Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tieu luan phong cach lanh dao (QLGD)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.33 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự thay đổi đang diễn ra một
cách nhanh chóng trên mọi phương diện, những thay đổi đó khiến cho những điều
mà chỉ thời gian ngắn trước đây vẫn được coi là những nguyên lý hay khuôn mẫu
cho thành công, thì nay đã không còn thích hợp với thực tại. Để thành công, các
nhà lãnh đạo, quản lý hôm nay và tương lai cần phải có những năng lực lãnh đạo,
quản lý cần thiết để thích ứng với yêu cầu của thời đại.
Trong đó, phong cách lãnh đạo là một trong những yếu tố quan trọng quyết
định đến sự thành công của nhà lãnh đạo, quản lý. Khả năng lãnh đạo hiệu quả là
chìa khóa quan trọng để trở thành một nhà lãnh đạo, quản lý giỏi.
Trong quá trình học, nghiên cứu và tìm hiểu, xin đi sâu nghiên cứu những
vấn đề liên quan trong phong cách lãnh đạo và những giải pháp nâng cao phong
cách lãnh đạo hiện nay.


PHẦN LÝ LUẬN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO:
1. Các khái niệm:
1.1. Khái niệm chung về phong cách lãnh đạo:
Phong cách lãnh đạo là những phương pháp hoặc cách thức mà nhà lãnh
đạo thường dùng để gây ảnh hưởng đến đối tượng bị lãnh đạo.
1.2. Các mô hình phong cách lãnh đạo:
Có rất nhiều phong cách lãnh đạo khác nhau, bao gồm: quyết đoán, độc
đoán chuyên quyền, tổng thể, thủ lĩnh, đối tác, điều khiển, trực tiếp, ủy thác, tự
do, ủng hộ, định hướng, nhóm…
Song trên thực tế, theo các nhà nghiên cứu chỉ có ba phong cách lãnh đạo
cơ bản là: lãnh đạo độc đoán (chuyên quyền), lãnh đạo dân chủ (dựa trên nền tảng
của sự trao đổi, thảo luận) và lãnh đạo tự do (ủy thác, giao phó).
Mỗi phong cách lãnh đạo trên đều có những điểm tích cực và hạn chế
nhất định, song chúng khác nhau ở một số điểm cơ bản như: cách truyền đạt
mệnh lệnh, cách thiết lập mục tiêu, ra quyết định, quá trình kiểm soát và sự ghi


nhận kết quả.
1.2.1. Phong cách lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền:
Những nhà lãnh đạo theo phong cách này thường nói với nhân viên rằng
từng người phải làm gì, làm như thế nào và khi nào thì phải hoàn thành. Họ phân
công vai trò và gắn trách nhiệm cho từng người, thiết lập các tiêu chuẩn và dự
kiến kết quả mà họ mong muốn đạt được.
− Cách truyền đạt mệnh lệnh: Nhà lãnh đạo nói, nhân viên lắng nghe và sau đó
phát biểu ý kiến của mình. Thông thường, những nhà lãnh đạo có phong cách
này thường đưa ra các chỉ dẫn chi tiết, vì vậy, nhân viên biết chính xác họ
phải làm gì.
− Cách giao tiếp của nhà lãnh đạo là rõ ràng, ngắn gọn và súc tích, những gì
màu mè và kiểu cách không hợp với họ. Khi muốn nhận thông tin phản hồi từ
nhân viên, họ thường chỉ đặt một câu hỏi: anh đã hiểu cần phải làm gì chưa?
− Cách thiết lập mục tiêu: Nhà lãnh đạo sẽ thường thiết lập các mục tiêu ngắn
hạn với nhân viên. Khi mục tiêu đã được xác định rõ ràng và thời gian cũng
được ấn định, thì người nhân viên biết rõ nhà lãnh đạo mong chờ ở anh ta điều
gì. Các mục tiêu và thời hạn thường là động lực thúc đẩy nhân viên.
− Ra quyết định: Nhà lãnh đạo thường quyết định phần lớn nếu không muốn nói
là tất cả mọi việc từ lớn đến nhỏ. Khi nảy sinh vấn đề cần giải quyết, nhà lãnh
đạo đánh giá các sự lựa chọn, ra quyết định và trực tiếp hướng dẫn nhân viên
những hành động họ cần phải thực hiện.
− Quá trình kiểm soát: Những nhà lãnh đạo thường thiết lập các khâu kiểm soát


nhất định để điều khiển quá trình thực hiện công việc. Các nhà lãnh đạo này
thường xuyên cung cấp thông tin dưới dạng các hướng dẫn cụ thể về cách làm
thế nào để cải tiến công việc tốt hơn.
− Sự ghi nhận kết quả: Điều gì khiến cho nhà lãnh đạo theo phong cách độc đoán
cảm thấy hạnh phúc? Đó là khi nhân viên dưới quyền làm đúng theo sự hướng
dẫn của họ.

Phong cách lãnh đạo độc đoán rất thích hợp khi có một mệnh lệnh từ cấp
trên mô tả những gì cần phải làm và phải làm nó như thế nào. Khi đó, nhà lãnh
đạo là người chỉ huy thực hiện nhiệm vụ, làm đúng những gì được yêu cầu.
Phong cách lãnh đạo này cũng thích hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn
chế về kinh nghiệm hoặc thiếu những kỹ năng cần thiết để hoàn thành công việc.
Nhà lãnh đạo theo phong cách này đưa ra các bước đi và hành động, kiểm soát
những khâu quan trọng để các nhân viên có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ.
 Ưu điểm:
Giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh chóng, nó đặc biệt cần thiết khi tập
thể mới được thành lập lúc có nhiều mâu thuẫn và sự không thống nhất trong hệ
thống. Phong cách này cũng đặc biệt cần thiết khi phải giải quyết các vấn đề riêng,
các vấn đề phải giữ bí mật thuộc thẩm quyền trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo
doanh nghiệp.
 Nhược điểm:
Triệt tiêu tính sáng tạo của mọi người trong doanh nghiệp.
Nhân viên ít thích lãnh đạo.
Hiệu quả thấp khi không có mặt lãnh đạo.
Không khí trong tổ chức: gây hấn, phụ thuộc vào định tính cá nhân.
1.2.2. Phong cách lãnh đạo dân chủ (dựa trên nền tảng sự trao đổi, thảo
luận):
Những nhà lãnh đạo sử dụng phong cách này thường tận dụng thời gian để
thảo luận các vấn đề về kinh doanh. Điều gì sẽ xảy ra trong một cuộc thảo luận sôi
nổi? Nhân viên đưa ra các ý kiến, đặt câu hỏi, lắng nghe, cung cấp thông tin phản
hồi, những giả định về thách thức và các chương trình đào tạo khi cần thiết. Nhà
lãnh đạo là người đảm bảo chắc chắn các ý kiến đều được thảo luận cặn kẽ và biến
thành một cuộc tranh luận thực sự. Họ đóng vai trò như là một nhân tố đảm bảo
cho các cuộc thảo luận đi đúng hướng và tất cả mọi nhân viên đều có cơ hội góp ý
kiến.
− Cách truyền đạt mệnh lệnh: Giao tiếp hai chiều là quy tắc của các nhà lãnh đạo
thuộc phong cách này. Họ đi xung quanh bàn và tạo cho mọi người có cơ hội

