Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Xây dựng làng văn hoá (theo tiếp cận phát triển cộng đồng) ở hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.46 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Họ và tên: Lê Văn Chương

XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA
(THEO TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG) Ở HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SỰ PHẠM HÀ NỘI

Họ và tên: Lê Văn Chương

XÂY DỰNG LÀNG VĂN HÓA
(THEO TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG) Ở HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Văn Tập

HÀ NỘI, NĂM 2017

2



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn Đề tài

2.

Tính cấp thiết của Đề tài

3.

Mục tiêu nghiên cứu

4.

Giới hạn nghiên cứu

5.

Đối tượng nghiên cứu

6.

Nhiệm vụ nghiên cứu

7.

Các phương pháp nghiên cứu đã triển khai trong quá trình nghiên cứu


8.

Cấu trúc của Luận văn
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HOÁ

1.

Khái niệm làng

2.

Khái niệm làng văn hóa và “Văn hoá làng”

3.

Tiêu chí làng văn hoá

4.

Chất lượng làng văn hóa

5.

Cơ sở khoa học của công tác xây dựng làng văn hoá ở Hải Phòng

5.1

Cơ sở lý luận


5.2

Cơ sở thực tiễn

6.

Đặc điểm làng ở Hải Phòng

7.

Tiêu chí làng văn hóa ở Hải Phòng

8.

Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng

3


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG LÀNG VĂN
Ở HẢI PHÒNG

1.

Công tác chỉ đạo, quản lý Nhà nước đối với qúa trình xây dựng làng
văn hoá ở Hải Phòng

1.1


Các văn bản về cơ chế chính sách do các cơ quan Trung ương ban hành

1.2

Các văn bản về cơ chế chính sách xây dựng làng văn hóa do các cơ
quan Nhà nước cấp thành phố ban hành

1.3

Các văn bản về cơ chế chính sách xây dựng làng văn hóa do các cơ
quan cấp huyện ban hành

1.4

Các văn bản về cơ chế chính sách xây dựng Làng văn hóa do các cơ
quan cấp xã ban hành

2.

Tổ chức thực hiện xây dựng Làng văn hóa ở Hải Phòng

2.1

Công tác tổ chức bộ máy xây dựng làng văn hóa

2.2

Công tác tuyên truyền, phát động phong trào xây dựng Làng văn hóa


2.3

Công tác xã hội hóa, phát huy sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể,
chính trị xã hội và mỗi người dân

2.4

Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng,vật chất kỹ thuật

2.5

Công tác xây dựng và phát triển đời sống văn hóa xã hội

3

Kết quả xây dựng làng văn hoá ở Hải Phòng những năm qua

3.1

Quá trình xây dựng làng văn hoá ở Hải Phòng.

3.2

Kết quả thực hiện, chất lượng xây dựng làng văn hoá

3.3

Những thành công và hạn chế của công tác xây dựng làng văn hóa
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG


4


LÀNG VĂN HOÁ Ở HẢI PHÒNG

1.

Đề xuất một số giải pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và quản lý
Nhà nước đối với cộng đồng làng văn hoá Hải Phòng

1.1

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ,chính quyền
đối với xây dựng làng văn hoá

1.2

Kiện toàn và đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo phong trào “ Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”

1.3

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động xây dựng làng văn
hóa

1.4.

Nghiên cứu ban hành một số chính sách đầu tư


1.5.

Quy hoạch xây dựng thiết chế văn hoá ở làng

1.6.

Tổ chức bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xây dựng làng văn hoá

1.7.

Tổ chức tổng rà soát, chỉnh lý, bổ sung hương ước làng văn hoá

1.8.

Tổ chức thực hiện có hiệu quả hương ước làng văn hoá

1.9.

Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng

2.

Xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện một số cơ chế chính
sách đối với công tác xây dựng làng văn hoá ở Hải Phòng

2.1.

Rà soát một số văn bản đã ban hành, điều chỉnh một số quy định
không còn phù hợp với thực tiễn


2.2.

Chính sách xã hội hoá

2.3.

Chính sách về tài chính

2.4.

Chính sách về bồi dưỡng, đào tạo

2.5.

Chính sách về việc chỉ đạo xây dựng thiết chế văn hoá làng

2.6.

Chính sách thi đua khen thưởng

2.7.

Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá phi vật thể
truyền thống trong các làng văn hoá

5


2.8.


Cơ chế chính sách xây dựng và thực hiện hương ước làng văn hoá

2.9.

Cơ chế phối hợp chỉ đạo

2.10.

Khuyến khích tôn vinh tập thể, cá nhân đóng góp xây dựng thiết chế
văn hoá làng
KẾT LUẬN

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nông thôn nước ta nói chung và nông thôn Hải Phòng nói
riêng, người Việt thường cư trú, cùng làm ăn sinh sống trên một địa
bàn nhất định, thường được gọi là làng. Làng đã hình thành, phát triển
từ lâu đời và có những đóng góp to lớn vào quá trình dựng nước và giữ
nước hàng ngàn năm của dân tộc. Trong tiến trình phát triển, làng luôn
có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, bảo tồn và
phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Trong những biến cố của lịch sử
dân tộc, có những lúc nước mất nhưng làng không mất. Làng vẫn tồn
tại như một chủ thể với các đặc trưng cơ bản vốn có của nó trên các
mặt kinh tế, văn hoá, xã hội...
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
của dân tộc ta, thời gian kéo dài 30 năm (1945-1975) với mức độ vô
cùng khốc liệt, mỗi làng quê Việt Nam luôn là nơi giữ gìn, hun đúc,

phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, quả cảm và lòng yêu nước nồng
nàn của mỗi người nông dân Việt Nam. Làng còn là thành luỹ ngăn
chặn bước quân xâm lược, là nguồn cung cấp dường như vô tận về sức
người, sức của và sức mạnh tinh thần cho kháng chiến. Đó là những
đóng góp vô cùng to lớn của mỗi làng quê Việt Nam góp phần cùng
toàn dân tộc đánh thắng oanh liệt thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành
lại nền độc lập, hòa bình, tự do cho Tổ quốc.
Ngày nay thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, đòi hỏi mỗi làng quê Việt Nam cần có sự phát triển và tiến bộ
hơn, có nhiều đóng góp to lớn hơn nữa trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nước nhà và mỗi làng quê Việt Nam cần có sự bứt
phá, đổi mới cho phù hợp.
Trên cơ sở đó, từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Bộ
Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã chỉ
đạo, hướng dẫn một số địa phương triển khai xây dựng thí điểm mô
hình Làng văn hóa. Từ đó đến nay, Làng văn hóa không chỉ là một
thuật ngữ mà đã trở thành một mô hình hiện thực trong đời sống văn
hóa xã hội, một phong trào có sức sống mạnh mẽ, nhanh chóng lan
rộng trong cả nước cũng như trên địa bàn thành phố Hải Phòng, với sự
phát triển đa dạng và phong phú.

