Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận ngân hàng cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.79 KB, 11 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam trong niềm hứng khởi của thời gian đầu gia nhập WTO, các cơ quan giám sát ngân
hàng đã mong muốn rằng các ngân hàng phải nâng cao tầm vóc của mình, để có thể nâng cao vị thế
trong cạnh tranh và hội nhập, cũng chính từ đây mà nghị định 141 của Chính phủ đã ra đời, yêu cầu
các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ của mình theo lộ trình mà chính phủ đã đề ra làm cho các ngân
hàng Việt Nam trở nên lớn mạnh hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số ngân hàng chưa thể thực hiện việc tăng
vốn theo yêu cầu. Nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu vốn điều lệ thì có thể nói đây là những ngân hàng
nhỏ.
Vậy trong thời đại ngày nay, thời đại mở của hội nhập kinh tế thế giới, các ngân hàng nhỏ
này có cần thiết để tồn tại không? Ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ chẳng hạn, các
ngân hàng cộng đồng vẫn tôn tại, vậy thì Việt Nam thì sao! Việc tồn tại của ngân hàng nhỏ sẽ có ảnh
hưởng đến nền kinh tế hay không? Có cần phải giải thể các ngân hàng nhỏ này để nâng cao tầm vóc
của mình. Đây cũng chính là nội dung chính của bài nghiên cứu này.

Trang 1


Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận
1.1 Nghị định 141/2006 của Chính phủ qui định về vốn điều lệ của các ngân hàng
Nghị định ra đời yêu cầu các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ lên theo yêu cầu của chính phủ
và giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định xử lý, kể cả việc thu hồi Giấy phép thành lập và
hoạt động đối với tổ chức tín dụng có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp thấp hơn mức vốn
pháp định tương ứng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng quy định cho từng thời kỳ nêu trong
Danh mục sau:
DANH MỤC
MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
(Ban hành kèm theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của
Chính phủ)
Mức vốn pháp định áp dụng cho đến


năm
STT
Loại hình tổ chức tín dụng
2008
2010
I
Ngân hàng
1 Ngân hàng thương mại
A Ngân hàng thương mại Nhà nước
3.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
B Ngân hàng thương mại cổ phần
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
C Ngân hàng liên doanh
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
D Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
Đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
15 triệu USD
15 triệu USD
2 Ngân hàng chính sách
5.000 tỷ đồng
5.000 tỷ đồng
3 Ngân hàng đầu tư
3.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
4 Ngân hàng phát triển

5.000 tỷ đồng
5.000 tỷ đồng
5 Ngân hàng hợp tác
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
6 Quỹ tín dụng nhân dân
A Quỹ tín dụng nhân dân TW
1.000 tỷ đồng
3.000 tỷ đồng
B Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
0,1 tỷ đồng
0,1 tỷ đồng
II Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
1 Công ty tài chính
300 tỷ đồng
500 tỷ đồng
2 Công ty cho thuê tài chính
100 tỷ đồng
150 tỷ đồng
1.2 Khái niệm về ngân hàng nhỏ
Ngân hàng nhỏ có thể được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: ngân hàng cộng động,
ngân hàng khu vực,… Hiện nay, vẫn chưa có một định ngĩa rõ ràng và thống nhất về khái niệm
ngân hàng nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta có thể khái quát về nhân hàng nhỏ bằng các đặc điểm sau:
Trang 2




có vốn điều lệ nhỏ




qui mô hoạt động nhỏ và tập trung phần lớn các hoạt động vào khu vực cộng đồng
nơi mà hội sở của chúng được thiết lập, khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp
nhỏ, vừa và dân cư.



Một đặc điểm thứ ba cũng được ít nhiều xét đến là thành phần đa số của các cổ đông
địa phương, có mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh đạo và các thành viên trong ngân
hàng.



Có mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.



Chịu sự ảnh hưởng bởi các thay đổi kinh tế xã hội của địa phương.