được những người khác thảo luận về ý kiến của mình. Nhà lãnh đạo sẽ dành
rất nhiều thời gian để đặt câu hỏi và lắng nghe. Họ cùng hội thoại với nhân
viên và chia sẻ các ý kiến của mình. Đặt ra những câu hỏi đúng tập trung vào
vấn đề thảo luận và vẽ ra ý tưởng của mọi nhân viên là cách thức giao tiếp phổ
biến nhất của họ.


− Cách thiết lập mục tiêu: Sau khi thảo luận cặn kẽ, mục tiêu sẽ được thiết lập.
Tận dụng sự thảo luận của nhiều người để kết nối những tài năng và kiến
thức của từng nhân viên riêng lẻ để đạt được mục tiêu đề ra là phong cách
của nhà lãnh đạo này.
− Ra quyết định: Đặt câu hỏi trước khi ra quyết định là phong cách của các nhà
lãnh đạo dân chủ. Quyết định chỉ được đưa ra sau khi có sự cộng tác và phối
hợp của nhân viên. Cả nhà lãnh đạo và nhân viên đều đóng vai trò chủ động,
tích cực trong việc xác định vấn đề, đánh giá sự lựa chọn và ra quyết định.
− Quá trình kiểm soát: Nhà lãnh đạo và nhân viên cùng kiểm soát quá trình thực
hiện và thảo luận xem cần phải tiến hành những hành động nào. Công việc sẽ
đạt được kết quả tốt nhất khi cả hai bên cùng cởi mở và có những điều chỉnh
khi thấy cần thiết.
− Sự ghi nhận kết quả: Các nhà lãnh đạo ghi nhận những thành quả đóng góp
của các nhân viên trong cuộc thảo luận, xây dựng ý tưởng cùng với người
khác và gợi mở ra những ý tưởng mới.
Phong cách lãnh đạo dựa trên trao đổi và thảo luận đặc biệt thích hợp khi
cần câu trả lời cho các vấn đề. Phong cách thảo luận thường có hiệu quả khi nhân
viên là những người có chính kiến riêng và tự tin nói ra chính kiến của mình. Nhà
lãnh đạo sẽ xác định những gì cần phải làm và làm như thế nào để tăng sự ràng
buộc của nhân viên với những gì sẽ xảy ra.


Ưu điểm:

Nhân viên thích lãnh đạo hơn.
Phát huy tính sáng tạo của nhân viên.
Không khí thân thiện, định hướng nhóm, định hướng nhiệm vụ.
Năng suất cao, kể cả không có mặt của lãnh đạo.

 Nhược điểm:
Nếu người cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp sử dụng phong cách này mà là
người nhu nhược sẽ dẫn đến tình trạng theo đuôi quần chúng, các quyết định đưa
ra chậm chạp để lỡ mọi cơ hội thuận tiện.
1.2.3. Phong cách lãnh đạo tự do:
Những nhà lãnh đạo sử dụng phong cách này thường giải thích hoặc có
những cam kết về các công việc cần được thực hiện và khi nào phải hoàn thành
công việc đó. Còn cách thức làm việc thì toàn quyền do người nhân viên quyết
định.
− Cách truyền đạt mệnh lệnh: Đối với những công việc cần thực hiện, các giao
tiếp có thể chỉ là một chiều. Trong nhiều trường hợp khác lại là hai chiều. Giao
tiếp để xem xét lại những gì đã được thực hiện và cách ngăn ngừa những cản
trở trong quá trình thực hiện.
− Cách thiết lập mục tiêu: Cũng giống như cách thức giao tiếp, mục tiêu có thể
được nhà lãnh đạo thiết lập ngay hoặc có thể đưa ra sau khi đã thảo luận với


nhân viên. Thất bại trong sự giao phó, ủy thác công việc có thể do nhân viên
không hiểu nhà lãnh đạo mong gì ở mình hoặc không tự tin vào chính sự giao
phó đó.
− Ra quyết định: Quyết định thực hiện nhiệm vụ được chuyển cho nhân viên.
Người nhân viên có quyền chọn lựa những phương cách thích hợp để đạt
được kết quả mong đợi. Nhà lãnh đạo phải tránh “tiếp tục duy trì sự giao phó”
khi nhân viên không muốn tự ra quyết định mà tìm cách “trả lại” quyền ra
quyết định cho nhà lãnh đạo.

− Quá trình kiểm soát: Nhà lãnh đạo thuộc phong cách này thường quyết định
cách thức kiểm soát công việc. Số lần kiểm soát phụ thuộc vào tính chất ưu
tiên của nhiệm vụ và người thực hiện nó. Cung cấp thông tin phản hồi là trách
nhiệm của nhân viên. Việc giữ để nhà lãnh đạo không nổi giận và mất bình
tĩnh, đặc biệt khi kế hoạch bị chệch hướng, là điều rất quan trọng.
− Sự ghi nhận kết quả: Nhà lãnh đạo thường khen thưởng và ghi nhận những ai
chứng minh được khả năng làm việc một cách độc lập.
Phong cách lãnh đạo này rất thích hợp khi nhân viên là người hiểu biết, có
kỹ năng và động lực để hoàn thành công việc. Bởi vì, những nhân viên có kinh
nghiệm sẽ không cần một nhà lãnh đạo nói rằng họ phải làm gì. Họ muốn tự do
lựa chọn cách thức thực hiện công việc. Phong cách lãnh đạo này cũng tạo cho
các nhà lãnh đạo có nhiều thời gian để dành cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác
như xây dựng các tiêu chuẩn, suy nghĩ chiến lược và lên kế hoạch.
 Ưu điểm:
Mỗi thành viên trong nhóm đều có khuynh hướng trở thành chủ thể cung
cấp những tư tưởng, ý kiến để giải quyết những vấn đề cốt lõi do thực tiễn đặt ra.
Các thành viên có quyền tham gia vào quyết định các việc lớn của tổ chức
nên khai thác được tính sáng tạo của nhân viên và vì vậy có nhiều phương án giải
quyết một vấn đề.
Tạo cho nhân viên thoải mái trong công việc, không bị gò bó, dẫn đến hiệu
quả công việc có thể cao hơn.
Phong cách này phù hợp với các nhà lãnh đạo không có khả năng quyết
đoán cao và chính xác, mọi việc được đưa ra bàn bạc và giảm được các sai lầm do
quyết định của nhà lãnh đạo.
 Nhược điểm:
Đôi khi tự do quá, người lãnh đạo không kiểm soát được công việc, và
có thể dẫn đến mục tiêu không hoàn thành.
Dễ tạo ra tâm lý buồn chán cho người lãnh đạo, dẫn tới tình cảm cô đơn, tùy
tiện, lơ là công việc cho dù bản thân rất phù hợp với công việc đó.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách lãnh đạo:

Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện và
được biểu diễn bằng công thức phong cách lãnh đạo bằng công thức: cá tính x môi


trường. Trong đó, cá tính là yếu tố khó có thể thay đổi vì đó là tính cách của con
người. Bên cạnh đó, các yếu tố môi trường cũng góp phần không nhỏ trong việc
hình thành phong cách lãnh đạo của nhà lãnh đạo.
Trước tiên, ta nói tới hoàn cảnh lịch sử môi trường công tác, nó có tác động
rất lớn tới phong cách lãnh đạo. Phần lớn các nhà lãnh đạo thường áp dụng phong
cách làm việc của môi trường trước đó để làm việc trong môi trường hiện tại. Bởi
vì môi trường trước đã tạo cho họ một thói quen nghề nghiệp, khó mà thay đổi
được.
Tiếp theo là môi trường đào tạo, nếu được học tập trong một môi trường tốt,
có kỉ luật cao, nhưng mọi việc đều mang tính dân chủ, tự do hay độc đoán, thì
người lãnh đạo sau này cũng sẽ làm việc theo phong cách đó, do họ đã có một thời
gian khá dài tiếp xúc với môi trường như thế nên nó góp phần làm nên phong cách
lãnh đạo của họ
Một yếu tố không kém phần quan trọng nữa là tâm lý của nhà lãnh đạo. Với
bất kì ai cũng vậy, lúc mới bắt đầu công việc họ đều có phần nào đó e ngại, kiêng
nể những người khác, không dám bộc lộ hết phong cách lãnh đạo của mình. Sau
một thời gian, mọi việc tiến triển tốt đẹp thì họ sẽ thể hiện hết phong cách của
mình.
Yếu tố cuối cùng là trình độ và năng lực của nhà lãnh đạo. Một người có
trình độ chuyên môn cao, năng lực tốt thường sẽ chọn cho mình phong cách độc
đoán để mọi việc được giải quyết một cách hiệu quả nhanh chóng. Ngược lại, một
nhà lãnh đạo không nắm vững kỹ năng chuyên môn sẽ không dám một mình
quyết định mọi việc, họ thường tham khảo ý kiến của cấp dưới. Do đó, họ thường
có phong cách lãnh đạo tự do hay dân chủ.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM
VIỆC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ XÂY DỰNG PHONG CÁCH

LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY:
1. Thực trạng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua:
1.1. Những thành tựu trong xây dựng và đổi mới phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước:
Đội ngũ cán bộ sau 20 năm đổi mới ngày càng được củng cố, phát triển và
lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đã có sự kế tiếp 3 độ tuổi; đã,
đang xuất hiện nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm. Ngày càng có nhiều hơn cán bộ nữ tham gia trong các cấp uỷ đảng
và ở tất cả các vị trí lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở. Việc xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng về số lượng và chất lượng; nhiều cán bộ là người dân tộc thiểu số được tín


nhiệm bầu vào những cương vị trọng yếu trong các cơ quan đảng, chính quyền,
đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Trên thực tế sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhận
thức của toàn Đảng, toàn dân ta về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, về
đổi mới phong cách làm việc của cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
riêng có những bước tiến, đạt được nhiều kết quả về số lượng và chất lượng.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta từ Trung ương đến
địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng
của Đảng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn. Đây là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý dù ở cương
vị, chức danh nào cũng phải quán triệt.
Trong công cuộc đổi mới, qua thử thách, được đào tạo và tự rèn luyện phấn
đấu đội ngũ này đã ngày càng trưởng thành về mọi mặt, là lực lượng nòng cốt
cùng với nhân dân làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Phần

lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, đó là
những con người sống cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có nhân cách. Họ
được rèn luyện tính tổ chức, kỷ luật, tôn trọng tổ chức, tôn trọng tập thể, không
lạm quyền, lộng quyền.
Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý thức xây dựng, đổi mới phong cách
làm việc để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc cho nên đã xuất hiện một lực
lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, có
khả năng tiếp cận và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong điều kiện mới. Họ
năng động, sáng tạo trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
có phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là đổi mới phong cách làm việc theo
hướng linh hoạt, khoa học, dân chủ, thực tế, coi trọng chất lượng và hiệu quả.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có những chuyển biến kịp thời về đổi
mới phong cách làm việc một cách khoa học. Trong lãnh đaọ và quản lý họ đã
quán triệt nguyên tắc: Có chương trình, có kế hoạch sát hợp, có tính mục đích rõ
ràng, xác định đúng việc, đúng thẩm quyền, khắc phục dần phong cách làm việc
tuỳ tiện, được chăng hay chớ, không nhìn xa trông rộng, thiếu trách nhiệm. Tác
phong thụ động trong phong cách làm việc từng bước được khắc phục.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có ý thức ham học hỏi, lăn lộn với
công việc, lăn lộn trong phong trào quần chúng, cho nên trình độ học vấn, chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực lãnh đạo, quản lý được nâng cao một bước rõ rệt. Vì
có trình độ, có kiến thức, hiểu biết nhiều, có tư duy khoa học và có kỹ năng hoạt
động thực tiễn cho nên trong lãnh đạo, quản lý họ biết nhìn nhận vấn đề một cách
thông tỏ, thấu tình đạt lý, có tầm nhìn xa trông rộng, biết phân tích tình hình thực
tiễn, xác định phương hướng hành động, điều hành công việc nhanh nhạy, giải
quyết vấn đề một cách khoa học và đạt hiệu quả hơn trước. Nhất là bước đầu của
cuộc cải cách hành chính, nhiều địa phương đang tiến hành thí điểm giải quyết
công việc theo quy chế “một cửa, một dấu” làm cho công việc các cơ quan, các tổ
chức được giải quyết khẩn trương hơn và bớt phiền hà hơn.



