến việc chẩn đoán ADHD. Đó
là DSM của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (APA) và ICD của Tổ chức y tế thế giới
(WHO).

9


Về thuật ngữ: ICD sử dụng thuật ngữ rối loạn tăng động (hyperkinetic disorder).
Trong lúc DSM lại sử dụng thuật ngữ rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention
Deficit Hyperactivity Disorder).
Về các tiêu chuẩn chẩn đoán: Đối với DSM Hiện nay, tiêu chuẩn chẩn đoán của
Hiệp hội tâm thần học Mỹ được chấp nhận để chẩn đoán ADHD là hệ thống tiêu

chuẩn của DSM lần thứ tư, 1994 còn gọi là DSM-IV (APA, 1994). Bản chẩn đoán
này có hai danh sách, mỗi danh sách liệt kê 9 triệu chứng. Một danh sách về các
triệu chứng giảm chú ý, và một danh sách về triệu chứng tăng động xung động.
Các triệu chứng giảm chú ý bao gồm không nghe khi người khác nói, không hoàn
thành công việc được giao, sao lãng chú ý, và khó tổ chức các nhiệm vụ. Các triệu
chứng tăng động bao gồm 6 triệu chứng (như, ngọ ngoạy tay chân, khó ngồi yên tại
chỗ, nói quá nhiều) cùng với 3 triệu chứng xung động (như, ngắt lời người khác,
khó chờ đến lượt). Cha mẹ và/hoặc giáo viên nhất thiết phải báo cáo về sự hiện
diện của của ít nhất 6 trong số 9 vấn đề hành vi ở bảng liệt kê triệu chứng thì mới
được đưa đến chẩn đoán ADHD. Những hành vi như vậy nhất thiết phải khởi phát
trước 7 tuổi, tồn tại trong vòng ít nhất 6 tháng, không phù hợp so với những đứa trẻ
có cùng tuổi trí tuệ. Hơn nữa, các triệu chứng phải hiện diện ở hai môi trường trở
lên, có ảnh hưởng rõ ràng lên chức năng tâm lý xã hội, và không phải do các kiểu
rối loạn tâm thần khác hay rối loạn học tập.
Theo tiêu chuẩn này, biểu hiện của ADHD trên lâm sàng ở những đứa trẻ khác
nhau là có thể khác nhau. Đối với một số trẻ này, các triệu chứng giảm chú ý có thể
nhiều hơn so với các vấn đề tăng động hay xung động. Đối với những trẻ khác, thì
tăng động và xung động lại là vấn đề nổi trội. Ví dụ, nếu có 6 triệu chứng giảm chú
ý trở lên nhưng lại có ít hơn 6 triệu chứng tăng động-xung động, và tất cả các tiêu
chuẩn khác được đáp ứng thì được chẩn đoán là ADHD dạng giảm chú ý là nổi
10


trội. Khi có nhiều hơn 6 triệu chứng ở cả 2 danh sách và tất cả các tiêu chuẩn khác
đợc đáp ứng thì mới chẩn đoán là ADHD dạng hỗn hợp. ADHD được DSM-IV
phân làm ba kiểu, tương ứng với các mã:
• ADHD với các triệu chứng giảm chú ý là nổi trội có mã chẩn đoán 314.00.
• ADHD với các triệu chứng tăng động và xung động là nổi trội với mã chẩn đoán
314.01.
• ADHD ở thể hỗn hợp có cả các triệu chứng giảm chú ý, tăng động và xung động

với mã chẩn đoán là 314.01.
Kiểu phụ thứ ba có ở phần lớn trẻ ADHD.
Đối với ICD Hiện tại, phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10, hay còn gọi là ICD-10
(WHO, 1993) được chấp nhận sử dụng để chẩn đoán rối loạn tăng động
(hyperkinetic disorder) với mã chẩn đoán cho rối loạn là F 90.0. ICD-10 sử dụng
các danh sách triệu chứng riêng biệt chứa đựng tất cả 18 triệu chứng. Các item này
khá giống với danh sách các triệu chứng của DSM-IV.
Tuy nhiên, không giống như DSM-IV, ICD-10 sử dụng một danh sách đến 9 triệu
chứng giảm chú ý, một danh sách 5 item về tăng động và một danh sách 4 item
xung động, mỗi danh sách cũng khác nhau về triệu chứng thời điểm mà họ sử
dụng. Ví dụ, có ít nhất sáu triệu chứng giảm chú ý, ba triệu chứng tăng động và
một triệu chứng xung động mới được chẩn đoán là rối loạn tăng động (a
hyperkinetic disorder diagnosis).
Cũng như DSM-IV, ICD-10 đòi hỏi rằng các triệu chứng (1) có thời điểm khởi phát
trước 7 tuổi (2) có thời gian tồn tại ít nhất là 6 tháng, (3) có sự phát triển chệch
11


