Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đặc sắc của hai vở chèo “vong bướm” và “truyền thuyết tìm vua” của nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM THỊ GƢƠNG

ĐẶC SẮC CỦA HAI VỞ CHÈO VONG BƢỚM
VÀ TRUYỀN THUYẾT TÌM VUA CỦA
NGUYỄN HUY THIỆP
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số

: 60. 22. 01. 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Văn Sơn

Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận
đƣợc sự động viên, giúp đỡ của Ban Giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà
Nội, nơi tôi đã học tập, nghiên cứu và hoàn thành cuốn luận văn này. Tôi xin
trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và những ngƣời yêu quý đã
giúp tôi có đƣợc kết quả nhƣ ngày hôm nay.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Chu Văn Sơn. Với học
vấn uyên thâm, niềm đam mê nghiên cứu khoa học, thầy đã hƣớng dẫn tôi tìm
đề tài, nghiên cứu các thành tựu sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, định hƣớng
xây dựng những luận điểm khoa học khách quan, chính xác và nhiệt tình, trách
nhiệm trong quá trình hoàn thiện luận văn của tôi.
Tuy thời gian học tập và nghiên cứu khoa học tại Trƣờng Đại học Sƣ


phạm Hà Nội không nhiều, nhƣng tôi đã học tập và trƣởng thành rất nhiều trong
nhận thức, nghiên cứu khoa học của mình. Kết quả của quá trình đào tạo Thạc sĩ
sẽ giúp tôi vững vàng hơn trong nghề nghiệp mà tôi đã gắn bó và cống hiến trọn
đời mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2017
Người viết
Phạm Thị Gương


CAM ĐOAN
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tất cả các ý tƣởng, đề tài và nội
dung chính của luận văn đều do sự nghiên cứu trung thực, nghiêm túc của tôi.
Khi thực hiện đề tài, tôi có sử dụng các tƣ liệu tham khảo liên quan tới
vấn đề nghiên cứu, nhƣng tất cả chỉ là những gợi ý khoa học cần thiết để tôi phát
triển ý tƣởng của mình. Tất cả tƣ liệu đƣợc dùng, tôi đều có trích dẫn nguồn gốc
một cách rõ ràng.
Công trình nghiên cứu này của tôi cũng chƣa đƣợc công bố trên bất cứ
phƣơng tiện thông tin đại chúng nào.
Tôi xin cam đoan những điều trên là sự thật. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về lời cam đoan của mình.
Người viết
Phạm Thị Gƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 1
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................... 3
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................. 7

3.1. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 7
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................ 7
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................. 7
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ................................................................................ 7
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ..................................................................... 8
NỘI DUNG........................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI CHÈO VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY HIỆP ............ 9
1.1.Vài nét khái quát về thể loại chèo Việt Nam ............................................... 9
1.1.1.Chèo loại hình sân khấu ......................................................................... 9
1.1.2. Chèo loại hình văn học ..................................................................... 14
1.2.Tác giả Nguyễn Huy Thiệp ........................................................................ 16
1.2.1 Nguyễn Huy Thiệp- tài năng lao động nghệ thuật............................... 16
1.2.2. Đóng góp chèo Nguyễn Huy Thiệp .................................................... 18
CHƢƠNG 2: HAI VỞ CHÈO “ VONG BƢỚM” VÀ “ TRUYỀN THUYẾT
TÌM VUA” - NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ TƢ TƢỞNG ...................................... 19
2.1 . Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm” và “ Truyền thuyết tìm vua”............. 19
2.1.1. Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm” .................................................. 19
2.1.2. Tƣ tƣởng riêng trong “Truyền thuyết tìm vua” .................................. 23
2.2. Tƣ tƣởng chung trong “ Vong bƣớm” và “ Truyền thuyết tìm vua” .............. 33
CHƢƠNG 3: HAI VỞ CHÈO “ VONG BƢỚM ” VÀ “TRUYỀN THUYẾT
TÌM VUA” - NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT ................................. 38
3.1. Xung đột chèo ........................................................................................... 38


3.1.1. Khái niệm xung đột chèo .................................................................... 38
3.1.2. Xung đột trên bình diện đạo đức ........................................................ 41
3.1.3. Xung đột trên bình diện nhận thức ..................................................... 45
3.1.4. Yếu tố kì ảo nhƣ một thủ pháp kết cấu nhằm tăng cƣờng kịch tính và
giải quyết các xung đột ................................................................................. 51
3. 2. Nhân vật chèo........................................................................................... 54

3.2.1. Vài nét về nhân vật chèo ..................................................................... 54
3.2.2. Đặc điểm của nhân vật trong chèo Nguyễn Huy Thiệp..................... 56
3.2.2.1. Nhân vật đƣợc xây dựng theo phƣơng pháp mô hình hóa và
chuyển hóa mô hình ................................................................................... 57
3.2.2.2. Nhân vật đƣợc phân tuyến rõ ràng, thể hiện cái nhìn phân cực về
thế giới, có tính chất khái quát hóa cao. .................................................... 58
3.3. Kiến tạo màn cảnh chèo ............................................................................ 66
3.4. Ngôn ngữ chèo .......................................................................................... 74
3.4.1. Ngôn ngữ bắt nguồn từ tiếng nói dân tộc ........................................... 74
3.4.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm .............................................................. 83
3.4.3. Ngôn ngữ có tính năng động, linh hoạt .............................................. 84
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 91
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 95



MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Nếu
sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc
Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu
truyền thống Việt Nam là chèo. Nhìn từ mặt loại thể thì chèo là một loại hình
nghệ thuật đặc biệt: vừa thuộc về văn học, vừa thuộc về sân khấu. Mỗi tác phẩm
chèo chân chính đều thuộc hai đời sống: đời sống văn tự (kịch bản) và đời sống
sân khấu (vở diễn). Đời sống văn tự có trƣớc, đời sống sân khấu có sau. Tác
phẩm chèo nào trƣớc tiên cũng là một tác phẩm văn học. Nhƣng không phải văn

bản chèo nào cũng có thể và có dịp đƣợc dàn dựng thành vở diễn. Do đó, đời
sống văn học, giá trị văn học là giá trị trƣớc nhất và cũng là giá trị sâu bền quyết
định nhất của một tác phẩm chèo. Cũng vì thế, chèo là một trong những bộ phận
cấu thành nên chỉnh thể của nền văn học. Một cách khác, nói đến một nền văn
học, không thể không nói đến một bộ phận văn học là chèo. Vì thế, xem xét
thành tƣu văn học không thể không xem xét thành tựu chèo.
1.2. Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài từ
thế kỉ thứ X tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Kể từ đó đến nay,
qua các chặng đƣờng phát triển, chèo vẫn sánh bƣớc nhẹ nhàng với các bộ phận
khác của văn học nghệ thuật và gặt hái đƣợc những thành tựu không nhỏ.Trên
hành trình cách tân mạnh mẽ của văn học dân tộc nửa sau thập kỉ 80 của thế kỉ
XX, nhất là khi nổi lên ngọn gió đổi mới, chèo đã có những bƣớc chuyển mạnh
mẽ, tạo ra bƣớc ngoặt quan trọng cho loại hình này. Thế nhƣng nhiều năm gần
đây bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, chèo cổ đƣợc cải biên theo xu hƣớng
kịch hóa khi nó bị dung tục, tầm thƣờng hóa mà mất đi tính ƣớc lệ và tối giản
vốn có.

1


1.3. Nguyễn Huy Thiệp- một trong những chân dung văn chƣơng đƣơng
đại nổi bật nhất của Việt Nam. Ông xuất hiện nhƣ là một hiện tƣợng lạ, độc đáo,
gây nhiều tranh cãi: “Hiện tượng của Nguyễn Huy Thiệp”. Các sáng tác của ông
ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm đáng chú ý của giới
nghiên cứu phê bình và những ngƣời yêu văn chƣơng. Đọc những sáng tác của
ông có thể nhìn thấy “ một cõi người ta”xù xì, gân guốc, góc cạnh, lẫn lộn giữa
tốt và xấu, thật và giả, đen và trắng, cao thƣợng và thấp hèn với những con
ngƣời có suy nghĩ, hành động và đời sống nội tâm. Cái thế giới ấy thể hiện một
cách nhìn rất thật và sâu sắc của nhà văn về con ngƣời. Ông đã khiến giới dƣ
luận trong và ngoài nƣớc tốn không biết bao nhiêu giấy mực, ngƣời khen, kẻ

chê, ngƣời say đắm, kẻ hững hờ…Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên còn chủ sự
cả một tập “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trong đó có rất nhiều ý kiến phê bình của
nhiều tên tuổi có uy tín nhƣ Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart,
Lại Nguyên Ân…Trong cuốn sách này tác giả Phạm Xuân Nguyên từng khẳng
định: “ Xưa nay tôi chưa thấy một nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư
luận, càng viết dư luận càng mạnh, truyện chưa ra thì người ta kháo nhau,
truyện đăng rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán, chốn văn phòng cũng như
chốn vỉa hè, đâu đâu cũng kháo chuyện. Văn đàn thời kì đổi mới đã thêm phần
khởi sắc, náo động càng thêm náo động bởi những cuộc tranh luận, cả tranh cãi
xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp” [ 28,tr.7].
Không chỉ hƣớng ngòi bút của mình và thành công ở thể loại truyện ngắn
hay tiểu thuyết mà Nguyễn Huy Thiệp còn thử nghiệm ở cả kịch bản chèo. Nếu
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã đem đến một đời sống thực sự sôi động,
hấp dẫn cho văn học vào những năm 80 của thế kỉ trƣớc thì kịch bản chèo
Nguyễn Huy Thiệp, ông vẫn giữ đƣợc cái duyên trong cách viết của mình hài
hƣớc và thâm thúy. Viết kịch bản chèo đƣợc các đồng nghiệp viết văn nhận xét
đây đƣợc coi là thể nghiệm mới của Nguyễn Huy Thiệp. Ông là ngƣời đã có

2


những công lao trong việc bảo lƣu nét nghệ thuật tinh túy chèo – thứ đặc sản
văn hóa của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, hiện nay các công trình
nghiên cứu về chèo Nguyễn Huy Thiệp chƣa thực sự sâu sắc và đầy đủ mà mới
chỉ dừng lại ở những bài báo, một số bài nghiên cứu, đặc biệt chƣa có công trình
nào nghiên cứu về những đặc sắc trong hai vở chèo của ông.
1.4.Với tất cả những lý do trên, mục đích nghiên cứu của luận văn lần
này là làm rõ những đặc sắc trong hai vở chèo “Vong bướm” và “Truyền thuyết
tìm vua” của Nguyễn Huy Thiệp, chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp
trong hai vở chèo nói riêng và trong nghệ thuật chèo Việt Nam nói chung, chúng

tôi đã lựa chọn cho luận văn của mình đề tài: “ Đặc sắc của hai vở chèo “Vong
bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua” của Nguyễn Huy Thiệp”.
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Mỗi ngƣời cầm bút khi khẳng định mình thƣờng không chỉ thể hiện tài
năng ở một lĩnh vực mà luôn muốn trải nghiệm, làm mới mình ở nhiều lĩnh vực
khác nhau. Và trong chặng đƣờng sáng tác của mình khi đã đạt đến đỉnh cao ở
một thể loại, họ lại tìm những mảnh đất mới ở những thể loại khác để thử sức và
khẳng định năng lực sáng tạo của mình. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Có thể nói, trong văn học thời kì đổi mới Nguyễn
Huy Thiệp là một trong những cây bút tiêu biểu nhất và có những đóng góp to
lớn cho văn đàn văn học Việt Nam.Với nhiều cách tân táo bạo và một lập trƣờng
dân chủ hóa gần nhƣ triệt để, Nguyễn Huy Thiệp đã gây xôn xao dƣ luận trong
một thời gian dài. Trong bài: “ Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” trên Website:
vietvan.vn, Đỗ Đức Hiểu đã từng khẳng định: Trong hành trình “Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp” tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng.
Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ XX này và nâng
nó lên một tầm cao mới”. [17]. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trở thành
mảnh đất màu mỡ hứa hẹn nhiều khám phá, phát hiện độc đáo cho các nhà

3


nghiên cứu văn học và độc giả yêu văn chƣơng. Không chỉ vậy, Nguyễn Huy
Thiệp còn hƣớng ngòi bút của mình sang nhiều lĩnh vực khác nhƣ: thơ, tiểu
thuyết, tiểu luận phê bình, kịch đặc biệt ông cũng dành nhiều tâm huyết của
mình cho thể loại chèo... Về phần mình, Nguyễn Huy Thiệp cho rằng ông viết
chèo đơn giản chỉ bởi ông yêu chèo. Cho tới nay đã có nhiều bài viết nghiên cứu
về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhƣng nhìn chung các công trình
nghiên cứu riêng biệt về chèo của ông thì chƣa có. Tuy không đƣợc nổi danh
nhƣ truyện ngắn nhƣng chèo cũng là một đề tài chiếm nhiều tâm huyết của ông.