Trong phong cách làm việc họ luôn coi trọng việc tổng kết thực tiễn để rút
kinh nghiệm. Có thái độ làm việc trung thực, khách quan, biết đánh giá đúng thực
chất tình hình, xem xét, cân nhắc kỹ hoàn cảnh cụ thể từng sự việc, từng vấn đề để
tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Trong công việc đã xuất hiện nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý có lòng nhiệt
tình, năng động, tự tin, tận tuỵ trong công việc. Họ đã lăn lộn với phong trào, sâu
sát với cơ sở và nhân dân, học hỏi những kinh nghiệm thực tiễn phong phú; nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và biết khơi dậy tinh thần dân chủ trong
công việc, tôn trọng, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến, sáng kiến của đồng nghiệp,
của tập thể cơ quan, đơn vị, cho nên khai thác được trí tuệ sáng tạo của tập thể,
của cá nhân và quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình của đông đảo mọi người, tạo
ra bầu không khí tâm lý tích cực trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình
lãnh đạo, quản lý họ luôn khiêm tốn, cầu thị, đầy lòng nhân ái, vị tha, tin tưởng
cấp dưới. Dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể về các quyết định và việc
làm của mình trong chức trách và nhiệm vụ do mình đảm đương.
Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý có sự thống nhất giữa nhận thức và hoạt
động thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm, miệng nói tay làm, có phong cách chỉ
đạo thực tiễn cụ thể, sâu sát thực tế, có sức thuyết phục với cán bộ cấp dưới và
quần chúng.
Cùng với phẩm chất chính trị, phong cách làm việc thái độ phục vụ, các thủ
tục hành chính của cán bộ lãnh đạo, quản lý có những bước tiến đáng kể, tình
trạng chủ quan, tuỳ tiện, cửa quyền hách dịch nhũng nhiễu dân đã giảm nhiều,
cách làm việc theo kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính cứng nhắc, máy móc, quan
liêu, độc đoán chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức, hay dân chủ
cực đoan đang dần dần bị đẩy lùi đã góp phần vào thắng lợi trong công cuộc đổi
mới đất nước hơn 20 năm qua.
1.2. Những yếu kém, bất cập trong phong làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý:
Phải thừa nhận một cách khách quan rằng, trong những năm đổi mới,

phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta đã có những
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những thành quả đạt
được trong phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta trong 20 năm dổi mới, vẫn còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém chưa đáp ứng
được yêu cầu của cơ chế mới, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và yêu cầu của sự phát triển đất nước. Sự bất cập đó biểu hiện ở những mặt
sau:
Một thực trạng đáng buồn hiện nay là có một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý thoái hoá, biến chất về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phong
cách, lề lối làm việc. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp còn
chưa quan tâm đến công tác chính trị, tư tưởng, chưa coi trọng lợi ích quốc gia.
Phẩm chất chính trị và đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đó là niềm tin
vào đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, là lòng trung thành với lý tưởng


cách mạng. Đó là những yếu tố đảm bảo cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý vượt
qua mọi cám dỗ của chức quyền và thế lực của đồng tiền. Chính vì sa sút những
phẩm chất đó cho nên không ít cán bộ đã thờ ơ với nỗi khổ của dân, mất đi lòng
nhân ái trước cộng đồng. Thậm chí có một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý có
chức có quyền thoái hoá, biến chất ngày càng nghiêm trọng nhất là những cán bộ
trực tiếp lãnh đạo, quản lý về tài chính, tiền tệ, đất đai, đầu tư, xây dựng, cơ quan
bảo vệ pháp luật. Nhiều người vi phạm pháp pháp luật, trở thành tội phạm đã phải
ra hầu toà chịu sự xử lý của Pháp luật.
Tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm các quy tắc quản lý hoặc lợi
dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý của Nhà nước để lấy cắp của công, ăn hối
lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, vi phạm lối sống có chiều gia
tăng. Trên thực tế một bộ phận tha hoá, tham nhũng xa rời quần chúng, giảm sút ý
chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động mất lòng tin. Số cán bộ lãnh đạo, quản
lý thoái hoá, biến chất tuy không phải là đa số, nhưng những “con sâu bỏ rầu nồi
canh” đó đã gây tác hại rất lớn về chính trị, tư tưởng, gây bất bình trong nhân dân.

Phong cách làm việc của cán bộ quản lý cũng còn nhiều bất cập như: tùy
tiện, xử lý, giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, hoặc vi phạm pháp luật,
chính sách của Đảng, Nhà nước một cách vô ý thức. Ở một số nơi cán bộ lãnh đạo
quản lý tự đặt ra những quy định về xử phạt, về đóng góp của nhân dân và chi tiêu
tùy tiện, không đúng nguyên tắc.
Tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu dân, thiếu
dân chủ, thiếu kỷ cương, kỷ luật vẫn tồn tại trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý đã lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để
tham ô, chiếm đoạt tài sản của nhân dân, tập thể và Nhà nước. Tình trạng quản lý
lỏng lẻo để thất thoát, gây lãng phí tài sản của Nhà nước, của doanh nghiệp, của
tập thể chưa được xử lý kịp thời, đúng mức nên gây ra bức xúc trong xã hội.
Tình trạng làm việc quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà, thiếu dân chủ vẫn
còn khá phổ biến trong một số cơ quan nhà nước. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý
có thái độ làm việc thiếu bàn bạc mà luôn đứng trên để ra lệnh cho cấp dưới và
quần chúng rồi buộc họ phải tuân theo. Không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý không
chịu thâm nhập vào cuộc sống của dân, không chú ý lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng và những đóng góp ý kiến của nhân dân. Sự bất cập về năng lực tổ chức thực
tiễn đã khiến cho không ít các nhà lãnh đạo, quản lý không tính chủ động, sáng
tạo trong điều hành công việc. Không có khả năng thực tế trong lãnh đạo và quản
lý.
Trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong những năm đổi mới được nâng cao một cách đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu của cơ chế mới, yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Không ít trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý làm việc ỷ lại, bằng lòng
với trình độ, kiến thức hiện có, không học tập trau dồi, bổ sung kiến thức cho nên
không đủ khả năng nắm bắt và tiếp cận được với những tri thức tiên tiến ở trong
nước và trên thế giới. Họ chỉ lãnh đạo, quản lý bằng kinh nghiệm và bằng cảm
tính.