7


Việc triển khai đề tài: Xây dựng làng văn hóa (theo tiếp cận phát
triển cộng đồng) là một yêu cầu khách quan, cần thiết và nên làm vì sự
phát triển bền vững của cộng đồng làng ở Hải Phòng nói riêng và sự phát
triển chung của thành phố trong tương lai.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hải Phòng được Chính phủ công nhận đô thị loại I cấp

quốc gia và thành phố đã ban hành Nghị quyết về xây dựng nông thôn
mới, quyết tâm phấn đấu đến năm 2020, 100% số xã trên địa bàn thành
phố đạt 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đây là thuận lợi to lớn để
các huyện ngoại thành thành phố phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó phong trào xây dựng làng
văn hóa ở Hải Phòng sẽ chịu những thách thức lớn và chịu tác động quan
trọng, mạnh mẽ từ sự phát triển chung của thành phố.
Trong những năm qua, phong trào xây dựng Làng văn hoá ở Hải
Phòng cơ bản dựa vào các tiêu chuẩn chung của cả nước và những nội
dung chung cho xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng. Các tiêu chuẩn,
nội dung đó còn thiếu định lượng hay nói một cách khác còn thiếu
“khung trần” hoặc “ngưỡng cả về số lượng và chất lượng. Do đó, chưa
động viên sâu rộng sự tích cực, phấn đấu xây dựng làng văn hóa của
chính quyền cơ sở và nhân dân các làng. Mặt khác, thực tế áp dụng các
tiêu chuẩn, nội dung quy định của Trung ương đối với các làng có đặc
thù khác nhau: làng thuần nông, làng nghề, làng miền núi, hải đảo còn
có những bất cập.
Qua quá trình triển khai cho thấy, việc công nhận các danh hiệu
văn hóa hiện nay chưa thực sự có sức thuyết phục, còn chạy theo số
lượng. Trong quá trình tổ chức thực hiện, kế hoạch phần nhiều Ban chỉ
đạo và chính quyền cấp xã đã tập trung chỉ đạo tuyên truyền, vận động
nhân dân tích cực tham gia trong thời kỳ chuẩn bị, soạn thảo hương
ước làng và tổ chức lễ phát động xây dựng. Đó là các biện pháp, các
bước tiến hành quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, sau đó lại thiếu sự
quan tâm, thiếu các biện pháp chỉ đạo thường xuyên và cụ thể để nâng
cao chất lượng xây dựng Làng văn hóa. Do đó, sự tiến bộ về các mặt
kinh tế - văn hoá xã hội ở các Làng văn hoá chưa thật mạnh mẽ và rõ
nét. Thậm chí có một số nơi còn buông lỏng quản lý, chưa coi trọng
việc xây dựng Làng văn hoá, nên hiện nay việc xây dựng và giữu vững
danh hiệu Làng văn hoá ở một số địa phương chỉ mang tính hình thức.

Trong những năm qua, chính quyền các cấp từ thành phố tới cơ
sở cùng với các tầng lớp nhân dân đã có nhiều cố gắng trong phong
8


trào xây dựng làng văn hoá. Thành phố đã có nhiều văn bản chỉ đạo và
chính sách đầu tư, chế độ khen thưởng cho các làng văn hoá. Ban chỉ
đạo thành phố và các ngành thành viên đều có văn bản hướng dẫn.
Các huyện, xã đều ban hành Nghị quyết, văn bản pháp qui, chính sách
khuyến khích phát triển xây dựng làng văn hoá nhưng chưa có một cơ
chế chính sách thống nhất đồng bộ và phù hợp với sự phát triển kinh tế
- văn hoá của các địa phương. Nhất là cơ chế, chính sách về phát triển
văn hoá xã hội như: Đầu tư cho xây dựng và tổ chức hoạt động của các
thiết chế văn hoá làng; huy động thành lập và sử dụng quỹ văn hoá
làng; chế độ đãi ngộ động viên đối với Ban vận động xây dựng làng
văn hoá nói chung, với Trưởng làng nói riêng, mối quan hệ điều hành
giữa trưởng làng văn hoá với Trưởng thôn trong các hoạt động của
làng...
Vì tất cả những lý do chủ yếu trên, cho thấy việc nghiên cứu và đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cộng đồng làng văn hoá (theo
tiếp cận phát triển cộng đồng) ở Hải Phòng là rất cần thiết, cấp bách.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng xây
dựng làng văn hoá ở Hải Phòng.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình xây dựng làng văn hoá ở các địa phương
trên địa bàn thành phố Hải Phòng;
- Công tác xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng từ năm 2000 –
2015, định hướng đến năm 2020.
5. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu các yếu tố tiêu chuẩn, nội dung xây dựng làng văn hoá;
Nghiên cứu các yếu tố của công tác tổ chức chỉ đạo, quản lý, môi
trường pháp lý của việc xây dựng và phát triển làng văn hoá ở Hải Phòng;
Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng xây
dựng làng văn hoá ở Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá các thông tin tư liệu và những bài học kinh nghiệm
trong quá trình xây dựng làng văn hóa ở một số địa phương;
Đánh giá thực trạng xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng;

9


Xác định những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu và những yêu cầu
đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng xây dựng làng văn hóa ở Hải
Phòng đến năm 2020;
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng làng văn
hoá ở Hải Phòng.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu văn bản, tài liệu, hệ thống hóa lý luận: Tiến hành
sưu tầm, thu thập và đọc các văn bản, tài liệu; chọn lựa và hệ thống hoá
các thông tin, tư liệu phù hợp từ những văn bản, thu thập được;
- Điều tra xã hội: Tổ chức tọa đàm, phát phiếu điều tra, phỏng
vấn … về công tác xây dựng tiêu chí, chất lượng làng văn hóa;
- Tổng kết thực tiễn và thực nghiệm: Tổ chức tập huấn cho đội
ngũ cán bộ chuyên trách công tác văn hoá ở cơ sở, sau đó kiểm tra,
giám sát, đánh giá kết quả công tác xây dựng làng văn hóa theo nội
dung tập huấn của cán bộ.
8. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn có kết cấu gồm 3 phần:

+ Phần Mở đầu;
+ Phần kết quả nghiên cứu gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xây dựng làng văn hóa.
- Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng làng văn hóa ở Hải Phòng;
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng làng văn ở
Hải Phòng.
+ Phần Kết luận

