Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tảo hôn – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.29 KB, 17 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CHỦ ĐỀ 5: Tảo hôn – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi thực hiện các quy định của
pháp luật về kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhằm chung sống với nhau và
xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Hôn nhân là sự liên kết giữa nam
và nữ trong quan hệ vợ chồng. Sự liên kết này không chỉ là việc riêng tư giữa
hai cá nhân mà còn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Do vậy, các quốc gia
trên thế giới đều coi hôn nhân là đối tượng của lập pháp nên được điều chỉnh. Ở
nước ta, sự liên kết giữa nam và nữ trong quan hệ vợ chồng phải được Nhà nước
thừa nhận bằng một sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý: đăng ký kết hôn. Như
vậy, kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn, là sự kiện pháp lý làm phát
sinh quan hệ hôn nhân.
Khi thực hiện kết hôn, một trong những điều kiện quan trọng cần phải
tuân thủ là độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại điểm
a, khoản 1, điều 8, Luật Hôn nhân gia đình (HNGĐ) 2014: “ Nam từ đủ 20 tuổi
trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Sở dĩ có quy định như vậy là hoàn toàn dựa
trên cơ sở khoa học của điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, cũng như dựa trên
những nghiên cứu về tâm sinh lý của con người. Điều quan trọng hơn cả là để họ
có thể đảm đương trách nhiệm làm vợ chồng, làm cha mẹ khi bước vào cuộc
sống hôn nhân. Từ đó là điều kiện cần thiết để cuộc sống gia đình ấm no, hạnh
phúc.
Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiện nay việc nam nữ kết
hôn trước độ tuổi luật định (tảo hôn) vẫn diễn ra phổ biến ở một số vùng miền
trên cả nước, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, những nơi trình độ dân
trí còn thấp, chất lượng cuộc sống không được đảm bảo. Tảo hôn không những
thể hiện sự cổ hủ, lạc hậu của chế độ cũ mà nó còn là nguyên nhân cản trở sự


phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Chính vì những lí do đó khiến em có động


lực lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tảo hôn – Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp”.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
1. Khái quát chung về kết hôn và tuổi kết hôn
Kết hôn là sự kiện pháp lý được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ, khi hai bên nam nữ tuân
thủ quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Trên cơ sở
đảm bảo sự tồn tại bền vững của hôn nhân, cùng với sự nghiên cứu quá trình
phát triển về tâm sinh lý của con người, vào khả năng nhận thức, khả năng chịu
trách nhiệm duy trì cuộc sống hôn nhân, đặc điểm kinh tế - xã hội... mà pháp
luật nước ta đã có những quy định cụ thể về độ tuổi kết hôn của nam và nữ. Từ
khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, các đạo luật
HNGĐ các năm 1959, 1986, 2000 đều quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu của
nam là 20, nữ là 18. Đến Luật HNGĐ 2014 thì có quy định chặt chẽ hơn: nam từ
đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi.
Quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu không những đảm bảo con cái sinh ra
được khỏe mạnh về thể lực và trí lực, được chăm sóc, giáo dục toàn diện để trở
thành công dân có ích cho xã hội mà còn bảo vệ quyền lợi cho người vợ sau kết
hôn (quyền yêu cầu ly hôn, quyền tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản
thân...). Như vậy, quy định độ tuổi kết hôn là để bảo vệ lợi ích cho cá nhân, gia
đình và xã hội. Trên quan điểm tự do hôn nhân, khi đã đến tuổi, nam nữ kết hôn
khi nào là tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện và sở thích của mỗi cá nhân theo
khuôn khổ pháp luật. Pháp luật không quy định độ tuổi kết hôn tối đa cũng như
không quy định sự chênh lệch tuổi giữa vợ và chồng.[1]
2. Khái quát về tảo hôn