Có một số bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý lời nói không đi đôi với việc
làm, nói nhiều mà làm ít, thậm chí nói một đường làm một nẻo. Tệ hại hơn họ còn
dùng chức quyền để cầu danh, trục lợi, đầu óc mang nặng tư lợi cho cá nhân, cho
nên việc gì có lợi cho mình thì dùng mọi cách giành cho kỳ được, còn việc gì
không có lợi cho bản thân thì thờ ơ, lãnh đạm.
Việc thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” còn nhiều
hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước còn chung chung, thậm chí còn rất sơ sài. Nhiều
khi cán bộ cấp dưới và nhân dân làm sai chỉ vì không nắm được chính sách, pháp
luật. Nhiều đơn từ, khiếu nại, kiến nghị của cấp dưới, của nhân dân không được
xem xét để giải quyết kịp thời, có khi còn rơi vào quên lãng.
2. Đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
nước ta hiện nay:
2.1. Phương hướng cơ bản xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay:
Trong đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam - một nhà nước của dân, do dân, vì dân, cần phải quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân là cội nguồn của nhà nước. Nhân
dân ở đây trước hết là nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần cho sự tồn vong của
xã hội và quốc gia. Tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Trên cơ sở
thấy được sức mạnh to lớn và vị trí sáng tạo lịch sử của nhân dân mà nhìn nhận
vai trò chủ nhân đất nước và nguồn gốc của quyền lực: "Bao nhiêu quyền hạn đều
là của dân". Vấn đề rất quan trọng và làm thế nào đề thu hút ngày càng nhiều sự
tham gia của nhân dân và quản lý nhà nước thông qua hoạt động giám sát, kiểm
tra và phản biện xã hội. Thông qua đó nâng cao và phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong đời sống kinh tế chính trị của đất nước.
Trong đổi mới hệ thống chính trị cần xác định rõ rằng còn đường xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là con đường khó khăn, gian khổ, nhiều
thách thức đang ở phía trước. Đối với Việt Nam, Nhà nước pháp quyền đã có

những tiền đề rất cơ bản nhưng vẫn còn dừng lại ở tính mục tiêu, chứ chưa phải là
một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện thực theo đúng nghĩa của nó.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quá
trình tiếp tục phát triển dựa trên các tiền đề vốn có của nó, biến khả năng thành
hiện thực.
Từ những phân tích ở trên, căn cứ vào chủ trương các Nghị quyết của Đảng
ta về xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể nêu ra phương
hướng chung về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như
sau:
- Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện một hệ thống lý luận về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thừa nhận và khẳng định Nhà nước pháp quyền
là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.


- Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng
Nhà nước và quản lý xã hội. Đó là nội dung căn bản, mang tính chủ đạo trong
phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phát huy dân
chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một thể thống nhất, với những nội
dung cụ thể như: nhân dân tham gia vào xây dựng và hoạch định các chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước; tham gia quá trình củng cố bộ máy nhà nước, quản lý
nhà nước: tham gia giám sát việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước,
đánh giá về hoạt động của các cơ quan nhà nước, thực hiện đúng lời Bác Hồ "dân
là chủ và dân làm chủ".
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện lý luận về đổi mới tổ chức và nâng cao
chất lượng hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước, trước hết là tổ
chức và hoạt động của Quốc hội. Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân các cấp, cải cách nền hành chính nhà nước và cải cách tư pháp, làm cho bộ
máy nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh đáp ứng và ngang tầm những yêu
cầu mới và đưa những lý luận đó ứng dụng trong thực tiễn.
- Tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng cầm quyền, đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức, đoàn thể xã hội, trong đó mối quan hệ
Đảng và Nhà nước là chủ tất yếu nhất.
- Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức thực hiện pháp
luật. Cần xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, hoàn thiện
với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
đoàn thể quần chúng và các hội nghề nghiệp theo tinh thần nâng cao vai trò phản
biện xã hội và giám sát xã hội của các tổ chức này.
2.2. Đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải
biết phát huy và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Lãnh đạo, quản lý tuy là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau nhưng đều có
điểm chung: là cách con người ứng xử với con người, là cách làm việc với con
người, là quy trình ảnh hưởng và tác động đến con người và tổ chức. Một vấn đề
cơ bản của lãnh đạo, quản lý là niềm tin, gây cảm xúc, hứng thú làm cho người ta
hăng say trong hoạt động với tinh thần tự giác và sáng tạo. Thực hành dân chủ
trong lãnh đạo, quản lý là biện pháp để phát huy tiềm năng sáng tạo và lòng hăng
hái của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo động lực cho sự phát triển và tiến bộ xã
hội.
Từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy một tình trạng: trong cán bộ và
đảng viên chúng ta chắc không thiếu những người có năng lực và sáng kiến,
nhưng có những người như thể bị "dìm xuống, không được cất nhắc"; chúng ta
thường nêu vấn đề phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng cán bộ, đảng
viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Theo Người, nguyên nhân của tình trạng trên thì
có nhiều, nhưng trước hết là vì: "Cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn


nồng"1, "cách lãnh đạo của ta không được dân chủ...Nếu ai nói chúng ta không
dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như

thế"2. Kết luận rút ra ở đây là, nếu lãnh đạo, quản lý mất dân chủ thì rất nguy
hiểm, đáng sợ, sẽ làm thui chột tài năng, triệt tiêu mọi sự sáng tạo và hăng hái làm
việc của cấp dưới và nhân dân. Yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra đối với
sự lãnh đạo của Đảng nói chung cũng như đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng là phải: Nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên cán bộ đảng viên, bày cho
họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm
những việc ích lợi cho quần chúng.
Dân chủ đòi hỏi "người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu".
Muốn hiểu thấu phải biết lắng nghe. Đây là yêu cầu đầu tiên có tính chất quyết
định đến thành bại của người lãnh đạo, quản lý. Vì nếu quan liêu tự mãn, kiêu
ngạo mà không nghe, không thấy, không hiểu lòng người và tình hình thì nhất
định sẽ sai lầm, thất bại. Người lãnh đạo, quản lý dù có thông minh, tài giỏi, trình
độ học vấn cao, có người kinh nghiệm nhưng vẫn chưa đủ.
Bởi vì như Người thường nói, không ai có thể hiểu được mọi thứ, làm hết
mọi việc. Ngay đến anh hùng, lãnh tụ cũng vậy. Để bù đắp sự thiếu hụt đó, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh người lãnh đạo, quản lý chỉ có một cách duy nhất là biết
cách lắng nghe, biết thực hành dân chủ. Điều thông minh của người phụ trách, sức
mạnh của lãnh đạo không phải chỉ là những điều mình tự nghĩ ra, hay tự mình làm
lấy, mà quan trọng hơn chính là ở chỗ biết tập hợp và phát huy trí tuệ và sức mạnh
tổng hợp của nhiều người, của tập thể. Sự tổng hợp đó được nâng cao, được biến
đổi về chất bởi sự thông minh của người phụ trách, người lãnh đạo. Nói cách khác
là nói người lãnh đạo, quản lý không thể lấy hiểu biết, ý muốn chủ quan của mình
thay thế cho việc tiếp nhận thông tin nhiều chiều, đa dạng, mà phải "lắng tai nghe
ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những "người không quan trọng", để làm
giàu trí tuệ của mình, vươn tới chân lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không
dân chủ, không quen nghe, hoặc không chịu nghe những lời nói thẳng. "Có nhiều
đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học ưu
điểm của những người khác. Biết vài câu lý luận đã cho mình là giỏi, không xem
ai ra gì tưởng mình là hơn hết. Đó là bệnh hẹp hòi hạng nặng" 3; vì hẹp hòi mà