10


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG LÀNG VĂN HOÁ

1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu công tác xây dựng làng văn hóa
Khái niệm cũng như mô hình thực tiễn làng văn hoá mới xuất
hiện trong đời sống văn hoá xã hội ở nước ta gần 20 năm trở lại đây.
Đó là một vấn đề mới cho nên, ở Trung ương, Cục Văn hoá cơ sở (Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) – cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo
Trung ương Phòng trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, trong gần 20 năm qua đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo chuyên
đề khoa học về Làng văn hoá; chỉ đạo, hướng dẫn các tỉnh, thành phố
trong cả nước xây dựng mô hình. Phát huy hiệu quả thực tế Làng văn
hoá đã đạt được bước đầu, nhiều tỉnh, thành phố như: Nghệ An, Thanh
Hoá, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Thừa Thiên Huế...
triển khai thực hiện phong trào xây dựng Làng văn hoá. Trên cơ sở đó
rút ra những kết luận, những kinh nghiệm thực tiễn quý báu đối với
xây dựng Làng văn hoá.
Đối với thành phố Hải Phòng, thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn
của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Ban Chỉ đạo Trung ương Phong

trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, phong trào xây
dựng Làng văn hoá đã được phát động và triển khai thực hiện trên địa
bàn 7 huyện ngoại thành liên tục trong gần 20 năm qua. Theo kế
hoạch, thành phố Hải Phòng triển khai phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” với 5 nội dung cơ bản là:
1. Phát triển kinh tế, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, làm giàu
chính đáng
2. Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh
3. Xây dựng nếp sống văn minh
4. Xây dựng môi trường văn hóa sạch- đẹp - an toàn
5. Xây dựng các thiết chế văn hoá, thể thao và nâng cao chất
lượng các hoạt động văn hoá- thể thao cơ sở.

11


Đến nay, toàn thành phố có tổng số 2563 làng, tổ dân phố phát
động xây dựng làng, tổ dân phố văn hoá. Trong đó có 1589 làng, tổ dân
phố đạt danh hiệu văn hoá, đạt 63%; hơn 300 làng, tổ dân phố văn hoá
tiêu biểu được biểu dương, khen thưởng
Tuy nhiên cho đến nay cũng chưa có một chuyên gia, một nhà
khoa học hoặc một cơ quan nào nghiên cứu một cách hệ thống, đánh
giá thực trạng xây dựng Làng văn hoá ở Hải Phòng về các mặt hiệu
quả đạt được cũng như những tồn tại, bất cập cần được tháo gỡ, nhất là
sự phù hợp hay chưa phù hợp trong việc xây dựng Làng văn hoá so với
các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Làng văn hoá do Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quy định.
Việc triển khai đề tài khoa học: Xây dựng Làng văn hóa (theo
hướng tiếp cận phát triển cộng đồng) ở Hải Phòng là việc làm đầu tiên
trên địa bàn thành phố đối với vấn đề này.

2. Khái niệm làng
Tự ngàn xưa, ở nông thôn nước ta nói chung và ở Hải Phòng nói
riêng, người Việt thường cư trú và làm ăn, sinh sống trên một địa bàn
nhất định thường được gọi là làng. Theo Đại từ điển “ Làng là nơi sinh
sống, làm ăn lâu đời của nông dân vùng đồng bằng, trung du, thường
có phạm vi và đặc trưng riêng biệt” [23, tr.12]
“Làng là cụm dân cư ở nông thôn, là đơn vị hành chính thấp nhất
ở nông thôn ngày trước” [33, tr.12]
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do ông Hoàng Phê chủ biên, làng
được hiểu như sau: “ Làng là khối dân cư ở nông thôn làm thành một
đơn vị có đời sống riêng nhiều mặt, là đơn vị hành chính thấp nhất thời
phong kiến”, [12, tr. 542]
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng: “ Làng là một đơn vị cộng cư,
có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức
xã hội nông nghiệp, tiêu nông, tự cung, tự cấp, mặt khác là mẫu hình
xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình
- tông tộc gia trưởng, đảm bảo sự công bằng và bền vững của xã hội
ngông nghiệp ấy. Làng được hình thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào
hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ...”[22, tr.45].
Theo quan niệm của người Việt, làng là một gia đình lớn, là một
xã hội thu nhỏ. Quốc gia là một hình ảnh mở của gia tộc, người ta coi
toàn quốc như một đại gia đình. Làng một trong ba hằng số của văn
hoá Việt Nam( nhà – làng - nước). Là tụ cư tổ chức chủ yếu dựa vào
12


nguyên lý cùng cội nguồn, cùng chỗ ở. Là hình thức công xã nông thôn
với những đặc thù riêng biệt của mình. Những đặc thù riêng ấy thể hiện
ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, chế độ tổ chức xã hội,các điều lệ,
tập tục.

Trong chế độ phong kiến, làng là đơn vị hành chính thấp nhất, dưới
tổng. Cách mạng tháng Tám thành công, chế độ phong kiến thực dân sụp
đổ, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc được tiến hành mạnh mẽ từ những năm 60 của thế
kỷ trước. Phong trào xây dựng và phát triển hợp tác xã nông nghiệp được
triển khai rộng khắp trong nông thôn miền Bắc và ở Hải Phòng. Để phục
vụ cho quản lý nhà nước và sản xuất làng được chia nhỏ thành các thôn,
xóm, đội sản xuất. Vì thế vai trò hành chính của làng mất hẳn. Hiện nay
thôn vẫn được duy trì, có chức vụ trưởng thôn (thôn không phải là đơn vị
hành chính), giúp chính quyền xã quản lý, duy trì trật tự trị an và phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Vì thế ở Hải Phòng có nơi gọi
là làng, có nơi gọi là thôn. Trong đề tài này thống nhất gọi là làng.
Xét về mặt lịch sử và xã hội, làng là một cộng đồng được hình
thành và phát triển thường dựa trên nguyên lý: cùng nơi cư trú, cùng
huyết thống. Tính bền vững của làng, độ gắn kết giữa các thành viên và
tính đoàn kết gắn bó toàn bộ cộng đồng làng phụ thuộc vào hai nguyên
lý trên. Sự cố kết gắn bó nhiều dòng họ, gia tộc và các thành viên trong
làng trải nhiều đời đã tạo nên mỗi làng quê Việt Nam là một không
gian văn hoá. Cộng đồng văn hoá làng có những nét riêng biệt và
phong phú.
Có thể nói, khái niệm làng từ lâu đã ăn sâu, thấm đượm vào nhiều
nét suy nghĩ, tình cảm, tập quán và quan hệ xã hội của mỗi người nông dân
và toàn thể cộng đồng làng. Những hình ảnh gần gũi: cây đa, giếng nước,
mái đình, luỹ tre, cổng làng, lời ru của mẹ. hội làng...dường như đã trở
thành những biểu tượng riêng biệt chứa đầy những tình cảm riêng tư của
mỗi người đối với làng quê của mình. Và đôi khi là nỗi nhớ khôn nguôi
với mỗi người xa xứ. Từ những tình cảm, nếp nghĩ, từ trong sinh hoạt và
trong sản xuất con người đã gắn bó với nhau từ đời này sang đời khác
trong quan hệ huyết thống, tập tục, nếp sống và trong trật tự cộng đồng.
Tóm lại: Làng là hiện tượng đặc thù của xã hội Việt Nam. Làng