Tuy nhiên, nếu chỉ xét đến chỉ tiêu vốn điều lệ thì theo nghị định 141 các ngân hàng có mức
vốn điều lệ thấp hơn so vốn mức vốn do nhà nước yêu cầu thì được xem là ngân hàng nhỏ.
1.3 Những điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng nhỏ
1.3.1

Các điểm mạnh của ngân hàng nhỏ
Các nghiên cứu ở một vài quốc gia phát triển và đang phát triển đã cho thấy rằng các ngân

hàng nhỏ luôn có những vai trò bổ sung, thay thế cho những khoảng trống mà các ngân hàng lớn
khó mà phục vụ tốt hơn.

Các ngân hàng nhỏ này có phạm vi hoạt động bị giới hạn nên chính điều này làm cho nó
quen thuộc với môi trường kinh doanh và con người trong khu vực, các ngân hàng nhỏ thường cũng
nhận thức rằng, do phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn tiết kiệm dân cư, nên họ càng cần phải quan tâm
cung ứng dịch vụ tốt hơn. Trong khi đó, các ngân hàng lớn có vẻ xa cách khách hàng về mặt địa lý
và tâm thức, công tác quản trị khách hàng của ngân hàng lớn chủ yếu dựa vào các thông tin tài
chính “cứng” trên các bảng báo cáo, các mô hình quản lý điện tử, các quyết định tập trung hóa. Như
vậy, chúng ta có thể thấy, quan hệ khách hàng của các ngân hàng lớn chủ yếu dựa vào giao dịch
(Transactional Banking), trong khi đó, hoạt động các ngân hàng nhỏ phần nhiều dựa vào quan hệ
(Relationship Banking) nhờ vào những lợi thế vượt trội trong quá trình quan hệ khách hàng.
Cho vay nhỏ thường cần, và cũng từ đó, sinh ra sự quan hệ gần gũi, thâm giao, do đó, các
ngân hàng nhỏ có lợi thế trong việc tiết kiệm chi phí phân tích thẩm định khách hàng. Do đó, nhìn
chung, hoạt động cho vay của các ngân hàng nhỏ hiệu quả hơn. Các ngân hàng lớn thực ra cũng
nhận thức được thế mạnh trên. Họ có thể mua lại các ngân hàng nhỏ. Nhưng đối với trường hợp sáp
nhập các ngân hàng nhỏ vào các ngân hàng lớn, các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã cho thấy, hiệu

Trang 3


quả cho vay nhỏ của ngân hàng sau khi sáp nhập sẽ giảm sút. Đó là chưa kể đến chuyện các ngân
hàng lớn vốn cũng đã không mặn mòi đối với những khoản cho vay nhỏ bé.
Nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển cao, chủ yếu là nông nghiệp, ở các khu vực nông thôn,
hộ nông dân luôn cần và rất cần đến hoạt động cho vay và dịch vụ của các ngân hàng nhỏ.
Về mặt vĩ mô, các ngân hàng nhỏ, do nhỏ bé về qui mô, lại giới hạn về mặt địa lý, nên có tác
động đóng góp đến rủi ro hệ thống (Systemic Risk) ít hơn so với các ngân hàng lớn. Tình hình tài
chính ngân hàng nước Mỹ trong thời gian gần đây đã là một minh chứng.
1.3.2

Các điểm yếu của ngân hàng nhỏ
Do vốn điều lệ thấp nên có khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ gác lại những nhu cầu mở


rộng mạng lưới, triển khai sản phẩm... cho đến khi tăng được vốn mới được chấp thuận. Điều này sẽ
khiến những ngân hàng này thêm khó khăn.
Các ngân hàng nhỏ không dễ cạnh tranh với các ngân hàng lớn để thu hút tiền gửi của người
dân. Thực tế, tâm lý của người gửi tiền luôn muốn chọn mặt gửi vàng, tức chọn nơi quy mô và uy
tín, nhất là khi lãi suất được áp dụng mức như nhau. Không loại trừ một số ngân hàng nhỏ và kể cả
cỡ vừa phải trả thỏa thuận "ngầm" lãi suất với khách hàng gửi tiền để thu hút vốn.Mức chênh lệch
lãi suất là phần bù đắp rủi ro cho những khách hàng chấp nhận gửi tiền vào các ngân hàng ít tên
tuổi. Cụ thể:


Thứ nhất, việc đồng thuận lãi suất đang ép các ngân hàng nhỏ phải gian dối, đắp đổi

qua ngày hơn là hướng tới kinh doanh bài bản và minh bạch. Đối với những ngân hàng nhỏ, công cụ
có lẽ là duy nhất để có thể cạnh tranh với các ngân hàng uy tín hơn trong việc huy động tiền gửi
chính là lãi suất. Do vậy, dù khó đến đâu các ngân hàng nhỏ vẫn phải tìm cách đưa ra một mức lãi
suất nhỉnh hơn so với các ngân hàng lớn vì họ biết rằng những khách hàng có lý trí không bao giờ
gửi tiền vào ngân hàng của họ khi không có được lãi suất cao hơn.Vì vậy, việc đưa ra thỏa thuận
trần lãi suất huy động thực ra là bắt các ngân hàng nhỏ phải nói dối và báo cáo không trung thực.


Thứ hai, điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tạo điều kiện cho

một số ngân hàng kiếm lời vô lý. Điều gì sẽ xảy ra khi kỳ vọng lãi suất trong tương lai sẽ giảm và
lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn thấp hơn lãi suất trái phiếu chính phủ cũng như lãi suất cho vay
trên thị trường liên ngân hàng? Các ngân hàng lớn, với lợi thế của mình, sẽ đem trái phiếu chính
phủ có sẵn đi cầm cố để vay của NHNN, sau đó hoặc là đi mua trái phiếu hoặc là cho các ngân hàng
nhỏ vay lại với lãi suất cao hơn để kiếm lời thay vì cho các doanh nghiệp vay. Vì có thể kiếm lời từ
chính các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn có thể sẵn sàng huy động vốn từ dân với lãi suất cao,
đẩy các ngân hàng nhỏ vào tình trạng khó khăn hơn, phải tiếp tục vay vốn của các ngân hàng lớn
Trang 4



với lãi suất cao hơn. Khi đó vòng xoáy lại tiếp tục và dĩ nhiên, các ngân hàng nhỏ lại phải vùng vẫy
mạnh hơn và rủi ro hệ thống cũng sẽ cao hơn.
Trong trường hợp để giảm lạm phát thì chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ, hút bớt
tiền trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu chính sách thắt chặt tiền tệ quá mức thì một số ngân hàng, chủ
yếu là các ngân hàng nhỏ có khả năng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản.
1.3.3

Nhận xét chung về ngân hàng nhỏ
Từ những sự phân tích ở trên về các điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng nhỏ ta thấy việc

tồn tại của ngân hàng nhỏ cũng cần thiết, không nhất thiết phải bắt buộc các ngân hàng nhỏ phải lớn
ra. Vấn đề quan trọng là không phải ngân hàng lớn hay ngân hàng nhỏ mà chính là hiệu quả hoạt
động và rủi ro của ngân hàng đó, dù ngân hàng có lớn nhưng hoạt động không hiệu quả thì cũng
không thể tồn tại. Vì vậy, việc lớn ra của ngân hàng là cần thiết và tốt nếu nó tự lớn chứ không nên
bắt ngân hàng nhỏ lớn ra nếu nó không tự lớn được mà phải có luật lệ giới hạn phạm vi hoạt động,
kiểm soát để tránh rủi ro.
Trong tương lai, việc tăng vốn của ngân hàng là đương nhiên với điều kiện hoạt động hiệu
quả tốt, còn như tăng vốn ồ ạt theo như nghị định 141 để rồi hoạt động không hiệu quả và kết thúc.
Vì vậy việc tăng vốn của các ngân hàng cần phải dựa vào nhu cầu của nền kinh tế qua từng giai
đoạn bởi vì các chính sách đưa ra klhoong hợp lệ sẽ tác động lâu dài đến cấu trúc của hệ thống ngân
hàng.