không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm
không nổi.
Do kiêu ngạo, tự cho mình cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết cũng muốn
làm thầy người khác, nên cán bộ, đảng viên bình thường và quần chúng dù có ý
kiến cũng không dám nói, muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên
và cấp dưới cách biệt nhau; cán bộ đảng viên và quần chúng uất ức, chán nản,
không còn hứng thú, tin tưởng và say mê làm việc. Để cho người dưới quyền của
mình say mê mạnh dạn đề ra ý kiến, mạnh dạn phê bình, yên tâm làm việc, vui thú
làm việc, cấp trên để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 241.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr 243.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr. 238
2


đúng thì giải thích, sữa chữa; người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết
điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên
cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không
phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng. "Nếu
cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tăng bốc
mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nóì, nhưng vì
họ không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản" 4. Khi cán bộ đã có
những uất ức, bất mãn với lãnh đạo, thì những lời hay lẽ phải khó lọt vào bộ óc
của họ, hiệu quả của lãnh đạo, quản lý bị giảm sút hoặc bị vô hiệu hoá. Mất dân
chủ trong Đảng và xã hội thì cũng có nghĩa là mất "khả năng miễn dịch" trước sự
tấn công của kẻ thù.
Như vậy có thể thấy, dân chủ gắn bó chặt chẽ với phê bình và đoàn kết nội

bộ. có thực hành dân chủ thực sự thì mới tiến hành phê bình và tự phê bình đúng
mục đích, yêu cầu, đảm bảo sự tôn trọng và gắn bó giữa cấp trên và cấp dưới. Ở
đây, dân chủ không phải là một thứ tặng vật của Đảng hay cấp trên ban phát cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng, mà nó là một yêu cầu nội tại trong lãnh đạo,
quản lý. Cấp trên gương mẫu và cấp dưới hưởng ứng một cách chân thành và xây
dựng. Nói một cách khác, dân chủ phải trở thành văn hoá chính trị tồn tại một
cách tự nhiên, ngấm sâu vào trong công việc cũng như cung cách ứng xử hằng
ngày. Chỉ khi đó dân chủ mới đáp ứng được vai trò như một thiết kế đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển bền vững của chế độ.
Trong tình hình hiện nay, mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và
cấp thiết để khai thác được sức mạnh vô tận của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự
nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập với thế giới. Đảng ta đã có nhiều nghị quyết,
chỉ thị về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó có vấn đề thực hiện dân chủ
trong Đảng và trong xã hội. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện chưa thật nghiêm
túc, nên kết quả thu được chưa cao. Thực tế hơn 20 năm đổi mới cho thấy nơi nào
thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân,
thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, phát huy được trí tuệ
đông đảo cán bộ và nhân dân thì nơi đó không tránh khỏi những khó khăn và dẫn
tới những hậu quả đáng tiếc. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng chỉ rõ: "Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm" 5; "Một số cấp
uỷ, tổ chức Đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng
viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc
đoán chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức".6
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải thực hiện cho được điều căn dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong Di chúc: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và
phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng" 3. Có dân chủ trong Đảng mới có
dân chủ ngoài xã hội. Thực hành dân chủ trong Đảng chủ yếu là nhằm vào các cấp
4


Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, S.đ.d, tr. 280.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ X, S.đ.d, tr.262.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ X, S.đ.d, tr.270.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.12, S.đ.d, tr.510.
5


uỷ Đảng và những người tham gia cấp uỷ. Trong Đảng có thực hiện được dân chủ,
mở rộng và phát huy được dân chủ hay không, các cấp uỷ Đảng và người đứng
đầu cấp uỷ có trách nhiệm rất lớn, cũng có thể nói là có vai trò quyết định. Vì vậy,
học tập và làm theo tư tưởng và phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
điều cần thiết cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ cương vị lãnh đạo,
quản lý trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
2.3. Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước, đổi mới phong cách làm
việc của cán bộ lãnh đạo quản lý theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ cho nhân dân lao động được thực hiện
bằng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời mặc dù còn bộn bề công việc chống giặc đói, giặc dốt, Hồ Chí
Minh đã đưa ra chủ trương nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử thành lập ra Quốc
hội để quản lý mọi hoạt động xã hội. Việc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 6- 1- 1946 đã thể hiện tinh thần dân chủ nhằm
"lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác việc nhà. Trong việc tổng tuyển
cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công
dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi
giống, giai cấp, đảng phái" 7.
Nhân dân có quyền lựa chọn những người có đức có tài để lo việc nước,
song cũng "có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,

nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân".
Như vậy, sau cách mạng Tháng Tám 1945, những quyền dân chủ cơ bản
của người công dân Việt Nam đã được thực hiện trong thực tế. Điều này ở nhiều
nước tư bản chủ nghĩa, sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản, một bộ phận khá lớn
quần chúng nhân dân lao động vẫn không được hưởng mà phải trải qua nhiều cuộc
đấu tranh hy sinh đổ máu tiếp theo nữa mới giành được.
Quyền tự do dân chủ của nhân dân lao động nước ta còn được thực hiện qua
các Đoàn thể quần chúng. Hồ Chí Minh viết: "Nước ta là một nước dân chủ. Mọi
công việc đều vị lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, Mặt trận
công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc v.v. Những đoàn thể ấy đã tổ chức của dân,
liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ" 8.
Quan hệ giữa nhà nước với nhân dân là quan hệ gắn bó, tác động lẫn nhau.
Nhân dân thông qua đoàn thể của mình giới thiệu đại biểu tham gia các cơ quan
nhà nước, qua lá phiếu của mình bầu ra cơ quan nhà nước. Đồng thời nhân dân
cũng là người kiểm tra hoạt động nhà nước thông qua cơ quan đại diện là Hội
đồng nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương, qua hoạt động của các
đoàn thể quần chúng. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ bằng cách thông qua các
tổ chức quần chúng phản ánh những nguyện vọng chính đáng cho Đảng, Nhà
nước. Trên cơ sở đó mà Đảng, Nhà nước sửa đổi chính sách cho phù hợp với thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
7
8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, Sđd, tr.133.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, Sđd, tr.66.