đơn vị cơ bản chiếm hữu và phân phối đất đai công cộng với nền kinh
tế tiểu nông, tự cấp, tự túc. Làng gắn với các nghề thủ công tinh xảo
truyền thống. Làng cũng là đơn vị văn hoá, xã hội, nơi tập hợp dân cư
quanh mái đình, ngôi chùa với tín ngưỡng , lễ giáo, tập tục riêng.

13


"Làng là một đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam, làng của
người Việt là một môi trường văn hóa. Ở đó, mọi thành tố, mọi hiện
tượng văn hóa được sinh thành, phát triển, lưu giữ và trao truyền tới
mọi cá thể" [1, tr.47]
2. Khái niệm làng văn hóa và “văn hoá làng”
2.1. Khái niệm Làng văn hóa
Làng văn hoá là một tên gọi mới được xuất hiện và sử dụng tại
hội thảo do Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) tổ chức năm 1990 tại tỉnh Bắc Ninh, nhằm nghiên cứu mô hình
làng, phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của làng trong các quan hệ và
cơ cấu của nó. Và từ đó khái niệm Làng văn hóa được sử dụng rộng rãi
trong đời sống văn hóa xã hội của nước ta. Làng văn hóa là làng có đời
sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; có đời sống văn hoá tinh
thần lành mạnh, phong phú và có sắc thái riêng; có môi trường cảnh
quan sạch đẹp; thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước.
Riêng đối với Hải Phòng, tại kế hoạch triển khai phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” của Ủy ban nhân dân
thành phố Hải Phòng: Làng văn hóa là làng có đời sống kinh tế ổn định
và từng bước phát triển; đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú, có
sắc thái riêng; môi trường cảnh quan sạch đẹp; có khu vui chơi giải trí
và hoạt động văn hoá thể thao; thực hiện tốt chủ trương của Đảng, các

chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nghiêm túc
hương ước, quy ước của làng.
Về cơ bản những tiêu chuẩn về Làng văn hóa mà Ủy ban nhân
dân thành phố Hải Phòng đưa ra phù hợp và cụ thể hoá các tiêu chuẩn
Làng văn hóa do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định.
Căn cứ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng địa phương, dưới sự
chỉ đạo, hướng dẫn của ngành Văn hoá và Thể thao từ Trung ương tới
địa phương, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở xã đã lãnh đạo, chỉ
đạo, vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào xây dựng
làng văn hoá theo các tiêu chuẩn trên. Do vậy khái niệm Làng văn hóa
ngày càng được phổ biến rộng rãi và đã trở thành một thuật ngữ thông
dụng trong đời sống văn hoá. Mô hình Làng văn hóa ngày một trở nên
sinh động, phong phú và rõ nét hơn trong đời sống kinh tế, văn hoá xã
hội ở nước ta nói chung và ở Hải Phòng nói riêng.
2.2. Khái niệm “văn hóa làng”

14


Như trên đã trình bày, làng không chỉ là một đơn vị xã hội mà
còn là một đơn vị văn hoá, một không gian văn hoá. Khái niệm văn
hoá ngày nay được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hoá vật thể và
văn hoá phi vật thể. Như vậy, văn hoá làng là toàn bộ các giá trị văn
hoá vật thể và văn hoá phi vật thể do toàn bộ cộng đồng làng trải qua
nhiều đời sáng tạo ra (đình, chùa, nhà ở, các công trình kiến trúc khác,
trang phục, ngôn ngữ, văn nghệ, tín ngưỡng, hội làng, phong tục tập
quán, nếp sống sinh hoạt...) được sử dụng cùng sự tồn tại bền vững
và phát triển của làng.
Và văn hoá làng là một khái niệm phản ánh khách quan sự tồn tại
và phát triển của đời sống kinh tế- văn hoá xã hội của mỗi làng quê

Việt Nam, là một bộ phận góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu văn hoá làng là quá trình tìm về cội nguồn, tìm kiếm gạn
đục, khơi trong những giá trị văn hoá tốt đẹp của làng quê Việt Nam
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bồi dưỡng và phát huy các giá trị văn
hoá truyền thống tốt đẹp xưa trong xây dựng làng văn hoá và xây dựng
nông thôn mới hiện nay.
Trong kho tàng văn hoá làng nổi bật là tính cố kết cộng đồng
giữa các thành viên trong làng, mối liên hệ bền chặt và thiêng liêng
giữa con cháu và ông cha đã khuất, là tình đoàn kết thương yêu đùm
bọc lẫn nhau giữa xóm giềng, nơi bồi đắp nên lòng yêu nước, thương
nòi của mỗi người dân Việt Nam... Đó là giá trị văn hóa tinh thần quý
báu, vô giá tạo nên sức mạnh của mỗi làng quê Việt Nam, góp phần
làm nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên tính cố kết cộng đồng, tình đoàn kết làng, xã, bên cạnh
những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp dường như vẫn lưu giữ và
tồn taị cho đến ngày hôm nay tính bảo thủ, trì trệ, cục bộ địa phương “
phép vua thua lệ làng”, nếu như không muốn nói đến tư tưởng “cát cứ
phong kiến”. Điều đó buộc người nông dân phải “suy nghĩ trên luống
cày” của mình và bị níu kéo trong tầm nhìn “không vượt qua nổi luỹ
tre làng” và sau mỗi luỹ tre làng, mỗi làng quê Việt Nam dường như
một không gian kinh tế- văn hoá xã hội đóng kín...
Sự hình thành và phát triển của mỗi làng quê Việt Nam là hình
ảnh của quá trình di dân tự nhiên, dựa trên chế độ chiếm hữu, phân
phối đất đai công cộng với nền kinh tế tiểu nông tự túc, tự cấp... cho
nên trong lòng văn hoá làng, trong nếp suy nghĩ, sinh hoạt và sản xuất
mặc dù đã có lệ làng, tục làng, khoán ước, hương ước làng song vẫn in
đậm dấu ấn tính tự phát và tuỳ tiện và sự trả giá cho sự hội nhập nền