hướng, và (4) không phải do rối loạn phát triển lan tỏa hoặc các tình trạng tâm thần
khác ( ví dụ như rối loạn khí sắc).
Mặc dù DSM-IV và ICD-10 có những điểm tương tự nhau, nhưng cũng có những
điểm khác nhau có ý nghĩa. Điểm khác biệt quan trọng nhất là DSM-IV đưa ra tiêu
chuẩn phân loại ADHD, còn ICD-10 thì không.
Chẩn đoán phân biệt ADHD cần được chẩn đoán phân biệt với: Rối loạn lo âu, Rối
loạn cảm xúc lưỡng cực, Trầm cảm, Rối loạn khí sắc, Tăng năng huyết áp, Rối loạn
Stress sau sang chấn, Rối loạn giấc ngủ. ác rối loạn kèm theo ADHD có thể đi cùng
với những bệnh tâm thần sau: Các rối loạn học tập khác, Rối loạn hành vi hoặc rối
loạn chống đối, Rối loạn lưỡng cực, Hội chứng Tourette, Rối loạn phát triển lan
tỏa, Chậm phát triển tâm thần.
Chẩn đoán ADHD dựa trên đánh giá lâm sàng. Không có trắc nghiệm nào dựa trên

thí nghiệm y học có thể chứng thực chẩn đoán. Tuy nhiên, người ta sử dụng những
công cụ hỗ trợ như sau:
+ Đếm huyết thanh CBC.
+ Chất điện phân.
+ Trắc nghiệm chức năng của người bệnh (trước khi bắt đầu trị liệu).
+ Kiểm tra chức năng tuyến giáp.
+ Hình ảnh não, ví dụ như MRI chức năng hay quét chụp X quang bằng phát ra
photon đơn (SPECT) rất hữu dụng trong nghiên cứu, nhưng không có chỉ dẫn lâm
sàng nào cho những thủ tục này bởi chẩn đoán phải là lâm sàng. Test tâm lý

12


+ Thang đánh giá Conners cho Cha mẹ-Giáo viên là một bộ câu hỏi được dùng cho
cả bố mẹ và giáo viên của trẻ.
+ Bộ câu hỏi Tình huống ở nhà Barkley.
+ Trắc nghiệm Thực thi Tiếp diễn (CPTs) dựa trên những bài tập của máy tính và
thường đường dùng để kiểm tra sự chú ý và có thể được dùng kết hợp với những
thông tin lâm sàng để đánh giá. Một ví dụ được biết nhiều là Trắc nghiệm Nhiều
loại Chú ý (TOVA). Khi những trắc nghiệm này có thể hỗ trợ cho chẩn đoán trong
một đánh giá lâm sàng đầy đủ, chúng có tính xúc cảm và tính đặc trưng thấp và
không phải là nền tảng cơ bản để đánh giá.
- Thị giác và thính giác nên được kiểm tra.
5. Điều trị ADHD
- Thuốc methylphenidate, dextroamphetamine
+ Tất cả thuốc có hiệu quả như nhau nhưng khác nhau ở liều lượng, thời gian hiệu
lực, và tác dụng phụ ở những bệnh nhân riêng lẻ. Cẩn trọng bằng việc bắt đầu với
liều lượng thấp nhất và chuẩn độ dần cho hiệu lực lâm sàng hay tính không dung
nạp thuốc.
+ Triệu chứng hướng tới bao gồm xung động, giảm tập trung, khó hòan thành bài

tập, tăng hoạt động và thiếu chú ý.
+Thuốc được duy trì liên tục, có thể tăng liều lượng hàng ngày, mỗi lần uống cách
nhau từ 4-6 giờ.
+ Không uống thuốc quá gần lúc đi ngủ bởi thuốc có thể gây mất ngủ.
13