Tuổi kết hôn tối thiểu đã được thi hành ở Việt Nam từ những năm 60 của

thế kỷ trước. Song, trên thực tế vẫn có không ít trường hợp tảo hôn xảy ra trên
toàn quốc. Tảo hôn là vấn đề mang tính thực tiễn, một sự thật khách quan đã và
đang tồn tại trong thực tế. Xét thấy tầm ảnh hưởng của nó là không nhỏ, các nhà
làm luật đã nêu ra khái niệm tảo hôn trong khoản 8, điều 3, Luật HNGĐ 2014:
“Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật này” (tức nam chưa đủ 20
tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi)
Ta thấy, trong quy định của luật đề cập đến “tảo hôn là việc lấy vợ, lấy
chồng...” mà không nói rằng “tảo hôn là việc kết hôn...”. Điều này chứng tỏ
rằng, nam nữ lấy vợ, lấy chồng trước tuổi thì chắc chắn không thể đăng ký kết
hôn nên mặc dù có chung sống như vợ chồng trên thực tế cũng không được pháp
luật công nhận. Nếu trong thời gian chung sống, các bên nảy sinh mâu thuẫn dẫn
đến ly hôn thì yêu cầu của họ cũng không đươc Tòa án chấp nhận mà Tòa án chỉ
tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Hoặc có thể sau một thời gian chung
sống, một trong hai bên đăng ký kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác mà phát sinh tranh chấp thì việc giải quyết không thể thấu tình đạt
lý. Điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến tâm lý, tình cảm hoặc thiệt hại về tài
sản cho một trong hai bên mà còn gây khó khăn cho cơ quan hộ tịch cũng như
Tòa án trong việc giải quyết những tranh chấp phát sinh.[1]
Tảo hôn là hành vi bị cấm theo quy định tại điểm b, khoản 2, điều 5, Luật
HNGĐ 2014. Những trường hợp tảo hôn, tổ chức tảo hôn đều bị coi là vi phạm
pháp luật và tùy theo mức độ vi phạm đối với từng trường hợp cụ thể có thể bị
xử phạt vi phạm hành chính theo điều 47, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của
Chính phủ hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 183 Bộ luật hình sự
2015.
II. Thực trạng nạn tảo hôn ở Việt Nam
1. Chuyển biến tích cực


Trong nhiều năm trở lại đây, cùng với việc ban hành các đạo luật về hôn

nhân gia đình, Nhà nước đã không ngừng phổ biến, tuyên truyền rộng rãi quy
định của pháp luật trên các phương tiên thông tin đại chúng; treo băng rôn, khẩu
hiệu, tranh cổ động để nâng cao hiểu biết người dân từ đó nâng cao ý thức tôn
trọng, chấp hành pháp luật về độ tuổi kết hôn cũng như kế hoạch hóa gia đình.
Nhờ vậy, theo khảo sát của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, trong
những năm 2005 – 2010, tình trạng tảo hôn ở các dân tộc thiểu số giảm từ 80%
xuống còn 31%. Nhiều người đã hiểu rõ và thay đổi quan điểm về thủ tục lạc
hậu, chấp hành tốt quy định của pháp luật.
Tỉnh Yên Bái, một địa phương tiêu biểu về vấn nạn tảo hôn cũng đạt được
nhiều tiến bộ đáng kể. Thông qua Dự án “Can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn
và kết hôn cận huyết thống” triển khai ở 15 xã thuộc 4 huyện Văn Chấn, Văn
Yên, Trạm Tấu và Mù Cang Chải, đồng bào đã được nâng cao nhận thức về tác
hại của việc tảo hôn và kết hôn cận huyết thống. Nhờ đó, số cặp tảo hôn đã giảm
từ 31,1% (năm 2011) xuống 22,2% (năm 2013). Năm 2014, số cặp tảo hôn còn
77 trường hợp. Sáu tháng đầu năm 2015, chỉ có 31 trường hợp tảo hôn.[4]
2. Tồn tại tiêu cực
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phổ biến pháp luật,
nhưng tình trạng tảo hôn vẫn còn khá nhức nhối và diễn biến phức tạp. Kết quả
điều tra năm 2015 của Ủy ban Dân tộc về vấn đề tảo hôn tại Việt Nam cho thấy,
tình trạng tảo hôn xảy ra ở 63 tỉnh thành trên cả nước, đặc biệt các dân tộc thiểu
số sinh sống ở vùng khó khăn chiếm tỉ lệ tảo hôn cao nhất. Điều này làm giảm
chất lượng dân số tương lai, đe dọa nghiêm trọng tính mạng và sức khỏe của các
em gái và trẻ sơ sinh.
Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 Dân tộc thiểu số
(DTTS) năm 2015, do Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê phối hợp thực
hiện, tỷ lệ tảo hôn chung trong các DTTS là 26,6%, tỷ lệ tảo hôn cao nhất thuộc
các DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn như: Ơ Đu


