Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Điều tra kinh nghiệm sử dụng cây có ích của đồng bào dân tộc h’mông và dao của huyện bát xát tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ

VÀ ĐÀO TẠO

CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

ĐIỀU TRA KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÂY CÓ ÍCH CỦA ĐỒNG BÀO
H’MÔNG VÀ DAO TẠI HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC SINH HỌC

Hà Nội - 2016


BỘ GIÁO DỤC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ

VÀ ĐÀO TẠO

CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH



ĐIỀU TRA KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÂY CÓ ÍCH CỦA ĐỒNG BÀO
H’MÔNG VÀ DAO TẠI HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

CHUYÊN NGÀNH: THỰC VẬT HỌC
MÃ SỐ: 60 42 01 11

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Văn Thanh

Hà Nội - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản Luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, tâm
huyết của TS. Bùi Văn Thanh, qua đây tôi xin gửi lời cảm trân thành và sâu sắc tới
người thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật, Bộ phận Đào tạo, Phòng Thực vật dân tộc học đã khích lệ động viên tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn cao học.
Trong suốt thời gian thực hiện việc điều tra tại địa phương, chúng tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của UBND xã Ý Tý, UBND xã Dền Sáng, UBND xã Sàng
Ma Sáo, UBND xã Trung Lèng Hồ và người dân tại khu vực nghiên cứu, tôi xin chân
thành cảm ơn.
Để có được kết quả của đề tài này, tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các cán bộ phòng Thực vật học – Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, tôi xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình đó.

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2016

Học viên

Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC HÌNHd
DANH MỤC BẢNG
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. 3
DANH MỤC HÌNH ..................................................................................................... 6
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... 7
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN ............................................................................................ 3
1.1. Tình hình sử dụng và nghiên cứu cây có ích trên Thế giới..................................... 3
1.1.1. Tình hình sử dụng các nhóm cây có ích trên Thế giới......................................... 3
1.2. Tình hình nghiên cứu các nhóm cây có ích ở Việt Nam ...................................... 10
1.3. Khái quát về điều kiện tự nhiên và xã hội ở huyện Bát Xát ................................. 13
1.3.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................ 13
1.3.2. Tài nguyên thiên nhiên ..................................................................................... 14
1.3.3. Kinh tế xã hội................................................................................................... 16
1.3.4. Vài nét về dân tộc H’Mông .............................................................................. 17
1.3.5. Vài nét về dân tộc Dao ..................................................................................... 18
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNGVÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 19
2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 19
2.2. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 19
2.3. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................................... 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 19
2.4.1. Phương pháp thực vật học ................................................................................ 19
2.4.2. Phương pháp điều tra cộng đồng ...................................................................... 21



Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................................. 23
3.1. Nguồn tài nguyên cây có ích được dân tộc H’Mông và Dao huyện Bát Xát sử
dụng........................................................................................................................... 23
3.1.1. Sự đa dạng trong các bậc taxon ........................................................................ 23
3.1.2. Đa dạng về dạng thân của nguồn cây có ích ở huyện Bát Xát, Lào Cai............. 29
3.2. Kinh nghiệm sử dụng cây có ích của đồng bào dân tộc H’Mông, Dao ở huyện Bát
Xát, Lào Cai .............................................................................................................. 30
3.2.1. Các nhóm cây có ích được sử dụng .................................................................. 30
3.2.2. Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc chữa bệnh cho người...................................... 32
3.2.3. Tri thức sử dụng cây ăn được ........................................................................... 47
3.3. Những loài cây thuộc diện bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhân được tại huyện Bát
Xát được đồng bào dân tộc H'Mông và Dao sử dụng ................................................. 52
3.3.1. Một số loài cây có ích thuộc diện được bảo tồn ở Bát Xát được đồng bào dân tộc
H'Mông và Dao sử dụng ............................................................................................ 52
3.3.2. Một số loài cây có ích thuộc diện được bảo tồn ở Bát Xát được đồng bào dân
tộcH’Mông và dao sử dụng ........................................................................................ 54
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 58
KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 59
1. Do điều kiện của đề tài hạn chế, vùng tài nguyên còn đa dạng nên đê nghị cần có
nghiên cứu điều tra tổng thể và chuyên sâu hơn. ........................................................ 59
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ........... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 61


DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Cấu trúc hệ thực vật được sử dụng ............................................................. 24
Hình 3.2. Số lượng taxon trong ngành Mộc lan .......................................................... 25
Hình 3.3. Tỷ lệ các taxon giầu loài trong ngành Mộc lan ........................................... 26

Hình 3.4. Tỷ lệ loài trong chi đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu .............................. 28
Hình 3.5. Đa dạng về dạng thân của các loài làm thuốc ............................................. 29
Hình 3.6. Nhóm cây có ích của đồng bào dân tộc H’Mông, Dao tại Bát Xát .............. 31
Hình 3.7. Tỷ lệ loài cây thuốc được người H’Mông và Dao sử dụng.......................... 32
Hình 3.8. Tỷ lệ bộ phận làm thuốc theo kinh nghiệm của hai dân tộc H’Mông, Dao ở
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai....................................................................................... 34
Hình 3.9. Tỷ lệ các nhóm bệnh được điều trị.............................................................. 37
Hình 3.10. Mục đích sử dụng các cây người ăn được ................................................. 48


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Cấu trúc hệ thực vật được sử dụng ............................................................. 23
Bảng 3.2. Tỷ lệ các taxon trong ngành Mộc lan. ........................................................ 24
Bảng 3.3. Tỷ lệ các taxon trong ngành Mộc lan ......................................................... 26
Bảng 3.4. So sánh các họ giầu loài có ích ở KVNC (1) với các họ giầu loài của hệ thực
vật Việt Nam (2) ........................................................................................................ 27
Bảng 3.5. Các chi đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu ............................................... 28
Bảng 3.6. Đa dạng về dạng cây của các loài có ích .................................................... 29
Bảng 3.7. Các nhóm cây có ích của đồng bào dân tộc H’Mông, Dao tại Bát Xát........ 30
Bảng 3.8. Số loài cây thuốc được người H’Mông và Dao sử dụng ............................. 32
Bảng 3.9. Sự đa dạng về các bộ phận sử dụng làm thuốc ........................................... 33
Bảng 3.10. Các nhóm bệnh được điều trị. .................................................................. 36
Bảng 3.11. Phương thức sử dụng cây thuốc của đồng bào H’Mông và Dao tại Bát Xát,
Lào Cai ...................................................................................................................... 39
Bảng 3.12. Các bài thuốc được đồng bào dân tôc H'Mông sử dụng. ........................... 40
Bảng 3.13. Các bài thuốc đồng bào dao sử dụng ........................................................ 40
Bảng 3.14. Các cây thuốc có công dụng mới.............................................................. 42
Bảng 3.15. Một số cây thuốc được cả hai dân tộc Dao và H’Mông sử dụng ............... 44
Bảng 3.16. Mục đích sử dụng các cây người ăn được................................................. 48
Bảng 3.17. Một số cây ăn quả được sử dụng tại huyện Bát Xát. ................................. 48

Bảng 3.18. Các cây làm rau ăn ở huyện Bát Xát. ....................................................... 50
Bảng 3.19. Các cây dùng làm thức ăn gia súc ở huyện Bát Xát. ................................. 51
Bảng 3.20. Các loài cây bị đe dọa ở huyện Bát Xát. ................................................... 52