15



kinh tế thị trường cũng như trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông thôn hiện nay là tất yếu và thậm chí là quá đắt... Đó là những
vấn đề tồn tại ngay trong văn hoá làng mà chúng ta cần phải giải quyết
trong thực tiễn hiện tại.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, mỗi làng quê Việt Nam
chỉ có thể tồn tại bền vững và phát triển là nhờ có mối liên kết hoặc
liên hệ về kinh tế, văn hoá, xã hội với nhiều làng xung quanh và khu
vực. Đó là mối liên kết “liên làng” hoặc “siêu làng” và phải chăng đó
là sự mở rộng và giao thoa của văn hoá làng. Điều đó cho thấy, làng là
đơn vị văn hoá, một không gian văn hoá vừa đóng, vừa mở. Sự đóng,
mở, giao tiếp hoặc không giao tiếp về kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi
làng tuỳ thuộc vào tình hình chính trị và xã hội của mỗi thời điểm làm
cho văn hoá làng luôn động chứ không tĩnh...
Đánh giá về mối liên hệ này, giáo sư sử học Hà Văn Tấn đã viết:
“Để tránh các khái niệm phiến diện, đã đến lúc chúng ta phải chú ý đầy
đủ đến các mối liên hệ giữa làng với bên ngoài, tức là mối liên hệ bên
ngoài cấu trúc. Có thể chia những liên hệ đó ra làm hai loại. Một loại
gồm những liên hệ giữa làng này với làng khác, tức mối liên hệ giữa
các hệ thống tương đương, mà ở đây chúng tôi gọi là liên hệ liên làng.
Loại thứ hai gồm những liên hệ giữa làng với cộng đồng, hay khu vực
rộng lớn hơn, tức mối liên hệ giữa hệ thống làng với các hệ thống lớn
chứa đựng nó mà ở đây chúng tôi gọi là liên hệ siêu làng. Cộng đồng
làng rộng, hẹp với các thứ bậc khác nhau. Khi cộng đồng tộc người đã
tiến tới trình dân tộc thì cộng đồng siêu làng lớn nhất là nước, là dân
tộc. Luôn phải nhớ rằng trong lịch sử Việt Nam, từ rất lâu, các cộng
đồng siêu làng đã tồn tại song song với cộng đồng làng, chứ không
phải cộng đồng làng đã mở rộng thành cộng đồng siêu làng, không
phải làng mở rộng thành nước. Cần đặc biệt chú ý điểm này, vì nếu
không thấy được như vậy, dễ nảy sinh các nhận định không đúng về

mối quan hệ giữa làng với nước...
... Chính từ những mối liên hệ siêu làng mà hình thành ý thức
cộng đồng siêu làng, rồi từ ý thức cộng đồng siêu làng tiền dân tộc
hình thành ý thức cộng đồng siêu làng dân tộc chứ không phải ý thức
cộng đồng làng phát triển thành ý thức cộng đồng dân tộc...”
Dù gì đi nữa, làng vẫn là một đơn vị xã hội, một không gian văn
hoá tồn tại và phát triển song song và chịu sự chi phối của văn hoá dân
tộc, đồng thời có những đóng góp và làm phong phú thêm văn hoá dân
tộc. Trong những biến cố của lịch sử dân tộc, có những lúc nước mất
nhưng làng không mất. Làng vẫn tồn tại như một chủ thể với các đặc
16


trưng cơ bản vốn có của nó trên các mặt kinh tế- văn hoá xã hội. Trong
đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của mỗi người được sinh ra và
lớn lên ở nông thôn, làng là hình bóng của quê hương, của những
người thân với những tình cảm vui buồn, được, mất vô cùng thiêng
liêng của mỗi đời người.
4. Tiêu chuẩn Làng văn hóa
Ngày 10/10/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành
Thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL quy định chi tiết về tiêu chuẩn,
trình tự thủ tục, hồ sơ công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn
văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố
văn hóa” và tương đương. Sau đây trích giới thiệu những tiêu chuẩn
Làng văn hóa.
"Điều 5. Tiêu chuẩn Danh hiệu “Thôn văn hóa”, “Làng văn
hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa” và tương đương
1. Đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:
a) Thực hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, không
còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương (dưới đây gọi là bình quân chung);
b) Có phong trào xóa nhà tạm, dột nát; tỷ lệ hộ có nhà bền vững
cao hơn mức bình quân chung;
c) Có nhiều hoạt động hiệu quả: Về tuyên truyền, phổ biến và
ứng dụng khoa học-kỹ thuật; phát triển nghề truyền thống; hợp tác và
liên kết phát triển kinh tế;
d) Tỷ lệ lao động có việc làm, thu nhập bình quân đầu người/năm
cao hơn mức bình quân chung;
đ) Có 80% trở lên hộ gia đình tham gia cuộc vận động xây dựng
nông thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế-xã hội ở cộng
đồng.
2. Đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú:
a) Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn (làng, ấp, bản và tương
đương) từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch;
b) Duy trì phong trào văn hóa, thể thao, thu hút 40% trở lên số
người dân tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ở cộng đồng;

17


c) Có 70% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; không có hành vi
truyền bá và hành nghề mê tín dị đoan;
d) Không phát sinh người mắc tệ nạn xã hội ở cộng đồng; không
có người sử dụng và lưu hành văn hóa phẩm độc hại;
đ) Có 70% trở lên hộ gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”,
trong đó ít nhất 50% gia đình văn hóa được công nhận 3 năm trở lên;
e) 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, đạt chuẩn
phổ cập giáo dục trung học trở lên; có phong trào “khuyến học”,

khuyến tài;
g) Không có hành vi gây lây truyền dịch bệnh; không để xảy ra
ngộ độc thực phẩm đông người; giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng,
trẻ em được tiêm chủng đầy đủ và phụ nữ có thai được khám định kỳ;
h) Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình;
i) Có nhiều hoạt động đoàn kết giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và
các công trình công cộng; bảo tồn các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể
thao dân gian truyền thống ở địa phương.
3. Môi trường cảnh quan sạch đẹp:
a) Có tổ vệ sinh thường xuyên quét dọn vệ sinh, thu gom rác thải
về nơi xử lý tập trung theo quy định;
b) Tỷ lệ hộ gia đình có 3 công trình hợp vệ sinh (nước sạch, nhà
tắm, hố xí) đạt chuẩn, cao hơn mức bình quân chung; các cơ sở sản
xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường;
c) Nhà ở khu dân cư, các công trình công cộng, nghĩa trang được
xây dựng từng bước theo quy hoạch;
d) Thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở, nâng cao ý thức của
người dân về bảo vệ môi trường sinh thái; vận động nhân dân xây dựng
cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước; cải tạo các ao, hồ sinh thái;
trồng cây xanh.
4. Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước:
a) Có 90% trở lên hộ gia đình được phổ biến và nghiêm chỉnh
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và các quy định của địa phương;

