Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Vi nấm (Microfungi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.44 KB, 30 trang )

Vi nấm (Microfungi)
Ngô xuân Cảnh K47 NÔNG HỌC-DH TÂY BẮC
Chương trình Vi sinh vật
0_0-NẤM MỐC-0_0


Nấm (Fungi, số ít là Fungus) là một giới riêng- Giới nấm
(Fungi), khoa học nghiên cứu về nấm được gọi là Nấm học
(Mycology).
Căn cứ vào hình thái người ta chia vi nấm thành hai nhóm khác
nhau: nhóm Nấm men ( Yeast ) và nhóm Nấm sợi (Filamentous fungi).
Chúng chỉ khác nhau về hình thái chứ không phải là những taxon phân
loại riêng biệt. Nhiều nấm men cũng có dạng sợi và rất khó phân biệt với
nấm sợi.
Nấm sợI còn được gọI là nấm mốc là tên chung để chỉ các nhóm nấm
không phảI là nấm men mà cũng không phảI là nấm lơn có mũ như nấm
rơm
Nấm mốc có cấu trúc tế bào xác định vách tế bào là xenlulozo có chất
nguyên sinh và nhân
Nấm là nhóm cơ thể không có diệp lục ,dị dưỡng bằng cách hoạI sinh
và kí sinh
Nấm phát triển trên thực phẩm và dày dép , trên chiếu ,quần áo, dụng cụ
vật liệu….Chúng phát triển nhanh trên nhiều nguồn cơ chất hữu cơ khi gặp
điều kiện thuận lợi.

I- CẤU TẠO CHUNG CỦA SỢI NẤM
1. Hình thái và cấu tạo của sợi nấm
- Sợi nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh bên trong chứa
nguyên sinh có thể lưu động. Về chiều dài chúng có sự sinh trưởng vô hạn
nhưng về đường kính thì thưong chỉ thay đổi trong phạm vi 1-30µm (thông
thường là 5-10 µm).


Từng sợI được gọI là khuẩn ti hay sợi nấm.
Cả đám sợi nấm thì gộI là khuẩn ti thể hay hệ sợI nấm.

Hệ sợi nấm

Sự phát triển của hệ sợi nấm
Cấu trúc của sợi nấm (lát cắt dọc)
*)Cấu tạo của sợI nấm:
+) Thành tế bào (cell wall) của nấm có thành phần hóa học khác nhau.
Đây là một tiêu chí quan trọng khi định loại nấm.
+) Với màng nguyên sinh chất (protoplasmic membrane) thì thành phần
ít thay đổi ở các loài nấm sợi, có khác nhau với dạng nấm men.
+) Nhân tế bào được bao bọc bởi màng nhân, trên màng nhân có nhiều
lỗ thủng, trong nhân có hạch nhân (nucleolus). Thường có nhiều nhân tập
trung ở phần ngọn của sợi nấm. Trong các tế bào phía sau ngọn thường chỉ
có 1-2 nhân.
Nhân của nấm thường nhỏ, khó thấy rõ dưới kính hiển vi quang học.
Nhiễm sắc thể trong nhân thường không dễ nhuộm màu, số lượng tương
đối nhỏ.
+) Trong tế bào nấm còn có các cơ quan giống như trong tế bào các sinh
vật có nhân thực (Eukaryote) khác. Đó là: ty thể (mitochondrion), mạng
nội chất (endoplasmic reticulum), dịch bào hay không bào (vacuolus), thể
ribô (ribosome), bào nang (vesicle) , thể Golgi sinh bào nang (Golgi body,
Golgi apparatus, dictyosome), các giọt lipid (lipid droplet), các tinh thể
(chrystal) và các vi thể đường kính 0,5-1,5 nm (microbody), các thể
Vôrônin đường kính 0,2µm(Woronin body), thể Chitô đường kính 40-
70nm(chitosome)… Ngoài ra trong tế bào chất còn có các vi quản rỗng
ruột, đường kính 25nm (microtubule), các vi sợi đường kính 5-
8nm( microfilament), các thể màng biên ( plasmalemmasome)
Ti thể(mitochondrion)