Hồ Chí Minh vạch rõ: Đại đa số đảng viên vào Đảng với mong muốn phấn
đấu hi sinh cho dân cho nước. Song không ít đảng viên vào Đảng vì họ tưởng rằng
"vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm, mong làm chức này chức nọ"9. Những

người vào Đảng với mục đích như vậy dễ sinh ra bệnh rất nguy hiểm như: "bệnh
tham lam", "bệnh lười biếng", "bệnh kiêu ngạo", "bệnh hiếu danh", "thiếu kỷ luật",
óc hẹp hòi" v.v.10. Một khi những người này có quyền có chức, hay làm một công
việc nào đó dễ ức hiếp nhân dân, vi phạm quyền dân chủ của người dân, vi phạm kỷ
cương, phép nước. Chúng ta cần đấu tranh cương quyết với họ để bảo vệ những lợi
ích chính đáng của mình. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn gian khổ vì không ít kẻ
ham danh, ham lợi không từ một hành động nào để làm giàu bất chính, bất chấp lợi
ích của nhân dân. Song một điều nguy hiểm hơn, không ít kẻ lại nhân danh "Đảng",
"Nhà nước" để lừa dối, uy hiếp dân. Đảng, Nhà nước và nhân dân cần phải kiên
quyết đấu tranh với những kẻ thoái hoá biến chất đó, vạch trần bản chất xấu xa của
họ để bảo vệ uy tín của Đảng, bảo vệ tính nghiêm minh của Nhà nước. Vì vậy, phải
đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng Hồ Chí
Minh .
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay cho thấy
những thắng lợi của cách mạng đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng thông qua
việc tập hợp, tổ chức và phát huy sức mạnh của quần chúng, trong đó yếu tố quan
trọng là đường lối và phong cách công tác, làm việc của các cán bộ lãnh đạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, trong đó Người đặc biệt chú ý hình thành phong cách làm
việc khoa học hiệu quả của người lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương
trong việc hoạch định đường lối, chính sách vừa có tính nguyên tắc, vừa có tính
linh hoạt trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người xác định công tác cán bộ như
việc đào tạo nhân tài là trọng yếu, rất cần thiết cho đất nước. Trong quan niệm của
Người, cán bộ luôn gắn với tổ chức, chất lượng của cán bộ là kết quả tổng hợp
của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, đề bạt, cân
nhắc, kiểm tra giám sát, phê bình và sự nỗ lực phấn đấu của từng người. Muốn có
cán bộ tốt thì phải có tổ chức vững mạnh, phù hợp với khoa học.
Thông qua quan hệ với tập thể và xã hội sẽ thấy rõ tính cách của một người
có tính tập thể hay tính cá nhân chủ nghĩa, thể hiện năng lực lãnh đạo trong các
tình huống cụ thể của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định phẩm chất

quan trọng hàng đầu của người lãnh đạo là: Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm,
chính. Đối với mình phải luôn cầu tiến bộ, luôn tự phê bình, sữa chữa khuyết điểm
của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình. Người nhấn
mạnh "Tự mình phải chính, mới giúp được người khác chính. Mình không chính,
mà muốn người khác chính là vô lý"11. Cán bộ lãnh đạo, quản lý không có phong
cách làm việc vì chính nghĩa của Đảng của cách mạng và vì lới ích chính đáng của
nhân dân thì có ảnh hưởng tai hại cho Đảng, cho nhân dân.
9

Hồ Chí Minh: Toàn tập. T5, Sđd, tr. 254 - 255.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Sđd, tr. 254-255.
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Sđd, tr. 644.
10


Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng
định: "Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây
dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống, đồng thời thông
qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn
luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọ cán bộ"12.
Phát triển quan điểm này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đã chỉ rõ mục tiêu của công tác cán bộ trong thời kỳ mới là: "Xây dựng đội ngũ
cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân"13.
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dựng phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo "Cán bộ phải
là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,
hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, có bản lĩnh chính trị vững

vàng, không giao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực trong sáng; có ý thức tổ
chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân"14.
2. 4. Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
quá trình đấu tranh phòng chống quan liêu, lãng phí để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Từ trước tới nay còn khá nhiều người cứ nghĩ rằng bệnh quan liêu là bệnh
của các quan lại, cường hào và các công chức dưới chế độ phong kiến, thực dân
đế quốc; hoặc cho rằng, quan liêu là bệnh của các cán bộ có chức quyền cao, của
những cơ quan đảng, nhà nước ở cấp cao, ở Trung ương, còn ở địa phương, cơ sở
và đảng viên - thường thì không có.
Trong nhiều tác phẩm của mình, đặc biệt là cuốn Sửa đổi lối làm việc viết
năm 1947, Hồ Chí Minh đã xác định rõ: quan liêu là bệnh của "một số người trong
Đảng ta", của một số "cơ quan từ Chính phủ đến địa phương". Bệnh quan liêu
thường xuất hiện ở hai đối tượng:
Một là: Những đảng viên, cán bộ không giữ, hoặc giữ chức vụ thấp trong
bộ máy Nhà nước.
Hai là: Những đảng viên, cán bộ nắm giữ chức quyền quan trọng, có quyền
hành lớn trong Đảng và Nhà nước. Đối tượng thứ hai này khi mắc phải bệnh quan
liêu thì gây nguy hại cho chế độ, cho nhân dân hơn nhiều lần so với đối tượng thứ
nhất.
Ngoài việc chỉ ra đối tượng của bệnh quan liêu, Hồ Chí Minh còn xác định
rõ biểu hiện của nó. Theo Người, những cán bộ, đảng viên, những cơ quan của
Đảng và Nhà nước mắc phải bệnh này không đi sâu, đi sát phong trào, không nắm
12

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 77.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2001, tr.141.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, S.đ.d, tr. 136.