+ Những tác dụng phụ khác của thuốc bao gồm mất ngon miệng và giảm cân, nhức
đầu, và ảnh hưởng khí sắc (trầm cảm, dễ bị kích thích).
+ Thuốc có thể làm tăng tíc ở trẻ em vốn đã mắc rối loạn tíc.
+ Việc lớn lên có bị ảnh hưởng hay không khi trẻ dùng thuốc vẫn chưa rõ ràng.
Methylphenidate, hay Ritalin, đã được kê đơn cho ADHD từ đầu những năm 1960
(Sprague & Gadow, 1976). Hiệu quả hoạt động của các loại thuốc này là làm dịu
trẻ ADHD và tăng cường khả năng tập trung. Một cuộc khảo sát đã thấy rằng 6%
trẻ học sinh các lớp (tiểu học, trung học) cơ sở và 25% ở các lớp giáo dục đặc biệt
có sử dụng các thuốc này (Safer & Krager, 1988). Việc kê đơn các loại thuốc này
đôi khi tiếp tục khi trẻ đến tuổi thanh thiếu niên và thậm chí tuổi trưởng thành.
Một nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng Ritalin giúp trẻ chơi bóng chày và chiếm lấy vị
trí thuận lợi trong khu vực cửa thành và theo dõi được tình trạng của trận đấu,
trong khi trẻ dùng placebo thường ném hay đá găng tay của mình khi trận đấu đang
diễn ra (Pelham và cs, 1990).
Tuy nhiên các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các loại thuốc này không cải thiện
thành tích học tập qua một thời gian dài (Whalen và Henker, 1991). Hơn nữa, các
thuốc này có tác dụng phụ. Ngoài ra, còn có sự lạm dụng thuốc. Người ta đã báo
cáo những trường hợp trẻ sử dụng thuốc Ritalin và các thuốc kích thích khác nhận
được từ anh chị em ruột hoặc bạn bè như là các thuốc để tiêu khiển (Leland, 1995).
- Magiê pemolin có thể được dùng, nhưng liên quan một chút với hậu quả không
tốt có thể gây tổn thương cho gan.

14



- Những số liệu gần đây nói lên rằng pupropion hay venlafaxine có thể có hiệu quả.
Liều lượng tương đương như dành cho liều trầm cảm.
- Thuốc chống trầm cảm ba vòng (imipramine, desipramine, nortriptyline) có thể
được chỉ định cho trẻ ADHD. Tuy vậy, một vài báo cáo đã miêu tả những cái chết
bất ngờ của nam giới dùng desipramine.
- Clonidine và guanfacine được sử dụng với những báo cáo tổng hợp về hiệu quả.
Những cái chết bất ngờ của trẻ em được báo cáo khi trẻ dùng clonidine với
methylphenidate lúc đi ngủ.
- Liệu pháp hành vi thường hiệu quả khi được sử dụng kết hợp với chế độ thuốc rất
có hiệu quả.
+ Làm việc với bố mẹ trẻ và nhà trường để chắc chắn rằng những môi trường này
là có lợi cho sự tập trung và chú ý là điều cần thiết.
+ Liệu pháp hành vi hay chương trình sửa đổi hành vi có thể giúp giảm bớt dự định
không chắc chắn và tăng cường sự tổ chức.
+ Đối với người lớn bị ADHD, lao động để thiết lập cách giảm bớt sự sao lãng và
tăng cường kỹ năng tổ chức có thể có ích.
Điều trị trẻ ADHD dựa trên điều kiện hóa thao tác (tạo tác, quan sát được) được
chứng minh là ít nhất trong giai đoạn ngắn tăng cường cả hành vi xã hội và học
đường. Trong những cách điều trị này, hành vi của trẻ được kiểm soát ở nhà và ở
trường học, được củng cố để ứng xử phù hợp hơn, ví dụ, để duy trì việc ngồi yên ở
ghế và làm bài tập được giao. Hệ thống cho điểm và mô hình sao là những thành
phần đặc trưng của chương trình này. Trẻ giành được điểm và những trẻ nhỏ hơn
giành được saokhi ứng xử theo những cách phù hợp; và trẻ có thể đổi điểm, sao lấy
15


phần thưởng. Các chương trình này được tập trung để tăng cường việc học tập,
hoàn thành các việc vặt trong nhà, hoặc học những kỹ năng xã hội đặc trưng, hơn