Sau khi thành công với thể loại truyện ngắn, kịch. Ngày 23 tháng 2 năm 2012
kịch bản chèo “Vong Bướm” chính thức ra mắt và lần đầu tiên Nguyễn Huy
Thiệp chịu xuất hiện trong các cuộc giới thiệu sách của mình. Trong bài viết
“Nguyễn Huy Thiệp- “Viết nhƣ một thuật dƣỡng sinh” của Hoàng Anh Lê
(Hoàng Anh Lê: Nguyễn Huy Thiệp- Viết nhƣ một thuật dƣỡng sinh Tác giả đã dẫn lời Nguyễn Huy Thiệp nói ngắn gọn
về công việc viết văn của mình: “Viết văn giống như thuật dưỡng sinh, để đi hết
trầm luân khổ ải của cuộc đời. Tôi viết, đơn giản là để giải tỏa những nhu cầu
nội tâm, viết như là sự sống”. “Tác giả cũng phủ nhận việc mình muốn dấn thân
vào làng chèo, hay tham vọng những điều gì lớn lao như cách tân, đổi mới, hay
tiên phong trong chèo.”
PGT - TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trƣởng Viện Văn học Việt Nam
trong buổi ra mắt sách của Nguyễn Huy Thiệp cho rằng: “Vong bƣớm” là một
trò chơi công phu của nhà văn để đổi mới thể loại kịch bản chèo, qua việc sắp
đặt các không gian, thời gian, thể loại, các tích và những diễn ngôn khác nhau.”
Nguyễn Đăng Điệp cũng nhận định, điều mà Nguyễn Huy Thiệp muốn nói ở đây
chính là: “cuộc đời vốn bị ràng buộc bởi tham, sân, si. Vậy con ngƣời đã tìm đến
Đạo nhƣ thế nào để vƣợt qua những lực cản tham, sân, si đó?”

4


TS Nguyễn Phƣợng đến từ Đại học Sƣ phạm Hà Nội lại đọc đƣợc từ
“Vong bƣớm” chất suy tƣởng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Phƣợng
cho rằng, các nhân vật của “Vong bƣớm” mà đại diện là Điệp Lang đứng trƣớc
một bối cảnh tri nhận văn hóa Âu châu. Họ bƣớc lên chuyến tàu ngƣợc chiều
giữa mỹ học phƣơng Đông và phƣơng Tây để tìm kiếm cái gọi là đích đến của
Chân, Thiện, Mỹ. Bản thân họ là một bi kịch, họ đi tìm sự thức tỉnh nhƣng trên
hành trình đó, họ rơi vào rất nhiều bi kịch khác. Bi kịch đó cũng là bi kịch của
các thế hệ nghệ sĩ Việt Nam vào đầu kỷ 20 trƣớc sự cƣỡng chế của văn hóa Âu
châu.

Thể nghiệm đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp về kịch bản chèo nhận đƣợc
nhiều luồng tranh luận khác nhau ở ranh giới giữa một tác phẩm văn chƣơng và
một tác phẩm chèo. Nhà phê bình sân khấu Nguyễn Thị Minh Thái lƣu ý rằng,
đây mới chỉ là cái “động”, chƣa phải là cái “dịch”. Con đƣờng đi từ “chữ” đến
“chèo” trên sân khấu sẽ còn là một quãng đƣờng còn nhiều chông gai.
Với tƣ cách một đạo diễn kỳ cựu của làng chèo Việt Nam, đạo diễn Trần
Việt Ngữ hoan nghênh kịch bản chèo của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, theo
ông, trong chèo, cái “tích” là quan trọng nhƣng phải gợi đƣợc “trò”. Để ra đƣợc
một vở chèo thì còn cần đến sự kết hợp của sân khấu, hình ảnh…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - ngƣời dẫn chƣơng trình trong buổi ra mắt
sách của ông phát biểu: “Tự mỗi người hãy đọc nó trong đêm khuya và có một
vở chèo ở trong lòng mình, ở trong tâm mình, chứ đừng đón đợi một vở chèo
“Vong bướm” trên sân khấu. Với “Vong bướm”, tất cả hạnh phúc, đau đớn, uất
ức, thăng trầm của cuộc sống đã được Nguyễn Huy Thiệp vô tình mà bày ra, thì
cái việc viết ở đây nó như là một nguồn sống, chỉ đơn giản là thế thôi”.
Các luận văn thạc sĩ nghiên cứu kịch Nguyễn Huy Thiệp nhƣ: Kịch
Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn thi pháp thể loại và khóa luận kịch Lƣu
Quang Vũ và Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ đặc trƣng loại thể, báo cáo khoa

5


học yếu tố triết lý trong kịch Nguyễn Huy Thiệp ít nhiều nhắc đến hai vở
chèo của Nguyễn Huy Thiệp nhƣng chƣa thực sự đầy đủ và sâu sắc.
Lý giải việc chuyển sang viết cả thể loại kịch văn học, Nguyễn Huy Thiệp
từng chia sẻ với BBC Việt Ngữ trong “Chuyến đi thăm Pháp” trên trang
Website:www.dactrung.com: “ Tôi coi nghề viết văn còn là một việc gian khổ,
phải bắt đầu như một học trò thành công trong một số truyện ngắn của mình. Và
trong bài viết gần đây, tôi cũng đã nói rằng tôi vẫn viết truyện ngắn như một tác
phẩm cổ điển không mang tính thời sự trước mắt mà người ta có thể đọc đi đọc