Chương II: Thực trạng tồn tại các ngân hàng nhỏ tại Việt Nam
2.1 Các ngân hàng nhỏ tại Việt Nam
Danh sách vốn điều lệ các ngân hàng tại Việt Nam (tháng 12.2010)
Stt

Loại hình tổ chức tín

dụng

Tổn

VĐL VĐL

SỐ LƯỢNG TCTD
VĐ VĐL VĐ VĐL



VĐL
Trang 5


I
1
A
B
C
D
Đ
2
3
A
B
II
1
2


Ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại
Nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ
phần
Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài
Chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài
Ngân hàng chính sách
Quỹ tín dụng nhân dân
Quỹ tín dụng nhân dân TW
Quỹ tín dụng nhân dân cơ
sở
Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng
Công ty tài chính
Công ty cho thuê tài chính

g

>=
3000
tỷ đ

<
300
0 tỷ

đ

5

5

-

37

21

16

5
5

1
4

4
1

48

L >=
<
L >=
15
15 500

triệu triệu tỷ đ
USD USD

48

1

1

-

1
915

-

1
915

17
13

<
500
tỷ đ

L >=
150
tỷ đ


<
150
tỷ

12

1

-

15

2

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng, nếu theo nghị định 141 thì cho tới thời điểm tháng
12.2010 có đến 16/37 ngân hàng thương mại cổ phần không có đủ vốn theo quy định thì những
ngân hàng này có đáng để bị giải thể hay sap nhập không nếu chưa tính đén hiệu quả hoạt động.
2.2 Các ngân hàng nhỏ tại Mỹ
2.2.1 Thực trạng các ngân hàng Mỹ năm 2010
Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) Mỹ cho biết trong năm 2010, số ngân
hàng ở Mỹ bị đóng cửa lên tới 157 ngân hàng, mức cao kỷ lục kể từ sau cuộc khủng hoảng tín dụng
và tiền gửi tiết kiệm năm 1992.
Trong năm 2010, một số ngân hàng lớn của Mỹ đã hồi phục sau khi nhận được tiền hỗ trợ
của chính phủ và bắt đầu làm ăn có lãi, phần lớn nhờ vào chính sách lãi suất gần bằng 0% do Cục
Dự trữ Liên bang (FED) áp dụng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng nhỏ sụp đổ do không huy động
được thêm vốn, song lại phải đương đầu với khoản lỗ ngày càng nhiều do khách hàng không trả
được tiền vay. Các ngân hàng bị đóng cửa trong năm 2010 có tổng giá trị tài sản vượt 92 tỷ USD
khiến quỹ bảo hiểm tiền gửi của FDIC giảm gần 26 tỷ USD.

Trang 6



Trong số các ngân hàng bị giải thể trong năm qua, 19 ngân hàng có tài sản trên 1 tỷ
USD/ngân hàng và ngân hàng lớn nhất trong số đó là Westernbank của Mỹ tại Puerto Rico với tài
sản trị giá 10,8 tỷ USD.
Trong ba năm trở lại đây, đã có 322 ngân hàng Mỹ, với tổng tài sản trị giá 633 tỷ USD, bị
đóng cửa. FDIC đã phải thanh toán gần 80 tỷ USD bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng của các ngân
hàng này.
2.2.2 Nguyên nhân phá sản của ngân hàng Mỹ.
Phần lớn các ngân hàng phá sản là các ngân hàng vừa và nhỏ, và nguyên nhân chủ yếu của
việc phá sản là do bị tác động của tình hình kinh tế, các ngân hàng vừa và nhỏ không đủ sức về
vốn, nguồn tài chính để vượt qua cuộc khủng hoảng.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài
sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan, sự thiếu kiểm
soát chặt chẽ của nhà nước. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những
tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân
hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình
hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
Tóm lại, từ việc phân tích trên ta cũng đã thấy rằng nguyên nhân dẫn đến việc phá sản hàng
loạt ngân hàng tại Mỹ có những ngân hàng lớn bên cạnh các ngân hàng nhỏ là do rất nhiều nguyên
nhân từ nền kinh tế .