18



b) Hoạt động hòa giải có hiệu quả; hầu hết những mâu thuẫn, bất
hòa được giải quyết tại cộng đồng;
c) Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở; phản ánh kịp thời những đề xuất, kiến nghị
của nhân dân giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở, cộng đồng dân
cư; không có khiếu kiện đông người trái pháp luật;
d) Tuyên truyền và tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân ở
khu dân cư tham gia giám sát hoạt động cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử, cán bộ công chức Nhà nước; tham gia xây dựng Chi bộ Đảng,
chính quyền đạt danh hiệu “Trong sạch, vững mạnh”; các tổ chức đoàn
thể đạt danh hiệu tiên tiến trở lên hàng năm; các tổ chức tự quản ở
cộng đồng hoạt động có hiệu quả.
5. Có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng:
a) Thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước, phát triển
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, nhằm chăm
sóc các gia đình chính sách, người có công với cách mạng có mức sống
bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung;
b) Thực hiện tốt các hoạt động “Nhân đạo từ thiện”, giúp đỡ đồng
bào bị thiên tai, gia đình khó khăn, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người
tàn tật, nạn nhân chất độc da cam-dioxin và những người bất hạnh”.
5. Cơ sở khoa học xây dựng Làng văn hóa ở Hải Phòng
5.1 Cơ sở lý luận xây dựng Làng văn hóa ở Hải Phòng
Các loại văn bản, tài liệu liên quan tới công tác xây dựng Làng
văn hoá do các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ngành, đoàn thể các cấp
ban hành khá nhiều và phong phú.
Tuy nhiên sau khi hệ thống, chọn lựa chúng tôi thấy có 2 nhóm loại
văn bản là cơ sở lý luận xây dựng Làng văn hóa ở Hải Phòng:
- Thứ nhất là, nhóm loại văn bản, tài liệu gồm: Các Nghị quyết,
Chỉ thị...phổ biến chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng với một hệ
thống các quan điểm toàn diện sâu sắc và đúng đắn về lĩnh vực văn

hoá, văn nghệ nói chung và về xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh, xây dựng làng văn hoá nói riêng.
- Thứ hai là, nhóm loại văn bản, tài liệu gồm: Các Chỉ thị, Quyết
định, Thông tư, Quy định, Quy chế...do các cơ quan, Nhà nước, Chính
phủ, các ngành, đoàn thể Trung ương và chính quyền thành phố ban
hành để cụ thể hoá các quan điểm lãnh đạo của Đảng về văn hoá, văn
19


nghệ và công tác xây dựng làng văn hoá bằng các cơ chế, chính sách.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn của phong trào xây dựng Làng văn
hoá, nhóm loại văn bản này còn chưa đồng bộ, thiếu nhiều và phần nào
còn chưa phù hợp...
5.2 Cơ sở thực tiễn xây dựng Làng văn hóa ở Hải Phòng
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu các văn bản, tài liệu liên quan tới
phong trào xây dựng Làng văn hoá, tình hình thực tiễn xây dựng Làng
văn hoá ở Hải Phòng và ở một số tỉnh bạn, có thể xác định cơ sở thực
tiễn xây dựng Làng văn hoá ở Hải Phòng như sau:
5.2.1. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
nói chung và phong trào xây dựng Làng văn hoá nói riêng là hiện thực
sinh động thể hiện các quan điểm đúng đắn của Đảng về văn hoá, văn
nghệ và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phù hợp nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân ở nông thôn; đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phù
hợp thời đại. Hay nói một cách khác ngắn gọn hơn. Phong trào xây
dựng làng văn hoá thuận ý Đảng, hợp lòng dân. Đây là cuộc vận động
chính trị cách mạng sâu rộng toàn bộ xã hội, nhất là nông thôn. Trong
điều kiện còn có nhiều khó khăn về đời sống kinh tế và văn hoá xã hội
ở nông thôn, các cơ chế chính sách của Nhà nước còn chưa đồng bộ,
thiếu và phần nào chưa phù hợp, song dưới sự lãnh đạo đúng đắn của

Đảng, các tầng lớp nhân dân ở nông thôn đã chủ động, tích cực tham
gia tiến trình xây dựng Làng văn hoá và đưa phong trào xây dựng Làng
văn hoá ở Hải Phòng phát triển nhanh chóng.
5.2.2. Xây dựng mô hình Làng văn hoá ở Hải Phòng vừa là mục
tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nông thôn nói
chung và làng xã nói riêng ở Hải Phòng, từng bước đưa nông thôn Hải
Phòng phát triển theo hướng văn minh và hiện đại. Thông qua quá
trình vận động xây dựng Làng văn hoá, việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở ngày càng được triển khai sâu rộng. Nhân dân thực hiện quyền
dân chủ và nghĩa vụ công dân một cách tự giác và ngày một tốt hơn.
Điều này khai thác và phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người dân
và tiềm năng lợi thế các mặt của địa phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương; các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc và những nét văn hoá đặc sắc riêng
của làng được giữ gìn và phát huy; nếp sống mới từng bước được xây
dựng, các hủ tục lạc hậu dần dần bị hạn chế và loại bỏ dần trong cuộc
sống; Đời sống kinh tế từng bước được ổn định và phát triển; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các tệ nạn xã hội từng
20


bước bị hạn chế và đẩy lùi, các tổ chức chính trị xã hội, chính quyền tại
cơ sở làng xã được củng cố và tăng cường thêm một bước...Tất cả
những điều đó từng bước hình thành và hoàn thiện con người mới xã
hội chủ nghĩa, đó là sản phẩm tất yếu của việc xây dựng Làng văn hoá.
5.2.3. Xây dựng thành công Làng văn hoá còn là quá trình đầy
khó khăn và không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Vì thế đòi
hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ, chính quyền cơ sở xã,
làng, sự kết phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể địa phương và
sự ủng hộ, tham gia chủ động tích cực của toàn bộ cộng đồng làng.