lại. Một mặt khác tôi coi nó như một bài tập trong văn chương mà thôi, rồi
chuyển sang các thể loại khác. Tôi viết kịch, tiểu luận và cả tiểu thuyết, một
phần nó tùy thuộc vào nội tâm của tôi và những vấn đề mà tôi đặt ra nữa. Theo
tôi ở xã hội Việt Nam để có thể phát triển một nền văn học toàn diện thì đòi hỏi
tất cả các nhà văn đều phải cố gắng, không chỉ trong một thể loại mà ở tất cả
các thể loại”.
Nhƣ vậy sau kịch của Nguyễn Huy Thiệp thì chèo là một thể nghiệm mới
mẻ trong sự nghiệp sáng tác của ông. Trong phạm vi hiểu biết và tìm kiếm của
bản thân, tôi chƣa thấy có một công trình khoa học nào nghiên cứu về chèo của
Nguyễn Huy Thiệp có chăng chỉ là những bài báo, những bài phỏng vấn về tác
giả, những bài luận văn, khóa luận, báo cáo khoa học ít nhiều mới chỉ đề cập
đến. Chính vì vậy chúng tôi hy vọng rằng luận văn “Đặc sắc của hai vở chèo
“Vong bướm” và “Truyền thuyết tìm vua”của Nguyễn Huy Thiệp” có thể là một
thể nghiệm nghiên cứu đầu tiên có tính tập trung chuyên sâu, góp phần lý giải
một cách khoa học những thành công, hạn chế và vị thế của kịch bản chèo văn
học Nguyễn Huy Thiệp trong sáng tác của riêng ông và trong đời sống sân khấu
Việt Nam hiện đại nói chung.

6


3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu “Đặc sắc của hai vở chèo “Vong bướm” và”Truyền
thuyết tìm vua”của Nguyễn Huy Thiệp” tôi mong muốn khảo sát, phân tích
hƣớng tới khẳng định những nét đặc sắc trong hai vở chèo của Nguyễn Huy
Thiệp trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, nhìn nhận và đánh giá một cách
khách quan về những đặc điểm chèo Nguyễn Huy Thiệp. Quá trình nghiên cứu
cũng nhằm làm rõ những cách tân độc đáo và những đóng góp của nhà văn đến
quá trình vận động, phát triển của chèo nƣớc nhà.

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những đặc sắc trong hai vở chèo
của Nguyễn Huy Thiệp trên phƣơng diện tƣ tƣởng và nghệ thuật. Phạm vi
nghiên cứu là kịch bản chèo: “Vong bƣớm”,“Truyền thuyết tìm vua”.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phối hợp và linh hoạt các phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học sau:
- Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
- Phƣơng pháp tiểu sử
- Phƣơng pháp xã hội học và các phƣơng pháp liên ngành khác.
5. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mục lục và tài liệu thảm khảo, luận văn của tôi gồm ba phần:
mở đầu, nội dung, kết luận. Trong phần nội dung luận văn tập trung vào 3
chƣơng chính:
Chƣơng 1: Thể loại chèo và tác giả Nguyễn Huy Thiệp
Chƣơng 2: Hai vở chèo “Vong bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua”- những
đặc sắc về tƣ tƣởng

7


Chƣơng 3: Hai vở chèo “Vong bƣớm” và “Truyền thuyết tìm vua” những
đặc sắc về nghệ thuật
6. Đóng góp của luận văn.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích bƣớc đầu giúp độc giả thấy đƣợc
những đóng góp của chèo Nguyễn Huy Thiệp với sân khấu chèo Việt Nam,
đồng thời thấy đƣợc đặc sắc của hai vở chèo Nguyễn Huy Thiệp trên bình diện
tƣ tƣởng và nghệ thuật. Thực hiện luận văn này, tôi muốn đóng góp một chút
công sức cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam đƣơng đại về cây

bút Nguyễn Huy Thiệp. Hơn nữa từ trƣớc tới nay việc tìm hiểu chèo Nguyễn
Huy Thiệp chƣa có nhiều.Tính đến thời điểm luận văn này đƣợc tiến hành thì
chƣa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng
tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng
và có giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trƣớc đây về vấn đề này.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI CHÈO VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY HIỆP
1.1.Vài nét khái quát về thể loại chèo Việt Nam
1.1.1.Chèo loại hình sân khấu
Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, sân khấu là loại hình nghệ thuật vô
cùng đặc sắc. Đây đƣợc coi là loại hình nghệ thuật thứ sáu của nhân loại đƣợc
hình thành và phát triển rất sớm. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay
nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu vô cùng to lớn
và trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của ngƣời dân Việt Nam.
Khi nói tới loại hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam thì không thể không nhắc
đến nghệ thuật chèo. Chèo là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của
dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Ngay từ khi ra đời, chèo
đã chiếm đƣợc cảm tình và sự yêu mến của nhân dân lao động. Ngƣời ta cƣời
khóc cùng với “ chiếu chèo”, say sƣa với những làn điệu quen thuộc. Ngƣời xem
vẫn lƣu luyến mãi với tiếng trống chèo văng vẳng trong tiềm thức:
Tôi yêu chiều vụng dại trước bến sông
Hoa cải đắng rụng trắng dòng trôi dạt
Để giờ đây quê người nghe em hát
Tiếng trống chèo dào dạt sóng Đồng Châu
(Quê người nghe điệu chèo em hát – Tô Hoàng Hải)
Có cô gái thôn quê nào đã từng gửi gắm niềm thƣơng nỗi nhớ vào những

hội làng, trong cái ngóng trông của đoàn chèo làng Đặng:
Đã thấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay
(Mưa xuân – Nguyễn Bính)