73%; Mông 59,7%; Xinh Mun 56,3%; La Ha 52,7%; Rơ Măm 50%, Brâu 50%,

…[5]
Trung du miền núi phía Bắc là các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các
vùng khác trong cả nước. Trong độ tuổi từ 10 - 17 tuổi, cứ 10 em trai thì có 1 em
có vợ, 5 em gái có 1 em có chồng. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao là Lai Châu, Hà
Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, trong đó tỉnh Lai Châu
có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là 18,6% [6]. Theo phong tục của nhiều dân tộc, trẻ em
khi đến tuổi 14 - 15 hoặc thậm chí sớm hơn đã đến tuổi dựng vợ, gả chồng. Cha
mẹ hai bên sẽ làm lễ dạm ngõ rồi làm lễ cưới cho con. Nếu bị chính quyền địa
phương biết và can thiệp, họ sẽ xin khất để đến khi đủ tuổi sẽ làm thủ tục đăng
ký kết hôn.
Tại xã Nậm Có, huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái, chính chủ tịch xã lại
là người đồng tình với lệ tảo hôn và là ông bố của “chú rể” tảo hôn, đối với
những trường hợp vi phạm như vậy, cán bộ đến lập biên bản xử phạt hành chính,
nhưng nộp phạt xong thì họ lại tiếp tục về sống chung với nhau, đợi đến khi đủ
tuổi làm đăng ký kết hôn. Có những trường hợp thương tâm, người phụ nữ tìm
đến cái chết bằng lá ngón nên chính quyền lại trùng xuống, không cấm nữa. Hỏi
người dân thì họ trả lời: “Cán bộ phạt thì phạt thôi, còn lấy nhau chúng tôi vẫn
lấy chứ”. Vậy là phép vua đã thua lệ làng và tảo hôn vẫn diễn ra như một tất
yếu.
Tại một số buôn làng ở Tây Nguyên, do nhận thức còn hạn chế nên vẫn
tồn tại việc trai gái lấy vợ, lấy chồng sớm, dẫn đến nhiều hệ lụy cho gia đình, xã
hội. Nạn tảo hôn đang là thực trạng nhức nhối.

Qua tìm hiểu, tình trạng tảo

hôn ở vùng đồng bào DTTS tại Gia Lai đang có chiều hướng gia tăng trong thời
gian gần đây. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp, trong vòng 10 năm trở lại
đây, riêng tỉnh Gia Lai xảy ra 1.118 vụ tảo hôn. Tình trạng bỏ học, lấy chồng, vợ
sớm ở các tỉnh Tây Nguyên đang rất báo động. Năm 2011, tỉnh Kon Tum có
khoảng 200 cặp tảo hôn và đến nay, con số đó tăng lên khá nhiều, tập trung ở ba

huyện: Đác Tô, Ngọc Hồi và Đác Glei. Thống kê của Ủy ban Dân số - Gia đình


và Trẻ em tỉnh Kon Tum, tại xã Rờ Kơi, trong tổng số 333 trường hợp được
khảo sát, có tới 269 trường hợp tảo hôn, chiếm 80,78%; trong số 269 trường hợp
tảo hôn, nữ chiếm 76,95%, nam chiếm 23,05%, có đến 93,39% lấy nhau do tự
nguyện, 193 người chưa đăng ký kết hôn.[7]
Phó Chủ tịch UBND xã Đác Rơ Nga, huyện Đác Tô, A Hrút bộc bạch: "Ở
xã mình, tình trạng học sinh bỏ học, bắt chồng vẫn xảy ra, mặc dù UBND xã
hằng tuần đều họp giao ban để triển khai cho các ban ngành, nhất là các chị em
ở chi hội phụ nữ về các thôn, làng tích cực tuyên truyền, vận động bà con bỏ các
hủ tục lạc hậu, trong đó có nạn tảo hôn, đời sống gia đình sẽ khổ, sẽ thiếu đói,
con cái không biết chữ... Thế nhưng bà con không chịu nghe".
Không riêng gì các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ hay Tây Nguyên, tại
các khu vực đồng bằng thành thị, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra dải dác. Tại
An Giang có 185 cặp vợ chồng tảo hôn, tại Đồng Tháp có 179 cặp, Ninh Thuận
76 cặp. Ngay cả 2 trung tâm kinh tế hàng đầu là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh vẫn còn các cặp đôi tảo hôn với con số lần lượt là 42 và 37 cặp. Từ các số
liệu nêu ra trên đây, có thể thấy, vấn nạn tảo hôn vẫn còn diễn ra ở hầu khắp các
địa phương trong cả nước, từ Bắc vào Nam, từ thành thị đến nông thôn, từ miền
núi đến đồng bằng.
III. Những khó khăn đặt ra từ nạn tảo hôn
Thứ nhất, các cặp vợ chồng tảo hôn còn quá trẻ, còn phụ thuộc vào gia
đình và chưa thể sống tự lập, thậm chí theo pháp luật thì năng lực hành vi dân sự
của họ chưa đầy đủ. Những trường hợp tảo hôn ra ở riêng sẽ gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống hơn những cặp đôi trưởng thành. Khi xảy ra mâu thuẫn dẫn đến
ly hôn lại gây khó khăn cho gia đình và chính quyền khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, tảo hôn sẽ sinh ra những đứa trẻ còi cọc, khả năng chống lại
bệnh tật kém cho nên dễ mắc bệnh, nhất là các bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa.
Ngoài ra, những đứa con kém phát triển về trí tuệ, khả năng học tập kém, không

có khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học, công nghệ mới, sẽ không thể phát


triển được sản xuất cũng như kinh doanh. Như vậy, gia đình phải chăm lo sức
khỏe cho con nhiều hơn, tốn kém nhiều tiền của hơn và sẽ rất khó thoát khỏi đói
nghèo, dòng dõi gia đình sẽ bị suy thoái.
Thứ ba, tảo hôn thì vợ, chồng sẽ không có điều kiện học tập, rèn luyện,
phấn đấu để trưởng thành cũng như chăm lo cho gia đình, mặt khác chưa phát
triển đầy đủ về cả sinh lý và tâm lý, chưa đủ khả năng để chăm sóc con phát
triển một cách bình thường, khỏe mạnh, dạy dỗ con đàng hoàng, học hành tử tế,
do vậy những đứa con đó lớn lên sẽ rất thua thiệt về nhiều mặt như sức khỏe,
học hành, tìm việc làm…
Thứ tư, xã hội sẽ phải chăm lo nhiều hơn về mặt y tế, điều kiện học hành,
việc làm đặc biệt là trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế... đòi hỏi mỗi con người phải có trí tuệ phát triển, có thể hình, có
sức khỏe tốt... những đứa con của những người tảo hôn sẽ không đáp ứng được
yêu cầu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Thứ năm, đói nghèo - thất học - tảo hôn là một vòng luẩn quẩn, là một
chuỗi các mắt xích khép kín, khó có lối thoát. Thực tế cho thấy, nơi nào có tỷ lệ
đói nghèo cao thì tỉ lệ tảo hôn cũng cao. Như đã nghiên cứu, phát triển kinh tế xã hội và giáo dục là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn. Tuy nhiên,
ở góc nhìn này, ta thấy trình độ phát triển kinh tế và giáo dục còn là hậu quả của
tảo hôn, làm suy giảm chất lượng cuộc sống.
IV. Nguyên nhân của tảo hôn
Có thể nói, tảo hôn là một hủ tục có từ rất lâu đời, là hệ quả của nhận thức
yếu kém. Từ những thực trạng của tảo hôn, có thể đánh giá rằng nó có rất nhiều
nguyên nhân, trong đó bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.Trước
tình trạng báo động về nạn tảo hôn như hiện nay, việc nghiên cứu và chỉ rõ
nguyên nhân của vấn đề là công việc hết sức quan trọng bởi có hiểu rõ được căn



nguyên, mấu chốt của vấn đề mới có thể đưa ra được những giải pháp mang tính
thiết thực, hiệu quả để ngăn chặn triệt để vấn nạn này.
1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do ảnh hưởng bởi những quan niệm, thành kiến, phong tục tập
quán lạc hậu.
Phong tục, tập quán của các DTTS tồn tại và ăn sâu trong nhận thức của
người dân từ nhiều đời nay và ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ trong đời sống,
sinh hoạt của phần lớn đồng bào các DTTS. Quan hệ hôn nhân và gia đình cũng
không nằm ngoài sự chi phối đó, một số tập tục vẫn còn duy trì đến bây giờ. Đối
với họ, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán; việc lấy
vợ, lấy chồng mà chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong làng hoặc
của cha mẹ hai bên nam nữ và sự chứng kiến của gia đình, họ hàng, làng xóm.
Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; quan niệm kết hôn trong họ tộc để lưu
giữ tài sản trong gia đình không mang của cải sang họ khác hay như tục lệ bắt
vợ, tục “nối dây”, cưỡng ép hôn nhân. Tục bắt vợ ngày trước được coi là một nét
đẹp văn hóa, nhưng hiện nay, tục bắt vợ kéo theo nhiều kệ lụy khôn lường như
nạn tảo hôn, nạn bắt cóc, buôn bán người trái phép... Không chỉ vậy, xuất phát từ
những hạn chế trong cuộc sống với thói quen ở vùng núi xa xôi hẻo lánh, nhà
nào cũng có tâm lý muốn sớm có con đàn cháu đống, thêm lao động cho gia
đình. Nhà nào có con gái thì muốn gả sớm để bớt miệng ăn, nhà nào có con trai
thì muốn cưới vợ sớm để lo toan cuộc sống, có thêm lao động trong gia đình.
Thứ hai, do tác động, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, con người dần biến đổi để thích nghi được
với những điều kiện mới. Họ trở nên năng động, sáng tạo, linh hoạt và độc lập
hơn trong cách nghĩ, cách làm. Quan điểm đời sống của họ cũng trở nên cởi mở
hơn, đơn giản hơn, không bị gò bó bởi quan niệm thành kiến đạo đức xưa. Vì
vậy, con người dễ dàng thiết lập các mối quan hệ với nhau. Một trong những hệ
lụy đó là việc chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ trở nên hết sức bình