Thể Golgi và Mạng lưới nội chất

+) Ribosome của nấm thuộc loại 80S ( S là đơn vị hệ số lắng
Svedberg) có đường kính khoảng 20-25nm, gồm có 2 bán đơn vị
( subunit); bán đơn vị lớn (large subunit ) 60S (gồm 3 loại ARN- 25S;5,8S
và 5S cùng với 30-40 loại protein). Bán đơn vị nhỏ (small subunit) 40S
(gồm loại ARN 18S và 21-24 loại protein)
Ví dụ cấu trúc của Ribosome ở Eukaryote
+) Sợi nấm không ngừng phân bậc cao nhưng lại ít gặp ở các sợi nấm
dinh dưỡng của nấm bậc thấp. Hình thái, kích thước màu sắc, bề mặt của
chất dinh dưỡng đến toàn bộ hệ sợi nấm. Hiện tượng kết mạng thường
khuẩn lạc…có ý nghĩa nhất định trong việc định tên nấm. nhiều- mycelia),
sau 3-5 ngày có thể tạo thành một đám nhìn thấy được gọi là khuẩn lạc
(colony). Vào giai đoạn cuối của sự phát triển khuẩn lạc sẽ xảy ra sự kết
mangh (anastomosis) giữa các khuẩn ty với nhau, làm cho cả nhánh và vì
vậy khi một bào tử nẩy mầm trên một môi trường đặc sẽ phát triển thành
một hệ sợi nấm (mycelium, số gặp ở nấm khuẩn lạc là một hệ thống liên
thông mật thiết với nhau, thuận tiện cho việc vận chuyển
*)Cấu trúc của sợi nấm:
Cấu tạo của phần ngọn sợi nấm
- Đỉnh sợi nấm bao gồm một chóp nốn không tăng trưởng và có tác dung
che chở , bảo vệ cho phần ngọn của sợi nấm, đây là phần chất nguyên sinh
không có nhân và ít chứa các cơ quan tử phần này rất dễ tách rời với các
phần còn lại của ngon sợi nấmvì dưới chop nón là phần có thành rất mỏng.
- Phía dưới thành mỏng là phần tạo ra màng tế bào
- Dưới màng tế bào là phần tăng trưởng, thành của phần này có cấu trúc
sợi dạng mạng lưới. Nhờ có phần này mà ngọn sợi nấm tăng trưởng dược.
Phần này chứa chất nguyên sinh và nhân, nhiều cơ quan tử, enzim , axit
nucleic đây là phần quyết định sự tăng trưởng và sự phân nhánh của sợi

nấm.
- Tiếp theo là phần thành cứng hay còn gọi là phần thành thục của sợi nấm
gồm các sợi ngang và sợi dọc , bắt đầu từ phần này trở xuống là chấm dứt
sự tăng trưởmg của sợi nấm. Giữa miền tăng trưởng và phần thành thục là
một miền yếu và dễ gãy.
2-Vách ngăn ở sợi nấm:
Sợi nấm ở một số nấm có vách ngăn ngang (septa, cross wall), đó là
các sợi nấm có vách ngăn (septate hyphae). Cũng có nhiều nấm sợi nấm
không có vách ngăn ngang- sợi nấm không vách ngăn (aseptate hyphae).
Các nấm bậc thấp thường có sợi nấm không vách ngăn, ngược lại các nấm
bậc cao thường mang sợi nấm có vách ngăn.
Sợi nấm có vách ngăn là cơ thể đa bào. Mỗi tế bào có 1 nhân hoặc
nhiều nhân. Tuy nhiên sợi nấm vẫn không phải do nhiều tế bào hợp thành
mà là do các vách ngăn tách sợi nấm ra thành nhiều tế bào.
Sợi nấm không vách ngăn mang nhiều nhân nhưng vẫn có thể gọi là
đơn bào. Ở các nấm không vách ngăn thì vách ngăn vẫn có thể hình thành
khi sản sinh thể sinh sản hay cơ quan sinh sản. tại các bộ phận bị thương
tổno sựi nám cũng có thể hình thành vách ngăn. Đó là loại vách ngăn liên,
không có lỗ thủng, có tác dụng bảo vệ cơ thể.
Vách ngăn ngang được hình thành từ thành tế bào. Lúc đầu là một gờ
nhỏ hình khuyên sao đó tiến dần vào trong và lấp kín lại. Tuy nhiên vách
ngăn thường có 1 hay nhiều lỗ thửng. các lỗ có kích thước bằng nhau hay
có 1 lỗ lớn nhất ở giữa và nhiều lỗ nhỏ ở xung quanh. Trong điều kiện khô
hạn việc hình thành vách ngăn có thể giúp sợi nấm đề kháng được tốt hơn
đối với môi trường.