9


Các con trai làng nào mà không say mê Thị Màu khi đôi mắt tình tứ của
ngƣời con gái ấy không chỉ chăm chú nhìn vào thầy tiểu mà còn đi tìm chuyện
trò với bao đôi mắt khác trong đám hội ngƣời xem. Chèo đã là một loại hình sân
khấu dân gian, trở thành món ăn tinh thần, là tình yêu của ngƣời dân lao động.
Cho đến nay, việc xác định thời điểm ra đời của sân khấu chèo vẫn chƣa
thật sự thống nhất. Có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà nghiên cứu về nguồn
gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tổng hợp lại thành hai nhóm, hai
quan niệm chính khác nhau.
Một số ngƣời cho rằng: Nói chèo ra đời nghĩa là một loại hình sân khấu ra
đời thì khi đó chèo đã đạt tới mức hoàn chỉnh một loại hình nghệ thuật sân khấu,
phải có đủ các thành phần trong nghệ thuật tổng hợp này là kịch bản, âm nhạc,
diễn xuất và mỹ thuật. Vở diễn đã hoàn thành có tích trò, có văn, có nghệ. Với
quan niệm đó ngƣời ta cho rằng chèo ra đời từ thời Trần thế kỉ XIII, sau sự kiện
Lý Nguyên Cát truyền cho đào kép Đại Việt vở diễn “Tây Vƣơng Mẫu hiến bàn
đào” của tạp kịch đời Nguyên (theo chính sử ghi).
Một số nhà nghiên cứu khác lại quan niệm rằng có thể xem nhƣ chèo ra
đời khi những trò diễn đầu tiên đƣợc trình diễn theo đặc trƣng ngôn ngữ của
chèo về làn điệu, lối diễn…cho dù còn ở mức sơ khai chƣa hoàn chỉnh. Với
quan niệm đó, ngƣời ta cho rằng chèo ra đời từ thời Đinh mà hình thức sơ khai
ban đầu là những trò diễn kết hợp trò nhại và múa hát dân gian đƣợc chèo hóa

còn dấu tích là khổ trống lƣu không trong quân ngũ thời Đinh đƣợc nghi bằng
phép hài thanh ở sách “Đà cổ lục” và đoạn ghi về huyền nữ Phạm Thị Trân
trong “ Hý phƣờng phả lục”. Và tiếp nữa là văn bia tháp “ Sùng thiện diên linh”.
Đa số các nhà nghiên cứu chèo tán thành quan niệm của nhóm thứ hai mà
ngƣời thủ xƣớng là phó giáo sƣ Hà Văn Cầu từ năm 1964 khi ông còn là một
cán bộ của Ban nghiên cứu chèo Trung Ƣơng. Vì tán đồng ý kiến cho rằng chèo
ra đời từ thời Đinh cho nên các nhà nghiên cứu mới cho rằng chèo đã có một
nghìn năm lịch sử.
10


Suốt từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX sử sách ghi chép vô cùng ít ỏi về sân
khấu dân tộc. Bởi vì các sử gia, học giả, phải quan tâm đến những sự kiện trọng
đại của quốc gia qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, bao sự đổi thay chế
độ chính trị xã hội, bao chuyện tày đình tác động đến chuyện sống còn của dân
tộc, số phận của trăm họ, muôn dân. Mặt khác trong quan niệm chính thống của
ngƣời xƣa, nghề xƣớng ca, kẻ làm nghề xƣớng ca còn bị coi khinh, không đƣợc
xếp hạng vào thang thứ bậc trong các đẳng cấp trong xã hội phong kiến, cho nên
các học giả, sử gia càng ít lƣu tâm.
Có thể xem nhƣ suốt từ thời Đinh cho đến cuối đời Trần (khoảng 300
năm) chèo mới ở thời kì sơ khai, chƣa có vở diễn dài hoàn chỉnh. Hình thức phôi
thai của chèo là những trò diễn đƣợc các nhà nghiên cứu gọi chung là “trò nhại”.
Trò nhại tức là những trò diễn bắt chƣớc cử chỉ, hành vi thể hiện những đức tính
tốt đẹp, công lao của các vị thần (trong dịp tế lễ, hội làng) hay của một vị hào
phú (trong dịp giỗ tết, khai vọng cho con cháu họ thuê đào kép sắm vai). Các
“trò nhại” này có sử dụng các làn điệu hát, khuôn múa mà sau này dần dần phát
triển thành các điệu chèo.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì khoảng cuối thế kỉ XIV mà hình thức
“Chèo thuyền bản” hay “Chèo thuyền bát nhã” rồi tiến tới một vở diễn đầu tiên
tƣơng đối hoàn chỉnh của chèo cả về tích chuyện, nhân vật, trò diễn và hát múa

dù là còn ở mức giản đơn đã ra đời đó là trò diễn “Mục Liên báo ân” còn gọi là
“Huyết hồ trò” hay “Mục Liên địa tạng”.
Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định chèo phát triển tới mức
hoàn chỉnh là một loại hình sân khấu vào thời Hồng Đức nhà Lê và phát triển tới
đỉnh cao, có nhiều tinh hoa độc đáo vào khoảng Lê Mạc- Nguyễn rồi tiếp tục bổ
sung vào thành tựu của chèo bằng sự bồi đắp thêm cho các tác phẩm tiêu biểu
nhƣ Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Từ Thức. Tôn Mạnh- Tôn Trong… vào
cuối thế kỉ XIX.

11


Sự ra đời của nền văn hóa và nghệ thuật Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa thế
kỷ XX do những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của một đất nƣớc thuộc địa
nửa phong kiến quyết định. Thực dân Pháp thúc đẩy quá trình thâm nhập và phổ
biến rộng rãi những kiến thức mới, những tƣ tƣởng chính trị, triết học và nghệ
thuật mới cũng nhƣ những thành tựu khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam. Xu hƣớng
chính trị trong sự phát triển của xã hội Việt Nam là sự khát khao thoát khỏi tình
trạng biệt lập kéo dài (kể cả trong lĩnh vực văn hóa) và trở thành bộ phận của
một cộng đồng thống nhất của thế giới. Quá trình này bắt đầu vào cuối thế kỉ
XIX và mạnh lên vào đầu thế kỷ XX, đƣợc đánh dấu bởi cao trào yêu nƣớc, và
mặt khác là phong trào vì văn hóa mới mà sau này biến thành công cuộc hiện đại
hóa văn hóa.
Trƣớc thế kỉ XX, nghệ thuật sân khấu Việt Nam tồn tại đƣợc với hai thể
loại sân khấu âm nhạc truyền thống là tuồng và chèo bên cạnh cải lƣơng và kịch
nói để thích ứng với điều kiện xã hội nửa phong kiến và thuộc địa. Dƣới tác
động của những nhân tố lịch sử mới, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX
đã hình thành rõ nét sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Ứng với hai khu
vực đó là hai lớp ngƣời có những nhu cầu tinh thần hoàn toàn khác nhau. Kịch
nói sinh ra ở thành thị thì ở nông thôn, vào thời điểm này, ngƣời dân vẫn chỉ biết

có tuồng, chèo. Nếu kịch nói trở thành nhu cầu riêng, món ăn riêng, thỏa mãn
“gu” thƣởng thức riêng của ngƣời thành thị thì ở vùng nông thôn vào những
ngày tháng nông nhàn, những buổi tiệc tùng đình đám, nỗi đam mê vẫn là những
tích chèo thâu đêm suốt sáng nhƣ Quan âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình
Dương Lễ… Khán giả trung thành vẫn là những ngƣời răng đen hạt huyền, áo
nâu chân đất, những trai tráng lực điền, những nàng “môi cắn chỉ” và cả những
ngƣời “ăn no rồi lại nằm khoèo, nghe tiếng trống chèo bế bụng đi xem”. Suốt
nhiều năm trong lịch sử, âm nhạc, và các làn điệu, điệu thức của chèo từng hấp
dẫn bao thế hệ công chúng. Vậy vào thời kì này, chèo dƣờng nhƣ cũng trễ nải,