1

MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm ở Châu Á,
được đánh giá là một trong những nước rất phong phú và đa dạng về sinh vật [9]. Hệ
Thực vật Việt Nam cũng được biết đến rất đa dạng và phong phú. Theo nghi nhận của
Phạm Hoàng Hộ có khoảng 10.500 loài thực vật bậc cao có mạch và dự đoán có đến
12.000 loài; trong đó, số loài cây có ích có khoảng 6.000 loài (Cây cỏ có ích – Võ Văn
Chi) chiếm 50% tổng số. Đồng thời, Việt Nam còn là Quốc gia đa dạng về nền văn
hóa với 54 dân tộc anh em sinh sống trên khắp các lãnh thổ. Mỗi dân tộc ở mỗi vùng
miền khác nhau lại có những tri thức khác nhau về cách sử dụng cây cỏ để phục vụ
cuộc sống của họ. Với mức độ đa dạng về hệ thực vật, về văn hóa như vậy, chúng ta
đang kế thừa một kho tàng tài nguyên quý giá của các dân tộc trong công tác chăm sóc
sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế.
Việt Nam là Quốc gia có 3/4 là diện tích rừng, nơi có sự đa dạng về nguồn tài
nguyên cây có ích và là nơi cư trú của 54 dân tộc trong đó dân tộc thiểu số với khoảng
24 triệu người, chiếm gần 1/3 dân số Quốc gia [26].Chính sự đa dạng về tộc người
cùng với khác biệt về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa
trong từng cộng đồng dân tộc đã dẫn đến sự đa dạng về những kinh nghiệm gia truyền
trong việc sử dụng những cây cỏ xung quanh mình. Việc sử dụng kinh nghiệm dân
gian và nghiên cứu thực vật học dân tộc ở Việt Nam nói chung và các dân tộc thiểu số
nói riêng là rất cần thiết để góp phần phát triển nền kinh tế của đồng bào dân tộc.
Bát Xát là huyện có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng so với các
huyện khác của tỉnh Lào Cai. Huyện có diện tích rừng là 46.412,2 ha chiếm 33,7%

tổng diện tích rừng của toàn tỉnh, chủ yếu là rừng thứ sinh. Hệ sinh thái ở Bát Xát còn
tương đối tốt, nhiều động, thực vật quý hiếm còn tồn tại đặc biệt là ở vùng cao Ý Tý,
Dền Sáng, Sàng Ma Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung. Huyện Bát Xát có 23 đơn vị
hành chính gồm 01 thị trấn và 22 xã. Người dân ở đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc
thiểu số gồm 14 dân tộc nhưng chủ yếu là H’Mông, Dao, Hà Nhì, Dáy trong đó đời
sống người H’Mông và Dao có quan hệ mật thiết với tài nguyên thiên nhiên.

Nguyễn Thị Vân Anh


2

Cho đến nay, tuy đã có một số nghiên cứu về tri thức bản địa của đồng bào
H’Mông và Dao nhưng chủ yếu tập chung ở một số nơi như Sa Pa (Lào Cai), Ba Vì
(Hà Nội), Mẫu Sơn (Lạng Sơn)... nhưng chưa có nhiều công bố về tri thức sử dụng cây
có ích đồng bào H’Mông và Dao ở Bát Xát, do đó chúng tôi lựa chọn đề tài “Điều tra
kinh nghiệm sử dụng cây có ích của đồng bào dân tộc H’Mông và Dao của huyện
Bát Xát tỉnh Lào Cai”
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá đa dạng nguồn cây có ích được sử dụng trong cộng đồng hai dân tôc
H’Mông và Dao tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để bảo tồn nguồn tài
nguyên thực vât có ích và vốn kinh nghiệm độc đáo trong việc sử dụng cây có ích của
đồng bào dân tộc H’Mông và Dao tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Nguyễn Thị Vân Anh