nữa làm giảm những dấu hiệu của tăng động, như chạy nhảy hay ngọ nguậy
(O’Leary và cs, 1976). Các nhà trị liệu đã sáng tạo ra những can thiệp này dựa trên
khái niệm cho rằng tăng động là sự suy yếu ở một số kỹ năng hơn là việc coi là sự
thái quá của những hành vi tiêu cực, phá rối. Mặc dù các trẻ tăng động đáp ứng tốt
với những chương tình này, nhưng cách trị liệu tối ưu cho rối loạn này nên sử dụng
cả thuốc và liệu pháp hành vi (Barkley, 1990; Gittelman và cs, 1980; Pelham và cs,
1993).
Phương thức thưởng điểm, mô hình sao ở trong lớp học, đặc biệt hữu ích cho trị
liệu rối loạn tăng động giảm chú ý. Chăm sóc bệnh nhân ngoại trú. Việc thường
xuyên theo dõi trong thời gian dài là cần thiết với người bị ADHD Cũng giống như
bệnh cao huyết áp hay đái tháo đường, ADHD không phải là một bệnh mà mọi
người có thể trao cho người bệnh một đơn thuốc và yên tâm bình phục với thuốc.
6. Đặc điểm dịch tễ học
Tỉ lệ mắc: Rất khó để tìm ra tỉ lệ mắc của ADHD vì định nghĩa của rối loạn này
biến đổi khác nhau qua thời gian (như trên đã đề cập) và những mẫu dân cư. Ước
chừng tỷ lệ này biến đổi từ 1 đến 20% (DuPaul, 1991; Ross & Ross, 1982,
Szatmari và cs, 1989). Người ta tin rằng rối loạn này có ở con trai nhiều hơn con
gái. Tuy nhiên, một số nghiên cứu dịch tễ học đã thất bại trong việc tìm ra sự khác
nhau giữa tỉ lệ mắc ADHD giữa nam và nữ. Một số nghiên cứu trên nữ mắc
ADHD, nhưng chỉ một vài sự khác nhau được tìm thấy giữa con gái mắc ADHD và
con trai mắc ADHD (Breen, 1989; Horn, Wagner, & Ialongo, 1989; McGee,
Williams, & Silva, 1987).

16


Tiến triển: Có một thời gian người ta đã cho rằng tăng động hết hoàn toàn khi đến
tuổi thanh thiếu niên. Nhưng nhiều nghiên cứu chiều dọc hoàn thành vào những
năm 1980 (Barkley và cs, 1990; Gittelman và cs, 1985; Mannuzza và cs, 1991;
Weiss & Hechtman, 1986) cho thấy có hơn 70% trẻ mắc ADHD vẫn có chẩn đoán

này khi ở tuổi thanh thiếu niên (Barkley và cs, 1990).
Cùng với sự cựa quậy không yên, thiếu tập trung, hành vi xung động, thanh thiếu
niên ADHD phải bỏ học nhiều hơn bạn cùng lứa rất nhiều. ở tuổi trưởng thành,
mặc dù hầu hết đều có công việc và độc lập về tài chính, nhưng nói chung họ có
mức thấp hơn về tình trạng kinh tế xã hội và thay đổi việc làm thường xuyên hơn.
Hầu hết trẻ em mắc ADHD có cuộc sống tâm thần tương đối tốt khi trưởng thành.
ADHD tiếp tục tồn tại một cách hoàn toàn ít nhất 15-20% đến lúc trưởng thành,
khoảng 65% có thể tiếp tục có những triệu chứng không rõ ràng của ADHD gây trở
ngại đến việc nhận ra đúng bệnh hay công việc của người bệnh.

17


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả đặc điểm ADHD ở trẻ 6 – 12 tuổi
2. Mô tả thực trạng các bệnh tâm thần kèm theo ở trẻ khám ADHD
3. Phân tích các mối liên quan giữa ADHD và các bệnh tâm thần kèm theo

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Trẻ có độ tuổi 6-12 tuổi, đến khám và điều trị tại bệnh
viện Nhi Trung ương năm 2014.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.
Kỹ thuật và tiêu chuẩn chẩn đoán: Theo thang đo NICHQ Vanderbilt mẫu đánh
giá dành cho các bậc cha, mẹ trẻ [4].
Phương pháp thu thập số liệu: Các bậc cha, mẹ có con khám, chữa bệnh tại khoa
tâm bệnh tự nguyện tham gia nghiên cứu dưới sự giải thích và sự tự nguyện. Các
bậc cha, mẹ điền phiếu theo hướng dẫn của các cán bộ y tế bệnh viện.
Phương pháp phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích
số liệu bằng phần mềm STATA 10.0. Sử dụng kiểm định thống kê khi bình phương,
kiểm định Fisher’s Exact đối với các trường hợp trong bảng có ít nhất một giá trị

nhỏ hơn 5. Sử dụng OR để đo yếu tô nguy cơ.