Chương III: Đánh giá và kiến nghị
3.1 Đánh giá chung về vấn đề ngân hàng nhỏ:
Nhìn chung, các ngân hàng nhỏ có những thuận lợi và bất lợi so với ngân hàng lớn, tuy
nhiên để nên kinh tế có thể phát triển tốt nhất, bù đắp những điểm yếu cho ngân hàng lớn chưa thể
phục vụ tốt nhất thì sự tồn tại của ngân hàng nhỏ là cần thiết.
Nhưng sự tồn tại này tốt với điều kiện ngân hàng đó hoạt động hiệu quả, có sự quản lý chặt
chẽ của nhà nước để tránh mang lại những rủi ro làm ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Việc tăng vốn của các ngân hàng là cần thiết để tạo lòng tin, phát triển sản phẩm,…nhưng

phải tăng đúng với khả năng của ngân hàng tránh tình trạng tăng vốn ồ ạt rồi không hiệu quả.
Trang 7


Sáp nhập ngân hàng nhỏ không hiệu quả vào ngân hàng khác cũng là giải pháp tốt nhưng
cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước tránh tình trạng thao túng.
3.2 Kiến nghị đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Như đã nói ở trên, để hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh lên thì vấn
đề cần chú trọng ở đây là ngân hàng mạnh và ngân hàng yếu chứ không phải là vấn đề ngân hàng
lớn và nhỏ. Để cho hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng mạnh lên cần có sự phối hợp thực thực
hiện đồng bộ nhiều khía cạnh, cần có sự phân tích đánh giá rõ ràng chính xác và lên kế hoạch thực
hiện cụ thể.
Một số kiến nghị để phát kiển hệ thống ngân hàng Việt Nam:
• Xây dựng mạng lưới an toàn tài chính quốc gia, cơ chế giám sát nhằm ngăn ngừa và kiểm
soát rủi ro ngân hàng trên bình diện tổng thể. Mạng lưới này thường bao gồm Bộ Tài chính, Ngân
hàng Trung ương, Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia và tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời mạng
lưới này phải đưa ra được các phương án cụ thể để xử lý cách tình trạng khó khăn.
• Xây dựng quy chế quản lý ngân hàng hiệu quả: Việt Nam cần xây dựng những quy định và
quy chế quản lý ngân hàng cần thiết để đảm bảo việc thiết lập một hệ thống tài chính lành mạnh.
Kinh nghiệm xây dựng quy chế quản lý ngân hàng của các nước trên thế giới đã được tổng kết, cho
thấy các quy định này cần bao gồm:
- Quy định về tiêu chuẩn gia nhập ngành;
- Quy định về quy mô vốn cần đảm bảo;
- Quy định về đa dạng hóa tài sản;
- Quy định các khoản vay cho nhân viên trong nội bộ và các bên liên quan;
- Quy định về những hành vi được cho phép hay bị cấm;
- Quy định về phân loại tài sản và dự phòng;
- Phạm vi, tần suất và nội dung chương trình kiểm toán;
- Quy định về các quyền lực thi hành các quyết định;
- Quy định về các biện pháp giải quyết những ngân hàng có vấn đề.

• Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi: Không khó để nhận thấy tại sao
cơ chế bảo hiểm tiền gửi lại được những nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc gia trên thế giới
ưa chuộng. Trong ngắn hạn, do không có khoản chi phí ngân sách tức thời nào được định trước, họ
đã đề ra một biện pháp hầu như không tốn phí để giảm rủi ro đột biến rút tiền gửi và hoảng loạn
ngân hàng. Bên cạnh việc ổn định lĩnh vực tài chính, một cơ chế bảo hiểm có thể thúc đẩy các giá
trị mang tính chính sách khác như bảo vệ người gửi ít tiền hoặc cải thiện cơ hội cho các ngân hàng
Trang 8