3


Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Tình hình sử dụng và nghiên cứu cây có ích trên Thế giới
1.1.1. Tình hình sử dụng các nhóm cây có ích trên Thế giới
Lịch sử hình thành con người luôn gắn với Thế giới tự nhiên, ngay từ thủa sơ
khai họ đã biết khai thácnguồn tài nguyên thực vậtđể phục vụ đời sống của mình.
Người dân sử dụng cây cỏ với nhiều mục đích khác nhau như thực phẩm, y học dân
tộc, thức ăn gia súc, nhiên liệu, thuốc nhuộm, tannin, sợi, nhựa, sản xuất công cụ công
nghiệp và săn bắn. Trong đó nhóm cây lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là cây thuốc và cây
cho hương thơm được coi là một thứ hàng hóa miễn phí được thu thập từ thiên nhiên
tại Nepan [53].
Từ ngàn năm trước, gỗ đã được con người sử dụng phổ biến trong đời sống
hàng ngày, chúng không chỉ được sử dụng làm nhiên liệu hoặc vật liệu xây dựng nhà
cửa, mà chúng còn được sử dụng để chế tạo những công cụlao động sơ khai, vũ khí
săn bắt đơn giản đến những công trình nghệ thuật thậm chí là làm giấy. Gỗ là nguyên,
vật liệu được con người sử dụng lâu đời và rộng rãi, là một trong những vật tư chủ yếu
của nền kinh tế quốc dân. Tại Nepan hơn 87% nhu cầu năng lượng của quốc gia được
đáp ứng bởi các sản phẩm từ rừng và mỗi người tiêu thụ một mét khối gỗ mỗi năm cho
mục đích này [10, 53].
Trên Thế giới, thực vật cho sợi có khoảng 425 loài (chỉ riêng Đông Phi đã
thống kê được 352 loài cây cho sợi) thuộc 134 chi trong 41 họ, trong đó có nhiều loài
quý được sử dụng gần như toàn cầu, như các loài trong chi bông. Ngoài ra, tùy theo
thói quen, các dân tộc còn lấy sợi từ các cây bản địa, như người Philippin dùng cây
chuối sợi, người Mêhicô, Giava và châu Phi dùng các loài của chi Thùa, Ấn Độ là
trung tâm sản xuất sợi đay, Trung Quốc sản xuất sợi gai, châu Âu sản xuất sợi
lanh.Một số loài trong họ gai được sử dụng để lấy sợi vì sợi gai bền, chắc, chịu lực,
chịu mặn. Người ta sử dụng sợi gai để sản xuất các loại hàng như dệt vải, may mặc,
lưới đánh cá, vải lót lốp xe đạp, ô tô, dây cua roa, chỉ khâu giầy... Sản lượng gai hàng
năm trên Thế giới khoảng 130.000 tấn. Trung Quốc là nước sản xuất nhiều nhất
khoảng 100.000 tấn, tiếp theo đến Braxin là 16.000 tấn. Ở Việt Nam ngành này không

phát triển mạnh mà chỉ là ngành thủ công ở một số ít địa phương [10, 19].
Nguyễn Thị Vân Anh


4

Cây cho nhựa mủ được sử dụng rộng rãi là cây cao su, nó được thổ dân ở châu
Mỹ khai thác và sử dụng từ rất lâu đời, nhưng nhựa cao su chỉ được sử dụng đa dạng
vào năm 1934, khi người Tây Ban Nha dùng chế ra các vật chống thấm, che mưa. Con
người đem hạt trồng rộng rãi khắp các châu lục nhiệt đới (chủ yếu là ở châu Phi và
Đông Nam Á). Cây cao su hiện chiếm vị trí thứ nhất và ngành công nghiệp cao su
được xếp vào hàng thứ tư trong nền công nghiệp toàn cầu (sau dầu mỏ, than đá, gang
thép) [10].
Cây có dầu thơm được loài người khai thác từ lâu đời, bắt nguồn từ các dân tộc
phương Đông. Từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên (TCN), các nguyên liệu dầu thơm
lấy từ các cây cỏ đã được người Ấn Độ, Ai Cập sử dụng. Ngoài ra, người Ai Cập cổ
đại đã biết dùng tinh dầu và những cây có tinh dầu để ướp xác các vua chúa hoặc làm
nước thơm từ 4000 năm trước công nguyên. Ở Trung Hoa, khi khai quật các ngôi mộ
cổthời tiền Hán (có niên đại trên 100 năm TCN) vào nửa đầu thế kỉ XX, người ta đã
phát hiện nhiều loại tinh dầu thảo mộc như thông, bạc hà, hoàng đàn... Ngoài ra, trong
các gia đình ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và kể cả Việt Nam đã có thói quen dùng
tinh dầu làm thuốc hay gia vị [28]. Ngược lại với phương Đông, các dân tộc châu Âu
biết đến và sử dụng nguồn tinh dầu rất muộn, nhưng cách sử dụng và nguồn nguyên
liệu của họ không vì thế mà nghèo nàn, kém phong phú. Cho đến cuối thời Trung Cổ
(TK 14-15) họ mới sản xuất ra được các loại dầu thơm từ cây bách xù, hương thảo, oải
hương, thông... Sau này các dân tộc Bắc Mỹ cũng sản xuất dầu thơm từ cây bạc hà,
cam, chanh. Năm 1985, ước tính tổng sản lượng tinh dầu của Thế giới vào khoảng
36.500 tấn (con số này chưa bao gồm nhựa thông, nhựa thông năm 1985 đã có khoảng
250.000 tấn). Năm 1993, sản xuất dầu cam được ước tính khoảng 26.000 tấn (trị giá
58,5 triệu USD) [10, 54].