18


DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Một số đặc điểm dịch tễ học của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1, Đánh giá điểm tăng động
n

Trung bình

Độ lệch chuẩn

Nam
Giới
Nữ
6-9 tuổi
Nhóm tuổi 9-12 tuổi
Tổng
Nhận xét:

Biểu đồ 1, Kết luận dấu hiệu giảm chú ý ở trẻ
Nhận xét:

Bảng 2, Đánh giá dấu hiệu tăng động ở trẻ
19

p



n
Giới
Nhóm tuổi
Tổng

Trung bình

Độ lệch chuẩn p

Nam
Nữ
4-6 tuổi
6-17 tuổi

Nhận xét:

Biểu đồ 2, Tỷ lệ tăng động ở trẻ
Nhận xét:

20


Biểu đồ 3. Kết quả chẩn đoán ADHD

21


2. Ảnh hưởng của ADHD tới rối loạn chống đối, thách thức ở trẻ
Bảng 3. Ảnh hưởng ADHD trội về giảm chú ý tới

các hành vi chống đối, thách thức ở trẻ
Các hành vi chống đối, thách
thức
Cãi lại người lớn
Khó kiềm chế, nóng tính
Không tuân theo /từ chối
yêucầu, quy định người

ADHD trội về giảm chú ý
Mắc ADHD
Không
SL %
SL %


Không

Không

Không

lớn
Quấy rầy làm phiền người Có
Không
khác
Đổ lỗi cho người khác về Có
lỗi hoặc hành vi sai của
mình
Dễ nổi giận hoặc bực tức
với người khác

Giận giữ hoặc bực bội
Hằn học và muốn trả thù

Không

Không

Không

Không

Tổng
Nhận xét:
Bảng 4. Ảnh hưởng ADHD dạng trội về tăng động đến
các hành vi chống đối, thách thức
22

p

OR
(95%CI)


Các hành vi chống đối, thách
thức
Cãi lại người lớn
Khó kiềm chế, nóng
tính
Không tuân theo/từ
chối yêucầu, quy


ADHD trội tăng động
Mắc
Không
SL %
SL %

p

OR
(95%CI)


Không

Không

Không

định người lớn
Quấy rầy làm phiền


Không
người khác
Đổ lỗi cho người khác Có
về lỗi hoặc hành vi sai

Không


của mình
Dễ nổi giận hoặc bực


Không
tức với người khác

Giận giữ hoặc bực bội
Không
Hằn học và muốn trả Có
Không
thù
Tổng
Nhận xét:
Bảng 5. Ảnh hưởng ADHD đến rối loạn chống đối, thách thức theo
thang đo NICHQ Vanderbilt
Rối loạn chống đối,
Các dạng ADHD

thách thức
Mắc
Không
SL %
SL %

ADHD trội giảm chú Mắc
23

p


OR
(95%CI)


ý
ADHD trội tăng

Không
Mắc

động

Không
Mắc
Xác định mắc ADHD
Không
Tổng

Nhận xét:

24


3. Ảnh hưởng của ADHD tới lo âu, trầm cảm ở trẻ
Bảng 6. Mối liên quan giữa ADHD trội giảm chú ý
với dấu hiệu lo âu, trầm cảm
ADHD trội giảm chú ý
Mắc
Không
Các rối loạn lo âu, trầm cảm

SL %
SL %
Sợ hãi, lo âu hoặc lo
lắng
Sợ thử những điều
mới vì lo sợ mắc lỗi
Cảm thấy vô dụng
kém cỏi
Tự trách bản thân,
cảm thấy có lỗi
Cảm thấy cô đơn, vô
tích sự , không được
yêu quý, phàn nàn
không ai yêu mình
Buồn rầu u sầuh oặc
trầm cảm
Kém tự tin, dễ bối rối
Tổng
Nhận xét:

25

p

OR
(95%CI)


×