nhỏ cạnh tranh với các tổ chức lớn hơn đối với các khoản tiền gửi bằng cách giảm nhẹ mối quan
tâm về những bất lợi của các ngân hàng nhỏ.
• Việc bảo hiểm tiền gửi sẽ có tác dụng đặc biệt trong việc củng cố niềm tin của người gửi
tiền. Vì vậy, Việt Nam có thể cân nhắc việc lựa chọn mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi cũng như quy định về thẩm quyền của tổ chức này trong việc góp phần bảo đảm an toàn tài
chính quốc gia. Trước mắt, năng lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng cần đủ để thực
hiện các hoạt động hỗ trợ và chi trả khi xuất hiện nhiều ngân hàng gặp khó. Bên cạnh đó, Việt Nam
có thể nghiên cứu, xem xét và có định hướng cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền sử dụng
cơ chế chính thức xử lý sớm ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ, có quyền tiếp nhận và thanh lý tài sản và
giải quyết những nghĩa vụ nợ của ngân hàng bị đổ vỡ. Đồng thời quy định rõ vai trò và nhiệm vụ
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
• Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Để có thể giải quyết tận gốc các cuộc khủng hoảng ngân
hàng, hầu hết các quốc gia đều áp dụng kế hoạch tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Kế hoạch này
được thực hiện thông qua các hoạt động xử lý các ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ hoặc có vấn đề.
Xử lý ngân hàng là một thành phần của mạng lưới an toàn tài chính bao gồm các thủ tục và
biện pháp do các cơ quan quản lý áp dụng để giải quyết tình trạng của một ngân hàng không thể hồi
phục được nhằm góp phần xây dựng, củng cố hệ thống ngân hàng và quan trọng hơn là ngăn chặn
khủng hoảng ngân hàng tái diễn. Hiện có 6 hình thức xử lý ngân hàng đổ vỡ trong khủng hoảng
ngân hàng được áp dụng gồm: Đóng cửa ngân hàng và chi trả bảo hiểm tiền gửi; Tái cơ cấu hoàn
toàn; Mua và nhận nợ thay (P&A); Sáp nhập và hợp nhất (M&A); Ngân hàng bắc cầu và Hỗ trợ tài
chính. Mỗi biện pháp có ưu và nhược điểm riêng và được áp dụng tùy theo chính sách từng quốc

gia.
Đối với quốc gia có hệ thống BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro như Mỹ chẳng hạn, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi thường thực hiện các giải pháp xử lý ngân hàng bị đổ vỡ hoặc có nguy cơ đổ
vỡ. Khi xảy ra khủng hoảng, các tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể được trao những quyền lực lớn
hơn nhằm góp phần quản lý khủng hoảng.
Khi có rủi ro trong việc rút tiền hàng loạt thì vai trò của Ngân hàng nhà nước rất quan trọng
trong việc củng cố niềm tin rằng tất cả tiền gửi tại các ngân hàng lớn được bảo hiểm 100%.

Trang 9


KẾT LUẬN
Theo thống kê hiện nay, lượng ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ lớn
trong các NHTM đang hoạt động trên thị trường. Chúng ta hãy nhìn nhận vấn đề ở đây, làm thế nào
để các ngân hàng nhỏ có thể tìm kiếm nguồn vốn lớn như vậy, nhà đầu tư nước ngoài, phát hành cổ
phiếu, hay sát nhập lại với nhau… Đó là một câu hỏi khá hấp dẫn, nhưng liệu với tình hình nền tài
chính hiện nay thì các ngân hàng đó chưa chắc có thể huy động được vốn thông qua cổ phiếu. Bây
giờ chúng ta chưa nói đến các ngân hàng nhỏ phải làm thế nào để có vốn điều lệ đạt chuẩn quy định,
mà chúng ta xem xét xem, trong trường hợp các ngân hàng nhỏ, việc buộc chấm dứt tư cách pháp
Trang 10


nhân được đánh giá là biện pháp mạnh tay đối với nhiều ngân hàng, những đơn vị có quy mô nhỏ
nhưng hoạt động hiệu quả, chất lượng thì sao đây. Như vậy, áp lực 3000 tỷ phải chăng là quá mạnh
tay với những ngân hàng này hay sao. Tại sao trong nghị định lại không có giải pháp cho những
ngân hàng loại này, chẳng hạn như hạn chế 1 số chỗ như hạn chế quy mô hoạt động… Vấn đề là hãy
giành cơ hội công bằng cho những ngân hàng nhỏ nhưng hoạt động có tính hiệu quả cao.
Tuy nhiên, vốn lớn cũng chỉ là một phần, quan trọng hơn hết là quản lý chất lượng tín dụng
tốt, an toàn thanh khoản luôn được đảm bảo, khách hàng nhiều và chất lượng.


Danh mục tài liệu tham khảo
/>
/>

Trang 11



×