được tình hình cụ thể của địa phương, của ngành mình, không chịu gần gũi và học
hỏi nhân dân; thích ngồi bàn giấy, "chỉ tay năm ngón", "đóng cửa lại mà đặt kế
hoạch, viết chương trình". Do không nắm được tình hình chính xác, nên khi lãnh
đạo, chỉ đạo cái gì cũng chung chung, đại khái, không có biện pháp cụ thể để giải
quyết công việc; những người này rất sợ tự phê bình và phê bình, không giữ đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, ngại tiếp xúc,
đối thoại với quần chúng, với cấp dưới nhưng lại hay áp đặt ý kiến cá nhân hoặc
chuyển sang thái cực khác là buông lỏng lãnh đạo, hay vi phạm kỷ luật, vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiều biểu hiện của bệnh quan liêu. Theo Người, hai
biểu hiện cơ bản trong số nhiều người này là xa rời quần chúng và xa rời thực tế.
Hồ Chí Minh cho rằng quan liêu cùng với tham ô, lãng phí là "giặc nội xâm", là
tội ác, "làm suy yếu Đảng". Bệnh quan liêu hết sức nguy hiểm, những cán bộ và
những cơ quan lãnh đạo mắc phải bệnh này thì "có mắt mà không thấu suốt, có tai
mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật là không nắm
vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí” 1.
Có tham ô lãng phí là vì có bệnh quan liêu. Ở đâu có bệnh quan liêu nặng thì tất ở
đó có tham ô, lãng phí nhiều. Quan liêu tiếp tay cho cán bộ yếu kém, thoả hiệp với
những kẻ xấu tha hồ đục khoét ngân khố, tài sản quốc gia, tiền bạc của nhân dân.
Nó làm băng hoại đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Quan liêu, mệnh
lệnh làm thành một bức tường ngăn cách, tách rời Đảng và Chính phủ với nhân
dân, tách rời lợi ích của nhân dân với chính sách của Đảng và Nhà nước. Quan
liêu làm biến dạng các tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, làm cho những tổ chức
này vốn là một tổ chức lãnh đạo đại diện cho quyền lực, quyền lợi và là đầy tớ của
nhân dân, trở thành những tổ chức xa dân, đứng trên nhân dân và có đương lối,

chủ trương chính sách không sát, không hợp lòng dân, thậm chí đi ngược lại lợi
ích của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu do cả các nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan tạo nên. Trong đó các nguyên nhân chủ quan là chính, do
bản thân cán bộ, đảng viên, công chức của Nhà nước; "khinh nhân dân", "sợ nhân
dân", "không hiểu biết nhân dân", "không tin cậy nhân dân", "không yêu thương
nhân dân" và không biết liên hợp với nhân dân.
Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc chỉ ra bệnh quan liêu là của ai, biểu
hiện, tác hại và nguyên nhân phát sinh của nó, mà người còn chỉ ra nhiều biện
pháp đấu tranh chống căn bệnh đó. Người nói: Chúng ta muốn xây dựng một xã
hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, cần kiệm, liêm, chính thì phải tẩy rửa sạch
thói hư tật xấu của xã hội cũ, "những người mắc phải bệnh quan liêu, bệnh bàn
giấy không làm được việc đánh giặc trên măth trận và đây là "mặt trận tư tưởng và
chính trị", là "việc rất cần thiết và phải làm thường xuyên".
Chống quan liêu, tham ô, lãng phí là chống kẻ thù không mang gươm, súng,
nằm ngay trong từng cơ quan Đảng, nhà nước và trong từng con người, nên hết
sức khó khăn, phức tạp. Đây là một cuộc cách mạng, cuộc đấu tranh gay go giữa
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, S.đ.d, tr.490.


cái tốt và cái xấu, cái mới và cái cũ, giữa cái chung và cái riêng, giữa đạo đức và
phản đạo đức. Muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này phải có tư tưởng
chỉ đạo đúng, hành động quyết tâm cao và phải có biện pháp đồng bộ, tiến trình
hợp lý và phải biết dựa vào nhân dân.
Để tạo ra bước chuyển rõ nét trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa cần gắn chặt với việc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí với đấu
tranh chống quan liêu. Các cấp uỷ đảng cần làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất
là các cán bộ đảng viên giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong Đảng, trong bộ máy

Nhà nước, nhận thức đúng đắn mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và tác hại của
các tệ quan liêu, tham nhũng và lãng phí. Nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp
cần đề cập đúng mức vấn đề chống quan liêu trong cơ quan Đảng, Nhà nước trên
mọi mặt công tác. Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể cho từng đảng viên, cán bộ,
cấp uỷ tự phê bình và phê bình, rút kinh nghiệm, đánh giá và kết luận rõ mức độ
phạm phải bệnh quan liêu. Những đảng viên cấp uỷ nào chưa kiểm thảo hoặc
kiểm thảo chưa đến nơi, đến chốn cần được chỉ đạo, uốn nắn làm đúng nội dung,
yêu cầu, mục đích mà cuộc vận động đã đề ra. Cũng cần chống việc lãnh đạo, chỉ
đạo, hô hào chung chung mà không có biện pháp cụ thể, chỉ biết phê phán các cơ
quan, các cán bộ lãnh đạo, quản lý mà bản thân từng cán bộ, đảng viên không tự
kiểm điểm, tự sửa chữa các tư tưởng, hành vi quan liêu của mình.
Động viên toàn dân tham gia tích cực hơn nữa chống quan liêu trong hoạt
động của các cơ quan và nhân viên nhà nước, cải cách bộ máy nhà nước và các
thủ tục hành chính theo hướng tinh, gọn, đồng bộ, hiệu quả.
Chấn chỉnh lại công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan Đảng
và nhà nước. Khi phát hiện có biểu hiện quan liêu phải nhắc nhở, nếu vì quan liêu
mà có quyết định sai trái, gây hậu quả nghiêm trọng thì phải kịp thời, kiên quyết
xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

KẾT LUẬN


Lãnh đạo là một nhiệm vụ khó khăn mà mỗi phong cách lãnh đạo khi sử
dụng độc lập, không kết hợp về lâu về dài và một cách nhuần nhuyễn sẽ mang lại
những hệ quả tiêu cực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta và
dân tộc ta. Người đã trải qua một cuộc đời hoạt động, lãnh đạo cách mạng đầy
sóng gió phi thường và đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi
khác. Người đã giữ những cương vị cao nhất trong bộ máy Đảng, Nhà nước ta.
Cho đến nay Hồ Chí Minh là người duy nhất đồng thời giữ cương vị Chủ tịch

Đảng và Chủ tịch nước. Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, làm Chủ tịch Đảng 18
năm, Sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm Chủ tịch nước đầu tiên trong
24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tưởng vô giá và một phong
cách làm việc mẫu mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta học tập và
làm theo.
Nghiên cứu tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về phong cách làm việc,
bước đầu, đề tài khoa học này đề xuất việc xây dựng phong cách làm việc cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta với sáu nội dung cơ bản:
Một là: Thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động,
sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.
Hai là: Thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng với tính trung thực, khách
quan khoa học và trí tuệ.
Ba là: Kết hợp cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán và tinh
thần trách nhiệm cá nhân cao.
Bốn là: Thống nhất giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn, lời nói đi đôi với
việc làm.
Năm là: Rèn luyện phong cách làm việc có tính quần chúng, sâu sát cơ sở,
thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân.
Sáu là: Xây dựng phong cách làm việc cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
của cán bộ lãnh đạo quản lý.



×