12


phờ phạc trƣớc làn sóng Âu hóa và trƣớc sức tấn công vô cùng mạnh mẽ của các
loại hình nghệ thuật khác. Từ năm 1907 trở đi “Chèo văn minh” đƣợc khởi
xƣớng bằng một số cải cách về lớp lang, phông cảnh và phục trang sân khấu.
Năm 1914, Hội Sán Nhiên thành lập Sán Nhiên đài. Lần đầu tiên, từ
sàn diễn sân đình, chèo đƣợc đƣa lên sân khấu. Có thêm một số vở mới ra đời
dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm nhƣ Tô Thị, Nhị Độ Mai. Cấu
trúc vở diễn đƣợc chỉnh lý, sắp xếp lại. Yếu tố thời gian và không gian vốn
ƣớc lệ trong chèo cổ đã đƣợc xác định rõ hơn. Nhƣng rút cục, những thay đổi
theo hƣớng “văn minh” đó vẫn chƣa giành đƣợc sự mến mộ của công chúng
thị dân, của các bà, các cô, các cậu đang háo hức quay cuồng trong nhịp sống,
nhịp yêu đƣơng mới. Nhất là những năm hai mƣơi trở đi, khi nghệ thuật cải
lƣơng ở các tỉnh miền Nam du nhập ra Bắc thì “Chèo văn minh” lại càng thƣa
thớt, vắng khách. Trƣớc nguy cơ đó, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị (1883- 1954)
lại cải tiến chèo và lấy tên là “Chèo cải lương”. Với loại chèo này, ông và các
đồng sự chủ trƣơng chỉ giữ lại những đặc trƣng cơ bản nhất của chèo cổ, tƣớc
bỏ những yếu tố lai tạp từ tuồng, bổ sung, dung nạp những hình thức diễn
xƣớng và các làn điệu dân ca chủ yếu trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, khai

thác triệt để yếu tố hài trong chèo cổ, phát triển lên thành những màn diễn
độc lập. Những động tác cách điệu, ƣớc lệ trong vũ đạo truyền thống cũng
nhƣ trang phục, đạo cụ…đã đƣợc thay thế bằng những động tác chân thực,
những lối ăn mặc theo kiểu tân thời. Dàn nhạc “Chèo cải lương” cùng đƣợc
tăng cƣờng một số nhạc cụ mới. Vở diễn bắt đầu có màn, có cảnh, nội dung
hƣớng vào những vấn đề của cuộc sống đƣơng đại. So với “Chèo văn minh”
và “Chèo cổ”, “Chèo cải lương” đã tạo nên môn nghệ thuật truyền thống này
một sắc diện mới.Tuy nhiên, với “Chèo cải lương”, cụ Nguyễn Đình Nghị
một phần chƣa tận dụng và phát huy hết cái hay, cái đẹp của chèo cổ, một
phần chƣa thỏa mãn đƣợc những đòi hỏi mới của thực tế xã hội cũng nhƣ của

13


lớp công chúng thị dân, trí thức tiểu tƣ sản, thanh niên học sinh đô thị. Vì thế
nó không tránh khỏi bị làn sóng Âu hóa cho điêu đứng.
Cho đến đầu thế kỉ XX chèo đã để lại một di sản khá đồ sộ về số lƣợng vở
diễn làn điệu chèo với những tinh hoa độc đáo nhƣ các mảnh trò Thị Màu lên
chùa, Mẹ Đốp- Xã Trưởng, Súy Vân giả dại… Hiện nay chèo có các vở diễn
kinh điển nhƣ: Oan khuất một thời, Ngọc Hân công chúa, Linh khí Hoa Lư,
Nàng Sita, Tấm áo bào Hoàng đế, Trang chủ Sơn Đông, Thái hậu Dương Vân
Nga, Chiếc bóng oan khiên, Cô gái làng chèo, Đồng tiền vạn lịch, Chiến trường
không tiếng súng…
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nƣớc
của ngƣời Việt. Mỗi khi vụ mùa đƣợc thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui
chơi và cảm tạ thần thánh để phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của
chèo là trống trèo. Chiếc trống là một phần của văn hóa cổ Việt Nam, ngƣời
nông dân thƣờng đánh trống để cầu mƣa và biểu diễn chèo.
1.1.2. Chèo loại hình văn học
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu mang tính tổng hợp, cũng

giống nhƣ tuồng, cải lƣơng, vừa có tính chất văn học vừa có tính chất trình diễn
tức là nó vừa thuộc về văn học, vừa thuộc về sân khấu. Đời sống văn tự có
trƣớc, đời sống sân khấu có sau. Tác phẩm chèo nào trƣớc tiên cũng là một tác
phẩm văn học. Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh và môi trƣờng hình thành, phát
triển, chèo là một loại hình sân khấu dân gian truyền thống, thƣờng đƣợc biểu
diễn khi hội hè và lúc nông nhàn. Mọi ngƣời trong phƣờng hát tụ tập nhau lại,
gánh gồng đi các nơi. Cái gọi là “kịch bản” họ mang theo trong dạ hơn là trong
hòm. Họ ghi nhớ, nhập tâm theo kiểu “ghi lòng tạc dạ”. Nghĩa là trƣớc khi có
văn bản chính thống, kịch bản chèo thƣờng đƣợc lƣu truyền theo phƣơng thức
truyền miệng. Kịch bản có thể hiểu nôm na là phần tích diễn, thƣờng gọi là “bản
trò”, gồm những qui định ghi chép lại trên giấy, về một sự tích đã đƣợc chọn lựa