Hay nói một cách khác, xây dựng Làng văn hoá là một cuộc cải biến
cách mạng ở nông thôn toàn diện, sâu sắc, lâu dài, phức tạp đòi hỏi sự
hưởng ứng kiên trì bền bỉ của các cấp, các ngành và toàn bộ cộng đồng
làng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền cơ sở xã. Và
vì thế trong tình hình hiện nay và trong thời gian tới không chỉ có chủ
trương đúng mà còn cần sớm có những cơ chế, chính sách của Nhà
nước ban hành một cách đồng bộ, phù hợp trên các lĩnh vực: đất đai,
kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hoá, xã hội, chế độ đãi ngộ
v.v...việc thực hiện các cơ chế chính sách trong lĩnh vực cải cách hành
chính một cách hiệu quả mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp đồng bộ
xây dựng thành công Làng văn hoá.
5.2.4. Cả nước đang đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, thành phố Hải Phòng cũng đang bước vào quá trình đô thị hoá
nhanh chóng. Bối cảnh đó đã tác động không nhỏ và tạo ra những biến
động ở mỗi làng quê và nông thôn Hải Phòng. Một số làng quê đã và
sẽ bị đô thị hoá, sự phân công trong lao động ở nông thôn sẽ diễn ra
nhanh chóng. Đời sống văn hoá, nếp sống, phong tục tập quán dần dần
cũng có sự thay đổi cho phù hợp với cuộc sống mới. Vì thế đảm bảo
cho quá trình xây dựng Làng văn hoá đi đúng hướng, phục vụ đắc lực
sự nghiệp, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố nói chung và khu
vực nông thôn nói riêng, đòi hỏi tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo chỉ
đạo thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, chính quyền về lĩnh vực này.
5.2.5. Phong trào xây dựng Làng văn hoá mới được triển khai ở
Hải Phòng gần 20 năm trở lại đây. So với quá trình hình thành và phát
triển của làng thì đó là thời gian rất ngắn. Những kết quả đạt được
trong thời gian qua mới chỉ là bước đầu, chưa có một làng nào có sự
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội thực sự nổi bật và có sức thuyết
phục về một mô hình kinh tế, xã hội toàn diện. Trong sự phát triển
chung của thành phố, phong trào xây dựng Làng văn hoá ở Hải Phòng
đang đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững bởi các cơ chế

21


chính sách của Nhà nước về xây dựng Làng văn hoá chưa đồng bộ,
thiếu và phần nào chưa phù hợp. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:
+ Một số văn bản đã ban hành về cơ chế chính sách nhất là quy
chế công nhận danh hiệu Gia đình văn hoá, Làng văn hoá, do Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch ban hành đã định ra những tiêu chuẩn, chuẩn
mực chung và tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào. Hiện nay danh
hiệu Làng văn hóa do Ủy ban nhân dân các huyện ra quyết định công
nhận, không còn danh hiệu làng văn hóa cấp huyện, cấp thành phố như
trước đây. Điều này sẽ không tạo ra sự cố gắng phấn đấu để đạt các
danh hiệu cao hơn của nhân dân các Làng văn hóa. Như chúng ta đã
biết xây dựng Làng văn hoá đã khó, việc giữ và duy trì danh hiệu làng
văn hoá còn khó hơn, thực tế một số làng đã không giữ được danh hiệu
này. Một số địa phương trong quá trình thẩm định công nhận danh hiệu
văn hóa còn chạy theo số lượng, chưa chú trọng nâng cao chất lượng
nên mô hình Làng văn hoá còn thiếu tính thuyết phục và chưa động
viên phong trào...
+ Chưa có cơ chế chính sách đầu tư về đất đai và đầu tư kinh phí,
khuyến khích tư nhân, tập thể đầu tư kinh phí xây dựng các Nhà văn hoá
- Trung tâm văn hoá - Trung tâm vui chơi giải trí và các công trình phúc
lợi văn hoá xã hội khác của làng. Số nhà văn hoá làng cùng các trung tâm
vui chơi giải trí được xây dựng trong những năm qua là do các làng vận
dụng sự quản lý của chính quyền, địa phương mà xây dựng một cách tự
phát và đưa vào hoạt động phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân
dân địa phương. Việc xây dựng cũng thiếu quy hoạch.
+ Chưa có cơ chế chính sách đầu tư và khuyến khích tư nhân, tập
thể đầu tư, ủng hộ cho các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao,
vui chơi giải trí của các cộng đồng làng cũng như ở nông thôn nói chung,

nhất là cơ chế chính sách, ưu tiên đầu tư cho việc khôi phục giữ gìn các
loại hình văn hoá, nghệ thuật truyền thống ở các địa phương.
+ Chưa có cơ chế, chính sách về đào tạo, tập huấn nghiệp vụ văn
hoá thông tin cho cán bộ văn hoá thông tin cơ sở nhất là trưởng làng và
ban vận động xây dựng Làng văn hoá.
+ Chưa có cơ chế, chính sách đãi ngộ, động viên đối với ban vận
động nói chung và trưởng Làng văn hoá nói riêng.
Những hạn chế trên đây đã tác động không nhỏ tới sự phát triển
của phong trào xây dựng Làng văn hoá trong thời gian vừa qua ở Hải
Phòng; đồng thời cũng là nguyên nhân làm cho phong trào phát triển
thiếu tính bền vững. Tuy còn nhiều khó khăn, thử thách, song việc xây
22


dựng làng văn hoá không còn là vấn đề cần tranh luận mà là mục tiêu
phấn đấu với những giải pháp phù hợp để chúng ta xây dựng ngày một
nhiều làng văn hoá thực sự có chất lượng.
6. Đặc điểm làng của Hải Phòng:
Hải Phòng có diện tích 1519 km2, dân số hơn 2 triệu người, có 15
quận, huyện trong đó có 5 huyện trên đất liền, 2 huyện đảo. Trong thời
gian qua đã có 153/153 xã, thị trấn triển khai xây dựng Làng văn hoá
với 790 Làng văn hoá phát động xây dựng Làng văn hóa đạt 100%.
Với đặc điểm địa lý của Hải Phòng, gồm: 153 xã, thị trấn có tổng
số 790 làng với 3 loại hình làng: Làng thuần nông, làng miền núi, làng
hải đảo, còn lại một số gọi là làng nghề nhưng chưa rõ nét.
+ Làng có tính chất thuần nông có 734 làng ở 147 xã, thị trấn
thuộc các huyện: An Lão, An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến
Thuỵ, Thuỷ Nguyên.
+ Làng miền núi có 26 làng thuộc 6 xã thuộc huyện Thuỷ
Nguyên: Xã An Sơn 3 làng, Lại Xuân 4 làng, Kỳ Sơn 4 làng, Minh Tân