Các cây cho màu dùng để nhuộm cũng được loài người sử dụng lâu đời. Màu
sắc vải nhuộm để cuốn các xác ướp trong các ngôi mộ cổ đã chỉ rõ điều này, thường
màu vàng lấy từ đầu nhụy cây nghệ tây, màu đỏ từ hoa cây hồng hoa, còn màu xanh
lấy từ cây chàm. Bên cạnh nhuộm thực phẩm, việc tạo màu cho nước uống cũng được
chú ý để làm tăng hương vị và giá trị dinh dưỡng. Các loài cây thường được sử dụng
để tạo màu cho nước uống gồm: Quả dâu tây (Fragaria), quả sim (Rhodomyrtus
tomentosa) và thân gỗ một số loài cây gỗ có màu (Gạc nai, Rè đẹp...) [10, 15].
Nguyễn Thị Vân Anh


5

Người xưa nói “dân dĩ thực vi thiên” (dân lấy ăn làm trời). Điều đó muốn nói
thực vật là thứ không thể thiếu được trong sinh hoạt con người. Cây ngô là một trong
những cây lương thực được loài người sử dụng lâu đời nhất. Các thổ dân châu Mỹ đã
gây trồng, chế biến ngô làm lương thực từ trước khi Columbus đặt chân lên châu Mỹ.
Con người biết trồng cây lúa mì từ 5.000 năm TCN ở thung lũng sông Nin. Người
Trung Hoa trồng cây lúa mì từ 2.500 năm TCN. Có 261 loài trong 90 chi và 50 họ thực
vật với nhiều loài cho củ trở thành cây lương thực chính như khoai tây, sắn, khoai
lang. Người Tây Ban Nha phát hiện ra khoai tây năm 1535, hiện tại khoai tây là một
trong bốn cây lương thực quan trọng nhất trên Thế giới. Khoai lang lần đầu tiên được
phát hiện trong vùng biển Carribbean, hiện tại nó là một trong 15 cây lương thực và
Trung Quốc là nơi cung cấp khoảng 80% khoai lang trên toàn Thế giới. Sắn là một
trong các cây trồng quan trọng nhất tại Nam Mỹ, đây là một nguồn nguyên liệu tuyệt
vời vì nó có thể được lưu giữ trong đất nhiều năm sau khi đã trưởng thành [10, 55].
Các loài đậu ăn hạt cũng cung cấp nguồn lương thực vô cùng quý giá cho con người.
Những loại đậu ăn hạt phần lớn thuộc phân họ đậu Papilionoideae với 450 chi và hơn
10.000 loài. Theo thống kê của FAO (1988) từ năm 1889 đến năm 1987 thì sản lượng
đậu không có dầu trên thế giới lên tới 39.382.000 tấn/ năm với diện tích trồng sấp xỉ
57.000.000 ha. Riêng sản lượng đậu tương và lạc lần lượt là 90.603.184 và 18.469.728

tấn/ năm với diện tích mỗi loại là 51.448.816 ha [34].
Từ thời xa xưa, loài người ra sức tìm kiếm các loài cây hoang dại trong các
cánh rừng già phương Đông để phát hiện các sản phẩm nhằm tăng hương vị cho các
món ăn đồ uống. Các loài cây làm gia vị trên Thế giới có 213 loài thuộc 83 chi của 31
họ thực vật, trong đó nổi bật hơn cả là cây hồ tiêu, sau đó là cây ớt [10].
Trong lịch sử phát triển các dân tộc, các Quốc gia cũng như sự phát triển của xã
hội loài người trên toàn Thế giới gắn liền với lịch sử phát hiện và sử dụng cây thuốc.
Cây thuốc là một trong những nhóm tài nguyên thực vật có giá trị quan trọng hàng đầu
và đây là tài sản vô cùng quý giá mà thiên nhiên ưu đãi cho mỗi dân tộc, mỗi Quốc
gia. Ngoài việc được ghi chép lại trong sách vở thì y học cổ truyền còn được lưu
truyền qua từng thế hệ bằng lời nói và thực hành ở nhiều nơi trên Thế giới. Các tài liệu
cổ xưa nhất về sử dụng cây thuốc đã được người Ai Cập cổ đại ghi chép trong khoảng
thời gian 3.600 năm trước đây với 800 bài thuốc và trên 700 cây thuốc, trong đó có Lô
Nguyễn Thị Vân Anh