14


để đƣa lên chiếu diễn, với cách sắp xếp lớp lang, thể hiện hình tƣợng, sử dụng
ngôn từ, hát múa kèm thêm những lời chú dẫn chủ yếu thông qua các cuộc đời,
trong đó nhân vật bộc lộ bản chất đạo đức dần dần do nghệ nhân kể lại bằng
diễn xuất. Trong phần kịch bản mà ngƣời xƣa thƣờng gọi là thân trò hay tích
trò, ngƣời ta dễ nhận thấy hai yếu tố dân gian và bác học kết hợp thành. Phần
dân gian gồm các màn hề múa hát, đấu đá, mua vui rất sống động thƣờng do các
nghệ nhân đảm nhận. Phần bác học của các thân trò, tích trò thƣờng do các cụ
đồ, những ngƣời có học, những trí thức nông thôn. Các soạn giả này dùng các
câu chuyện lịch sử hay chuyện cổ tích vẫn đƣợc lƣu truyền phổ biến nhƣ Quan
Âm Thị Kính, Từ Thức, Lưu Bình- Dương Lễ, Phạm Công – Cúc Hoa, Kim
Nham… để làm sƣờn, làm xƣơng sống cho vở diễn. Yếu tố tự sự có tính ƣớc lệ
rất cao đã thu gọn tối đa sự rƣờm rà trong các câu chuyện kể đồng thời lồng
ghép vào đấy những bài học luân lý đạo đức rất hiệu quả và đặc sắc. Khi xem
xét tác phẩm văn học chèo, ta xem xét chèo dƣới góc độ những nét đặc sắc về tƣ
tƣởng mà tác giả gửi gắm.

Văn học Việt Nam từ khi có chữ Quốc ngữ đến nay phát triển qua nhiều
giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có những tác giả đáng lƣu danh. Thơ (đặc biệt là
lục bát) chiếm vị trí quan trọng dựng lên thế giới tâm linh, tâm hồn ngƣời dân
Việt. Song đáng tiếc, có rất ít tác giả thơ lục bát để lại dấu ấn cho ngƣời đời sau.
Lục bát là thể thơ cơ bản, là hồn cốt để viết chèo. Nó diễn đạt tƣ tƣởng của
ngƣời viết. Vì vậy, khi xem xét chèo dƣới góc độ văn học không thể không nhắc
đến lục bát- thể thơ mang dân tộc tính rất cao. Đồng thờinhững đặc sắc về mặt
nghệ thuật nhƣ: nhân vật, xung đột, kiến tạo các màn cảnh, ngôn ngữ chèo cũng
là những yếu tố không thể không xem xét khi tìm hiểu về giá trị văn học của nó.
Một kịch bản chèo là một tác phẩm văn học có giá trị trƣớc hết đòi hỏi
ngƣời viết phải sống sâu với thời đại, có khả năng nhận biết và phát hiện ra
những dạng xung đột mới trong xã hội và thể hiện nó trong những hình tƣợng

15


nghệ thuật. Trong cuốn “ Vấn đề văn học kịch”, GS Hoàng Chƣơng khẳng định:
“Về nghệ thuật sân khấu, kịch bản là linh hồn của vở diễn, là bột để gột lên hồ.
Yêu cầu có một vở kịch ở đỉnh cao trước hết phải là vở có kịch bản hay”.Viết
kịch bản chính là sáng tác văn học nhƣng tác phẩm văn học để có thể trình diễn
đƣợc phải chứa đựng đặc trƣng của sân khấu thì mới có thể trình diễn. Nghĩa là
ngoài ngôn ngữ, còn có liên quan đến trang phục, đạo cụ, động tác và sự diễn
xuất…Cùng là kịch bản chèo nhƣng có những nghệ sĩ làm nên tên tuổi, gắn cuộc
đời mình với những vở chèo ấy nhƣng lại có ngƣời xuất hiện và để lại ấn tƣợng
mờ nhạt. Ngày nay, để tồn tại và phát triển, cách duy nhất là mỗi nghệ thuật sân
khấu dân gian phải vƣợt lên chính mình để lôi cuốn công chúng. Viết kịch bản
chèo chính là sáng tác văn học tuy nhiên nó cũng phải chứa đựng những đặc
trƣng sân khấu nhƣng nó lại là một khâu quan trọng hàng đầu không thể bỏ qua
trong mọi hình thức sân khấu.
Nhƣ vậy, đời sống văn học, giá trị văn học là giá trị trƣớc nhất và cũng là

giá trị sâu bền quyết định nhất của một tác phẩm chèo. Cũng vì thế, chèo là một
trong những bộ phận cấu thành nên chỉnh thể của nền văn học. Một cách khác,
nói đến một nền văn học, không thể không nói đến một bộ phận văn học là chèo.
1.2.

Tác giả Nguyễn Huy Thiệp

1.2.1 Nguyễn Huy Thiệp- tài năng lao động nghệ thuật
Nguyễn Huy Thiệp (29/4/1950) quê ở Thanh Trì- Hà Nội. Thuở nhỏ ông
cùng gia đình lƣu lạc khắp các nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Tây Nguyên qua
vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
Năm 1960 gia đình ông chuyển về định cƣ ở xóm Cò, làng Học – Hà Nội.
Năm 1970 ông tốt nghiệp khoa Sử, Trƣờng đại học Sƣ phạm Hà Nội, dạy học tại
Tây Bắc đến năm 1980. Năm 1980 ông chuyển công tác tại Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo, sau đó ông chuyển về làm việc tại công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ Cục bản
đồ cho tới khi về hƣu.