5 làng, Lưu Kiếm 5 làng, Liên Khê 5 làng.
Mặc dù được xác định là các xã miền núi nhưng thực tế về mặt
độ cao của các xã không lớn như các xã miền núi thuộc các tỉnh miền
núi, thành phần dân cư là người Kinh, chủ yếu làm nông nghiệp, trồng
lúa nước và một số làng có thêm hoạt động khai thác vật liệu xây dựng.
Làng xa nhất cách trung tâm huyện là 20 km, cách trung tâm thành
phố là 30km, giao thông thuận lợi, xe ô tô đi được đến các làng; kinh tế
khá phát triển dường như không có sự khác biệt về hoạt động sản xuất
và sinh hoạt so với các xã, làng khác trong huyện Thuỷ Nguyên, nên
mọi phong trào và đánh giá phong trào của các xã, làng trong huyện
Thuỷ Nguyên đều bình đẳng như nhau. Những năm qua phong trào xây
dựng làng văn hoá ở các xã miền núi huyện Thuỷ Nguyên phát triển
mạnh mẽ, hoà nhập với các làng ở đồng bằng, 26 làng thuộc 6 xã miền
núi của huyện Thuỷ Nguyên đều đã làm lễ phát động xây dựng làng
văn hoá.
+ Loại hình làng ở huyện đảo Cát Hải, huyện có diện tích
326.000km2 gồm 174 hòn đảo lớn nhỏ, có 428 mỏm núi, dân số gần
25.000 người, nghề nghiệp chính là đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản,
trồng trọt, dịch vụ nghề cá và phát triển du lịch. Huyện có 12 xã, gồm
30 làng đã phát động xây dựng làng văn hoá. Tuy vậy, do nhiều
nguyên nhân khác nhau nên phong trào xây dựng làng văn hoá ở huyện
Cát Hải còn gặp nhiều khó khăn về công tác triển khai phát động cũng
23


như tổ chức thực hiện hương ước làng văn hoá. Hiệu quả và chất lượng
xây dựng làng văn hoá còn hạn chế so với các huyện thuộc thành phố
Hải Phòng. Từ thực tiễn trên và tính đặc thù của huyện đảo cần có sự
xem xét xác định tiêu chuẩn công nhận làng văn hóa ở các làng hải đảo
cho phù hợp

7. Tiêu chí Làng văn hoá ở Hải Phòng
Căn cứ vào các quy định của các văn bản pháp quy, căn cứ vào
thực tiễn của phong trào xây dựng làng văn hoá ở Hải Phòng trong
những năm qua, Hải Phòng đã xây dựng tiêu chí làng văn hóa với 5
tiêu chí cụ thể cho làng thuần nông, làng hải đảo.
Đối với làng miền núi ở huyện Thuỷ Nguyên dường như không
có sự khác biệt về hoạt động sản xuất và sinh hoạt so với các xã, làng
khác của thành phố Hải Phòng. Vì vậy, không xác định tiêu chí riêng
cho các làng ở miền núi thuộc thành phố Hải Phòng.
- Tiêu chí xây dựng làng văn hoá thuần nông ở Hải Phòng
Hải Phòng thực hiện xét công nhận làng văn hoá theo tiêu chí
làng văn hoá quy định tại Luật Thi đua Khen thưởng và Thông tư số
12/2011/TT-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch ban hành quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục, hồ
sơ công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng
văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và
tương đương. Các tiêu chí như quy định tại Điều 5 của Thông tư số
12/2011/TT-BVHTTDL, riêng có tiêu chí về phổ cập giáo dục có cao
hơn “phải phổ cập trung học phổ thông” trong khi tiêu chí chung của
Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch là “đạt chuẩn phổ cập giáo dục
trung học trở lên “.
- Về tiêu chí làng văn hoá hải đảo ở Hải Phòng
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của các làng, xã hải đảo của Hải
Phòng như đã trình bày tại Mục 6 nên tiêu chuẩn của làng văn hoá hải
đảo được xác định có một số tiêu chí cụ thể thấp hơn so với làng văn
hoá thuần nông. Cụ thể như sau:
“...Có 75% (làng thuần nông 80%)trở lên hộ gia đình tham gia
cuộc vận động xây dựng nông thôn mới; xây dựng cơ sở vật chất hạ
tầng kinh tế-xã hội ở cộng đồng...”
“....Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn (làng, ấp, bản và tương

đương) từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch..”(được tính chuẩn theo quy định đối với miền núi, hải đảo);
24


“.....95% (làng thuần nông 100%) trẻ em trong độ tuổi đi học
được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học trở lên; có
phong trào “khuyến học”, khuyến tài...”;
- Về trình tự, thủ tục công nhận danh hiệu văn hóa đối với làng
thuần nông và làng hải đảo ở Hải Phòng
Theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BVHTTDL ngày
10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
“Điều 8. Trình tự, thủ tục, hồ sơ công nhận “Thôn văn hóa”,
“Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”
và tương đương
1. Trình tự, thủ tục:
a) Khu dân cư đăng ký xây dựng khu dân cư văn hóa với Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã;
b) Trưởng Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư chủ trì phối hợp
với Trưởng thôn (làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương) họp khu
dân cư đề nghị công nhận khu dân cư văn hóa;
d) Căn cứ vào hồ sơ đề nghị công nhận khu dân cư văn hóa,
Phòng Văn hóa-Thông tin phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cấp huyện và
các ngành, đoàn thể thành viên Ban Chỉ đạo Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cấp huyện tiến hành kiểm tra (có
biên bản kiểm tra);
đ) Phòng Văn hóa-Thông tin phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cấp
huyện và bộ phận Thi đua, Khen thưởng trình Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện ra quyết định công nhận, công nhận lại và cấp Giấy
công nhận cho các khu dân cư văn hóa;

Thời gian giải quyết năm (05) ngày làm việc, kể từ ngày nhận
đầy đủ hồ sơ hợp lệ.
2. Hồ sơ:
a) Báo cáo thành tích xây dựng khu dân cư văn hóa của Trưởng
Ban vận động cấp xã, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã;
b) Biên bản kiểm tra kết quả thực hiện tiêu chuẩn công nhận khu
dân cư văn hóa của Ban vận động cấp xã hàng năm, 3 năm;
c) Công văn đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã;
Hồ sơ đề nghị công nhận một (01) bộ, nộp trực tiếp tại Ủy ban
nhân dân cấp huyện.
25


×