thường và làm gia tăng tỉ lệ mang thai sớm dẫn đến tăng tỉ suất sinh con vị thành
niên. Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm gia tăng tình trạng tảo hôn ở
vùng DTTS.
Thứ ba, do quy định của pháp luật còn chưa phù hợp.
Tình trạng lơi lỏng pháp luật, thực thi pháp luật chưa kiên quyết, triệt để
trong lĩnh vực quản lý đăng ký kết hôn cũng như trong lĩnh vực hộ tịch. Chế tài
của Luật còn chưa nghiêm khắc, chưa đủ sức răn đe. Điều 47, Nghị định số
110/2013/NĐ – CP của chính phủ quy định về mức xử phạt đối với hành vi tảo
hôn và tổ chức tảo hôn như sau: “Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn:
1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi
tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì
quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có
quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó.”
Thay cho trước đây ở Nghị định 87/2001/ NĐ – CP quy định hình thức
phạt đối với hành vi tổ chức tảo hôn và cố ý duy trì quan hệ hôn nhân trái pháp
luật mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó chỉ
là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng. Hiện nay, quy
định hình thức xử phạt đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa
đủ tuổi kết hôn là phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Tuy tiền phạt
có tăng lên nhưng so với giá trị của đồng tiền đang trượt giá như hiện nay thì
chẳng khác nào giảm mức phạt, bởi ngày đó giá vàng rơi vào khoảng 530.000
đồng/chỉ còn bây giờ đã là 3.680.000 đồng/chỉ . Đối với khoản 2 điều này thì
liệu rằng có được bao nhiêu trường hợp trong tổng số vụ tảo hôn được mang ra
trước pháp luật để nhận phán quyết của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ
hôn nhân trái pháp luật? Chắc hẳn con số đó chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ nếu không
muốn nói là chỉ đếm trên đầu ngón tay. Với đa số các gia đình nghèo, họ không
có khả năng nộp phạt thì khả năng thực hiện biện pháp cưỡng chế của chính



quyền địa phương sẽ là rất khó khăn. Còn đối với những gia đình có điều kiện
thì khỏi nói, họ sẵn sang mang tiền đi nộp phạt để đạt mục đích. Họ cho rằng
nộp phạt là tuân thủ pháp luật và nộp xong họ sẽ được công nhận là vợ chồng.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật còn
nhiều hạn chế
Ở nhiều vùng DTTS, trình độ dân trí thấp, người dân tộc do bất đồng
ngôn ngữ nên không thể hiểu rõ ý nghĩa của các quy định của pháp luật và điều
này cũng gây nhiều khó khăn trong việc trang bị, tuyên truyền pháp luật đến
người dân. Ngoài ra, phần lớn các trường hợp tảo hôn đều rơi vào các hộ nông
thôn, thanh thiếu niên bỏ học, trình độ hiểu biết hạn chế. Có thể nhận định rằng,
công tác tuyên truyền, giáo dục về luật Hôn nhân – gia đình chưa được thực hiện
một các sâu rộng và hiệu quả. Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chưa có sự
quan tâm đúng mức đến nhận thức của nhân dân, chưa có giải pháp mạnh mẽ để
chấn chỉnh và xử lý triệt để những trường hợp tảo hôn và tổ chức tảo hôn.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như các gia đình ở Việt Nam, đặc
biệt là ở các tỉnh miền núi còn chưa được quan tâm đúng mức; công tác giáo dục
giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên còn ít, mới chỉ dừng lại ở các thành
phố lớn. Mặt khác, một số gia đình mải làm ăn, không quan tâm đến sự phát
triển tâm lý cũng như thể chất của con em mình, hay một số gia đình bố mẹ ly
hôn, cãi nhau tạo tâm lý chán chường, bất cần, buông thả ở một bộ phận thanh
niên. Vì vậy, nhiều em đã làm cha, làm mẹ khi đang độ tuổi vị thành niên.
2. Nguyên nhân chủ quan
Do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân còn hạn chế
Trình độ dân trí thấp kém kéo theo bao hậu quả như các tệ nạn xã hội
phát triển và một trong số đó là nạn tảo hôn cũng bùng nổ. Tuy đã đạt được
những thành tựu nhất định về phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng đối với vùng dân
tộc thiểu số, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn đang gặp phải các thách thức
lớn về chất lượng giáo dục và bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa nhóm



dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, giữa nông thôn và thành thị và giữa các vùng,
miền.
Tình trạng học sinh bỏ học vẫn tái diễn, Tỉ lệ biết chữ ở nhóm dân tộc
thiểu số từ 10 tuổi trở lên ở mức thấp và có sự chênh lệch lớn so với nhóm dân
tộc Kinh (83,8% so với 96,8% năm 2012). Ở nhóm tuổi 15 - 24, chỉ có 82,3%
phụ nữ dân tộc thiểu số biết đọc biết viết (tỷ lệ chung là 96,4%), nghĩa là cứ 05
phụ nữ dân tộc thiểu số ở nhóm tuổi 15 - 24 thì có 01 người không biết đọc biết
viết. Thực tế cho thấy, do xuất phát từ cách suy nghĩ, thói quen của đồng bào
vùng dân tộc thiểu số. Đối với họ, việc bỏ tiền ra cưới vợ cho con cái cũng đồng
nghĩa với việc trong nhà sẽ có thêm người làm nương, làm rẫy, có thêm người
cáng đáng việc gia đình. Do đó, việc cưới con dâu về nhà được diễn ra càng sớm
lại càng tốt.
V. Giải pháp loại bỏ tảo hôn
Nhận thức được tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, Đảng và
Nhà nước Việt Nam, các ngành, các cấp, các địa phương đã có nhiều chủ trương,
chính sách tiến hành vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các giải pháp
đồng bộ nhằm thực hiện chiến lược nâng cao sức khỏe, tầm vóc người Việt
Nam. Và cũng căn cứ từ những nguyên nhân đã trình bày về vấn nạn tảo hôn,
em xin mạnh dạn đưa ra những phương án giải quyết sau đây:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
Nguyên nhân cốt lõi khiến nạn tảo hôn bùng nổ chính là do công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức về pháp luật, về hôn nhân gia đình, về
sức khỏe sinh sản còn yếu khiến người dân không biết và không có ý thức chấp
hành và tuân thủ pháp luật. Để hạn chế được điều đó cần phải đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng công tác tuyên truyền giáo dục các kiến thức về pháp luật, về hôn
nhân gia đình, về sức khỏe sinh sản cho người dân, đặc biệt là đồng bào thiểu số,
người miền núi, vùng sâu vùng xa. Chính quyền các cấp cần tập huấn nâng cao



kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, vận động cho đội ngũ cán bộ dân số cơ sở. Các
ban, ngành, đoàn thể phải phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc tuyên
truyền chính sách dân số nói chung và phòng tránh tảo hôn nói riêng. Thực hiện
công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục phải mở rộng theo hướng xã hội hoá.
Huy động tối đa các tổ chức có dân tham gia tuyên truyền, vận động các chính
sách dân số gia đình và trẻ em qua nhiều hình thức như truyền thông đại chúng,
tuyên truyền trực tiếp qua các hội nghị của các ngành, đoàn thể các cấp, đồng
thời tăng cường hoạt động của đội ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở.
2. Nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản
Đây là một giải pháp vừa quan trọng vừa khó khăn.Mọi hủ tục lạc hậu đều
xuất phát từ sự kém hiểu biết, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi mà
tình trạng tảo hôn là phổ biến. Cần có sự tuyên truyền nhận thức mới, xóa bỏ
những hủ tục, nếp sống không văn minh, phổ cập, giáo dục kiến thức khoa học,
giới tính mà cụ thể là các tác động xấu của việc tảo hôn, kết hôn chưa đên tuổi
pháp luật quy định. Đưa nội dung giáo dục giới tính; các quy định pháp luật về
hôn nhân và gia đình (như điều kiện về độ tuổi kết hôn, những điều cấm trong
hôn nhân…); về tác hại, hậu quả của tảo hôn vào trong chương trình giáo dục ở
trường phổ thông trung học và phổ thông dân tộc nội trú. Tăng cường công tác
hướng nghiệp, hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt đoàn, đội, câu lạc bộ, tổ, nhóm…
trong trường học để tuyên truyền, cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật về hôn nhân và gia đình đối với học sinh. Triển khai
các hoạt động phù hợp với các yếu tố về văn hóa, giới tính, lứa tuổi và dân tộc
để tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, vận động xóa bỏ những hủ tục
lạc hậu và phòng chống tảo hôn: Tuyên truyền, vận động trực tiếp, trực diện
thông qua các điểm truyền thông; qua các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý
miễn phí tại cộng đồng và lưu động tại các bản. Lồng ghép các hoạt động tuyên
truyền, vận động với các hoạt động văn hóa, lễ hội tại cộng đồng, các cuộc họp,
hội nghị, sinh hoạt của chính quyền, đoàn thể, các câu lạc bộ, các tổ, nhóm. Phát
huy vai trò của người uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; nêu gương người