16


So với các nhà văn cùng tuổi, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có tác phẩm
trình làng hơi muộn trên văn đàn Việt Nam, tuy vậy ông lại là một cây bút đa
năng. Nguyễn Huy Thiệp là tài năng trên nhiều lĩnh vực. Ông không chỉ sáng tác
truyện ngắn mà còn sáng tác cả kịch bản văn học, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình
với nhiều góc nhìn mới và táo bạo. Tuy nhiên, truyện ngắn là thể loại thành công
nhất của ông. Nguyễn Huy Thiệp đột ngột xuất hiện với chùm truyện Những
ngọn gió Hua Tát đƣợc đăng trên báo văn nghệ (1987). Tiếp đó truyện ngắn
Tƣớng về hƣu đã gây chấn dƣ luận xã…Dần dần từng bƣớc, bằng tài năng của
mình Nguyễn Huy Thiệp đã chọc thủng đƣợc bức màn vốn dửng dƣng, thờ ơ
của độc giả. Nhắc tới ông, ngƣời ta nhớ Tƣớng về hƣu gây xôn xao trong thời

gian dài, bởi một các viết rạch ròi, lạnh lùng đến trần trụi, nhớ Muối của rừng
tƣởng nhƣ không đâu tẻ nhạt mà lại hóa đƣợm nhiều ý vị thâm trầm, kín đáo và
sâu sắc, nhớ Một thoáng Xuân Hƣơng với phong cách lịch lãm, mang đậm
phong vị kẻ sĩ Bắc Hà, nhớ Con gái thủy thần lẫn lộn hƣ thực huyền ảo và
phiêu diêu…Với mỗi một truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp nhƣ đang làm một
cuộc phiêu lƣu cho ngòi bút mà cũng là tự phác ra chân dung văn học của mình.
Có ngƣời nhận xét truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang dấu ấn đậm nét
của chủ nghĩa hậu hiện đại. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng giống
nhƣ một cuộc vật lộn với chính bản thân mình. Rất khó tìm thấy nơi tâm hồn có
thể nghỉ ngơi trong những trang viết của ông. Nó quá kiệm lời, quá thâm trầm và
cũng đúng một cách tàn nhẫn.
Ông còn là ngƣời rất có khiếu làm thơ và kinh doanh. Tuy chƣa có tập thơ
nào đƣợc xuất bản nhƣng độc giả có thể tìm thấy khá nhiều thơ trong truyện
ngắn của ông.
Nguyễn Huy Thiệp còn khẳng định tài năng của mình trên lĩnh vực sáng
tác kịch bản văn học. Nhiều vở kịch đã đƣợc chọn để diễn trên sân khấu nhƣ vở
Nhà Ôsin, Đến bờ bên kia…

17


Có thể nói, nếu có một thứ “ cây bút vàng” để dành tặng cho các cây bút
xuất sắc hằng năm trong những năm 80 của thế kỉ XX, thì ngƣời xứng đáng
đƣợc nhận giải trong văn xuôi nƣớc ta có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp.
1.2.2. Đóng góp chèo Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn Việt Nam. Tuy
nhiên những đóng góp của ông lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Nếu ở thể loại
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã làm dậy sóng trên văn đàn Việt Nam, thì ở
thể loại sáng tác kịch bản văn học chèo tuy không gây đƣợc tiếng vang nhƣ
truyện ngắn nhƣng hai vở chèo Vong bƣớm và Truyền thuyết tìm vua của ông

đã đem đến một cái nhìn mới về cuộc đời, về nhân sinh.
Với những sự tích đƣợc nhà văn kể phóng túng bằng thể thơ lục bát,
không phải theo mạch sự kiện thẳng tắp, mà theo mạch tâm hồn, với những màn
giả tƣởng “phi sự tích” đan xen, khiến cho vở chèo trở nên hiện đại, mang đến
giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện ý tƣởng của riêng ông về con ngƣời, về Đời Đạo.
Viết kịch bản văn học chèo cũng là cách Nguyễn Huy Thiệp thể hiện bản
thân và đóng góp tiếng nói nghệ thuật của mình làm thức tỉnh lƣơng tâm, cảnh
tỉnh xã hội, để khẳng định những giá trị tốt đẹp của truyền thống.
Chƣa biết ai có thể “liều lĩnh” mang chèo của Nguyễn Huy Thiệp lên sân
khấu nhƣng trƣớc hết đây là một tác phẩm văn chƣơng có thể cầm lên, lật trang,
đọc và ngẫm nghĩ…

18


CHƢƠNG 2: HAI VỞ CHÈO “ VONG BƢỚM” VÀ “ TRUYỀN THUYẾT
TÌM VUA” - NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ TƢ TƢỞNG
2.1 . Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm” và “ Truyền thuyết tìm vua”
2.1.1. Tƣ tƣởng riêng trong “ Vong bƣớm”
Vong bướm còn có tên gọi khác “ Sự tích chàng nghệ sĩ” là câu chuyện
đƣợc viết ra từ cảm hứng về cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Bính (19171966) và cũng là của nhiều văn nghệ sĩ khác đƣơng thời. Điệp Lang là một nhân
vật chính xuất thân từ làng quê, từ nông thôn, “mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở
nông thôn”. Nông thôn Việt Nam ở đây nhƣ một biểu tƣợng về văn hóa tâm linh
và các giá trị đạo đức truyền thống của ngƣời dân Việt. Điệp Lang bỏ quê đi ra
thành phố, hƣớng về lý tƣởng Chân – Thiện – Mỹ; đấy vừa là biểu tƣợng của sự
tiến bộ nói chung nhƣng mặt khác cũng là một sự tha hóa về tinh thần và đạo
đức. Lên chuyến tàu định mệnh (chuyến tàu của sự khách quan ngẫu nhiên lịch
sử mà hầu nhƣ chỉ có 2 đến 3 phần 10 hành khách là lên đƣợc những toa hạng
nhất), Điệp Lang ký khế ƣớc với Ma Vƣơng, làm bạn cùng bốn con quỷ đầy cám
dỗ là “tửu, sắc, yên, đổ”, vƣợt qua bốn ngọn núi Sinh, Lão, Bệnh, Tử để đến với

ánh sáng của Chân – Thiện – Mỹ.
“Đi mà không đến là Tây Trúc.
Đến mà không được ấy Đào nguyên”
Chàng đã trót ký với Ma Vƣơng “giao kèo” bí mật” : bán linh hồn để thỏa
mãn tất cả dục vọng trên đời…Sùng ông- cha chàng, đi tìm con, chỉ gặp đƣợc
vong con.
Vong bướm là một vở chèo kết hợp huyền thoại Trang Tử hóa bướm và
bác sĩ Faust bán mình cho Quỷ, cùng tinh thần Văn tế thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du, để tạo ra một mô hình mới trong chèo: Vong
Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du mở đầu bằng những dòng trác
tuyệt:

19


×