Sợi nấm có vách ngăn Sợi nấm không vách ngăn



Thể Woronin tụ tập ở lỗ thông của vách ngăn (nấm Penicillium)


4-Các dạng biến đổi của hệ sợi nấm:
4.1- Rễ giả (rhizoid) và Sợi bò (stolon):
Sợi bò là đoạn sợi nấm khí sinh không phân nhánh phát sinh từ các sợi
nấm mọc lên từ cơ chất, chúng có dạng thẳng hay hình cung. Phần chạm
vào cơ chất phát triển thành những rễ giả ngắn cắm vào cơ chất,và hấp thụ
chất dinh dưỡng từ cơ chất. Do sự phát triển của sợi bò mà các nấm này
lan rộng ra xung quanh, về cả mọi phía, kẻ cả trên thành của hộp lồng
(hộp Petri). Rễ giả và thân bò đặc trưng cho các nấm thuộc chi Rhizopus
(rễ giả mọc ngay chỗ cụm sợi nấm khí sinh), Abssidia (rễ giả không mọc
dưới chõ cụm sợi nấm khí sinh) . Rễ giả còn gặp ở nhiều loài nấm thuộc
các chi Rhizidiomyces, Sclerotinia…



Nấm Absidia
4.2-Sợi hút (haustorium):
Sợi nấm ký sinh trên bề mặt tế bào cây chủ rồi mọc ra sợi nấm đâm
sâu vào phía trong và tạo nên các sợi hút đâm vào các tế bào để hút chất
dinh dưỡng của cây chủ. Sợi hút có thể có các hình dạng khác nhau : hình
sợi, hình ngón tay, hình cầu…Nói chung các nấm ký sinh bắt buộc đều là
những loài có sợi hút.
Khi xuyên vào tế bào cây chủ một số sợi hút không làm rách được màng
nguyên sinh chất mà chỉ làm cho màng này lõm vào. Nhiều khi sợi hút
phân ra khá nhiều nhánh bên trong tế bào để tăng diện tích hấp thu chất
dinh dưỡng.


Sợi hút

4.3- Sợi áp (appressorium) và đệm xâm nhiễm
(infection cushion):
Từ một bào tử nấm nẩy mầm trên bề mặt vật chủ (thường là lá cây)
sẽ mọc ra một sợi nấm và tiết ra chất nhầy để áp sát bề mặt này. Đầu sợi
nấm phình to lên như chiếc đĩa và tạo thành sợi áp. Từ sợi áp mọc ra sợi
hút đâm sâu vào tế bào vật chủ để hút chất dinh dưỡng. Mô ở vật chủ bị
tiêu hủy dần dưới tác dụng của các enzym thủy phân của sợi áp. Đệm xâm
nhiễm là một dạng mạng sợi phân nhánh và gắn với nhau như một tấm
đệm ở tế bào vật chủ, đầu sợi nấm thường phình to lên. Việc hình thành
đệm xâm nhiễm thường do cơ chế khống chế nội sinh và ảnh hưởng kích
thích của môi trường.


4.4- Sợi nấm bắt mồi (traps):

Một số nấm sống trong đất có cơ chế bắt mồi (giun tròn-nematode,
amip-amoeba..). Chúng hình thành nên những cấu trúc có dạng những cái
bẫy và vì vậy được gọi là nấm bẫy mồi (trapping fungi). Có thể có mấy

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×