tốt, việc tốt trong việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình và công tác dân số,
kế hoạch hóa gia đình; tuyên truyền, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu tồn
tại ở một số dân tộc thiểu số trong hôn nhân.Công tác này rất khó khăn và đòi
hỏi sự kiên trì, phối hợp của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương
bởi lẽ, các hủ tục này đã ăn sâu vào đời sống tinh thần hàng ngày của người dân
bản địa.
3. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền trong quá trình quản lý
Với vai trò thực hiện pháp luật trong đời sống, các cơ quan chính quyền
địa phương có nhiệm vụ rất quan trọng trong vấn đề bài trừ nạn tảo hôn tại địa
phương mình. Do đó:
Thứ nhất, cần có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa, quan tâm hơn nữa của các
cấp chính quyền trong việc phổ cập kiến thức về hôn nhân và gia đình cũng như
giám sát việc thực hiện các công tác về truyên truyền kiến thức. Đưa mục tiêu về
hôn nhân và gia đình vào chương trình, kế hoạch hoạt động của chính quyền và
các đoàn thể ở địa phương hàng năm.
Thứ hai, cần quan tâm tới công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân số gia đình và trẻ em cấp huyện. Với các chức danh
lãnh đạo cần lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh vững
vàng để tránh trường hợp họ vì lợi ích kinh tế mà tiếp tay cho nạn tảo hôn diễn
ra tại địa phương mình.
Thứ ba, cần phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau, giữa các cấp
với nhau trong công cuộc đẩy lùi hủ tục, thực hiện nếp sống văn minh, lành
mạnh, tiến bộ. Ngoài ra, chính quyền địa phương cần có các chính sách kiên
quyết nhưng hợp lý nhằm xử lý và loại bỏ tình trạng tảo hôn trong đời sống. Cụ
thể, khi có hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, tòa án nhân dân có thể xử hủy
việc kết hôn trái pháp luật.
4. Cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là nhân dân miền núi,
vùng sâu vùng xa



Theo quan niệm của những người dân miền núi, họ không coi trọng việc
học hành, giáo dục mà chỉ quan tâm đến việc kiếm miếng cơm manh áo hàng
ngày nên dẫn đến thực trạng nhiều em bỏ học giữa chừng, thậm chí là không
được đi học để ở nhà làm việc. Đây vừa là nguyên nhân dẫn đến hiểu biết lạc
hậu, vừa khiến cho công tác truyên truyền, giáo dục không phát huy hiệu quả
đến cùng. Vì vậy, việc kết hợp giữa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần với
công tác phổ cập kiến thức là quan trọng.
Thứ nhất, cần có sự triển khai đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế
gia đình của nhà nước. Song song với đầu tư cho các vùng kinh tế động lực, cần
quan tâm đầu tư cho nông thôn. Ưu tiên hỗ trợ cho gia đình người dân chính
sách, gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình vùng sâu vùng
xa, vùng khó khăn nhằm nỗ lực xoá dần sự chênh lệch giữa các vùng, từng bước
nâng cao đời sống nhân dân, xoá bỏ tư tưởng, phong tục lạc hậu về vấn đề tảo
hôn cũng như ma chay, cúng bái.
Thứ hai, phải bảo đảm cho tất cả gia đình dân tộc thiểu số có đất sản xuất
và việc làm. Góp phần hiệu quả cho công tác xoá đói giảm nghèo; nâng cao
nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác hướng nghiệp trong các trường phổ thông,
phát triển các trường dạy nghề cho thanh thiếu niên bước vào tuổi lao động phù
hợp yêu cầu phát triển của từng vùng, từ đó có cơ sở tạo việc làm, nghề nghiệp
ổn định cuộc sống.
5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung
và những quy định về vấn đề tảo hôn nói riêng
Căn cứ vào một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn ở nước
ta hiện nay là sự chưa phù hợp của chế tải xử phạt, em cho rằng cần phải quy
định các chế tài xử phạt hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn phù hợp với thực tế.
Một mặt, pháp luật cần giữ nguyên hình thức phạt tiền và tăng mức tiền phạt để
hạn chế nạn tảo hôn, mặt khác lại cần phải bổ sung thêm các hình thức xử phạt