6

hội, Kỳ nam, Gai đầu... Người Trung Quốc cổ đại đã ghi chép trong bộ Thần nông bản
thảo (khoảng 5.000 năm trước đây) với 365 vị thuốc và loài cây làm thuốc, người Ấn
độ cổ đại đã nghi chép nền y học của các bộ tộc Hindu khoảng 2000 năm trước, trong
đó có các loài cây gây buồn ngủ, ảo giác, chữa rắn cắn...[51]. Trong hệ thống y học
của người Trung Quốc, 80% bài thuốc cổ truyền có sử dụng các loài thực vật bậc cao.
Sử dụng thực vật làm thuốc khá phổ biến ở các nước Châu Á như Hồng Kông, Hàn
Quốc, Indonexia, Malaixia cũng như ở Ấn độ, Pakistan, Bangladesh, SriLanka và Nê
Pan (Husain, 1991). Tại Nhật Bản, có đến 42,7% dân số sử dụng thuốc cổ truyền trong
các hoạt động chữa bệnh với tổng giá trị của y học cổ truyền lên đến 150 triệu USD/
năm (1983) [51].Tại Ấn Độ, có 400 loài trong tổng số 7.500 loài cây thuốc thường
xuyên được sử dụng với lượng lớn ở các xưởng sản xuất thuốc nhỏ và khoảng 540 loài
cây thuốc thường được sử dụng ở các bài thuốc khác nhau trong hệ thống y học

Ayuveda, Unani và Siddha. Xuất nhập khẩu cây thuốc của Ấn Độ tăng 3 lần, trong
thập niên 90 của thế kỉ XX; doanh thu từ hoạt động buôn bán dược thảo trong nước và
xuất khẩu đạt 1 tỷ USD/năm [51].
Trong những năm gần đây, Thế giới đặc biệt chú ý đến cây thuốc và các loại
thuốc có nguồn gốc thực vật, do phát hiện ra các tác dụng không mong muốn của
nhiều loại thuốc được sản xuất bằng con đường tổng hợp hóa học: hiệu suất nghiên
cứu sản xuất thuốc mới từ cây thuốc dân tộc là 1/125, trong khi hiệu suất sản xuất
thuốc mới theo phương pháp tổng hợp hóa học ngẫu nhiên là 1/10.000 (Farnsworth, in
Chadwick and Marsh, 1994). Đối với việc sàng lọc các loài cây thuốc kháng HIV hiệu
quả sàng lọc từ kinh nghiệm dược học dân tộc là 1/5 trong khi hiệu quả sàng lọc ngẫu
nhiên là 1/18 (Bialick Michael J..1990). Chính vì vậy mà nhu cầu của Thế giới về cây
thuốc ngày càng tăng cao, kèm theo đó mức độ quan tâm của toàn Thế giới đối với tài
nguyên thực vật này càng trở nên sâu sắc và rộng lớn. Theo tài liệu của tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) năm 1985, trong số khoảng 250.000 loài thực vật bậc thấp cũng như
thực vật bậc cao đã biết, khoảng 20.000 loài được sử dụng làm thuốc ở các mức độ
khác nhau. Trong đó, Ấn Độ được biết có 6.500 loài, Trung Quốc có 5.136 loài, riêng
về thực vật có hoa ở một vài nước Đông Nam Á đã có tới 2.000 loài là cây thuốc.
Khoảng 80% dân số Thế giới sử dụng các loại cây thuốc cho chăm sóc sức khỏe ban
đầu và khoảng 70-80% dân số ở các vùng nông thôn lấy cây thuốc làm nguồn thuốc
Nguyễn Thị Vân Anh