khác sao cho phù hợp với khả năng thực hiện của địa phương, của đối tượng vi
phạm. Ví dụ như áp dụng hình thức bãi miễn chức vụ đối với những người có
chức vụ, quyền hạn mà con của họ kết hôn khi chưa đủ tuổi. Không chỉ vậy, cần
nghiêm khắc thực hiện quy định về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn tại Điều 183
Bộ luật Hình sự 2015, để thể hiện tính răn đe đối với những hành vi trái pháp
luật. Ngoài ra còn một số biện pháp hoàn thiện pháp luật khác như bổ sung các
quy định pháp lý về chuẩn mực gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc bền vững
để làm mục tiêu phấn đấu cho các gia đình cũng như toàn xã hội; xây dựng các
quy phạm pháp luật quy định danh mục các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn
nhân và gia đình không được áp dụng và danh mục các phong tục, tập quán tốt
đẹp được khuyến khích và phát huy; tập hợp các quy phạm pháp luật về các chế
tài đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói
chung và về tảo hôn nói riêng theo một hệ thống văn bản thống nhất, tránh
tình trạng tản mạn, gây khó khăn cho quá trình áp dụng.

C. KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, xã hội là nền tảng của thế giới tương lai.
Một xã hội tốt đẹp khi có những gia đình tốt đẹp, nhưng để có gia đình tốt đẹp
hôn nhân chính là hạt giống để nảy mầm hạnh phúc. Từ ngàn xưa hai tiếng hôn
nhân đã hết sức quen thuộc, bình dị và có ý nghĩa lớn lao. Tạo hóa sinh ra phái
mạnh và phái đẹp để kết hợp tạo thành hai tiếng hôn nhân thiêng liêng ấy. Hôn
nhân theo đúng nghĩa là cái kết đẹp của một tình yêu và mở đầu cho một cuộc
sống hạnh phúc viên mãn. Tuy vậy , hiện nay, ở bất kì địa phương nào trên cả
nước, từ nông thôn đến thành thị, từ vùng núi đến đồng bằng, hiện tượng tảo hôn
vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Hiện tượng này không chỉ gây ảnh hưởng đến
chính bản thân những người vi phạm mà còn ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng
xã hội. Từ khi ban hành các quy định nghiêm cấm tảo hôn, xử phạt đối với các
trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn thì tình trạng tảo hôn ở nước ta đã giảm

thiểu rõ rệt.Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nạn tảo hôn vẫn
là một vấn đề xã hội gây nhiều nhức nhối. Chúng ta cần phải tìm ra được những


giải pháp hữu hiệu để hạn chế, đẩy lùi, tiến tới bài trừ nạn tảo hôn ở Việt Nam,
từ đó tạo ra những tiền đề thuận lợi để phát triển đất nước nói chung và thực
hiện mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá mới, xây dựng gia đình mới hiện đại.
Để làm được điều đó cần phải có sự quan tâm của toàn xã hội, của Đảng và nhà
nước, của các cấp các ngành, trong đó đặc biệt chú ý tới vấn đề giáo dục, tuyên
truyền để thay đổi nhận thức của mỗi cá nhân về tảo hôn và trách nhiệm của mỗi
người trong cuộc đấu tranh đẩy lùi và loại bỏ triệt để nạn tảo hôn khỏi đời sống
xã hội.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Nxb Lao Động, Hà Nội.
3. Chính phủ (2013), Nghị định 110/2013/NĐ –CP Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, Hà Nội.
4. Trung Kiên (2015), Yên Bái nỗ lực giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống, Báo Dân tộc và miền núi, 14/09/2015.
5. Sơn Nam (2016), Hội thảo quốc gia về tình trạng tảo hôn ở Việt Nam,Cổng
thông tin điện tử Ủy ban dân tộc, 26/10/2016.
6. Nguyễn Thị Vân Anh (2017), Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trên
địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc - Thực trạng và một số giải pháp, kiến
nghị,Tạp chí dân chủ và pháp luật, 27/2/2017.
7. Phan Hòa (2015), Sớm loại bỏ nạn tảo hôn ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân điện
tử, 15/07/2015.

8.

/>
giai-phap.htm
Các thuật ngữ viết tắt trong bài
HNGĐ: Hôn nhân gia đình
DTTS: Dân tộc thiểu số



×