7

chữa bệnh chủ yếu. Ở Trung Quốc, số dược liệu sử dụng trong y học cổ truyền hàng
năm từ 0,7-1,0 triệu tấn, với giá trị vào khoảng 1,4 tỷ USD, khoảng 1.000 loài thực vật
được sử dụng trong các chế phẩm thuốc Trung Quốc trong đó hơn ba phần tư trong số
này được thu thập từ thiên nhiên. Ở Nepan, đã có 3.448 tấn các loại thảo mộc được thu
thập cho các mục đích thương mại và công nghiệp trong hai năm 1989- 1990, 6.217
tấn trong năm 1990- 1991. Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế cho biết,

cây thuốc ở các nước công nghiệp phát triển năm 1976 đã nhập khẩu 355 triệu USD,
đến năm 1980 đã tăng lên 551 triệu USD (O. Akerele, 1991). Chỉ tính riêng 12 loại
thảo dược có nhu cầu sử dụng cao ở Mỹ là bạch quả, Hypericum perforatum, sâm
Triều tiên, tỏi, Kawa… năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD [14, 17, 53,
58, 60].
Từ những cơ sở nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng của các dân tộc
trên Thế giới, nhiều sản phẩm có giá trị đã được sản xuất phục vụ nhu cầu của con
người: Từ kinh nghiệm sử dụng cây Nhàu (Quả Noni- Morinda citrifolia) làm thuốc và
dùng trong các bữa ăn kiêng của cư dân bản địa tại đảo Tahiti, các nhà khoa học Mỹ
đã tìm ra những giá trị chữa bệnh và dinh dưỡng của cây này, tập đoàn Tahition Noni
International (TNI) đã ứng dụng các kết quả nghiên cứu để sản xuất các loại nước ép
trái cây, mặt hàng này giúp cho TNI trở thành tập đoàn hàng đầu Thế giới về nước ép
trái cây; tại Sudan, tinh dầu Húng quế (Ocimum basilicum) thu được bằng cách chưng
cất được sử dụng trong nước hoa và sản xuất hương thơm [56, 57].
Cùng với việc tìm hiểu mặt có lợi của cây cỏ từ lâu người ta đã quan tâm mặt
trái của vấn đề này, đó là những tác hại của cây độc đối với con người và gia súc.
Người ta đã sử dụng nhiều cây độc làm cây thuốc như cà độc dược, mã tiền, hoàng
đàn, trúc đào, ô đầu, bách bộ… bởi vì hoạt chất của những cây này có tác dụng chữa
bệnh khi dùng đúng bệnh và liều lượng. Các họ thực vật có nhiều cây độc là họ thầu
dầu, họ trúc đào, họ cà, họ đậu, họ mã tiền... số loài cây độc ở vùng nhiệt đới nhiều
hơn vùng ôn đới và hàn đới [25].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu các nhóm cây có ích trên Thế giới
Kinh nghiệm sử dụng các loài cây có ích không chỉ được lưu truyền trong đời
sống mà còn được ghi chép lại dưới dạng các cuốn sách. Charles Pickering trong cuốn

Nguyễn Thị Vân Anh


8


“Lịch sử niên đại cây cỏ” đã chỉ rõ: từ 4.271 năm TCN, người dân vùng Trung Cận
Đông đã biết sử dụng nhiều loại cây phục vụ mục đích kinh tế như các loài cau, dừa,
sung, vả, cây có nhựa, cây có sợi... trong các ngôi mộ cổ Ai Cập, các xác chết được
ngâm tẩm bởi các loại dầu, hương liệu thực vật và được quấn bằng vải cây lanh. Điều
này chứng tỏ trên 4.000 năm trước người Ai Cập chắc chắn đã biết khai thác tinh dầu
và dệt vải. Cũng vào thời gian này người Trung Hoa đã biết sản xuất giấy từ các loài
cây có sợi [10].
Kiến thức về cây cỏ được loài người ghi chép và lưu lại sớm nhất có lẽ là tác
phẩm của Aristore (384-322 TCN), tiếp đó là tác phẩm “Lịch sử thực phẩm” của
Theophraste (khoảng năm 340 TCN), mô tả giới thiệu gần 500 loài cây cỏ với các chỉ
dẫn về nơi mọc và công dụng [10].
Vào thời kì phục hưng (đầu TK15) chủ nghĩa tư bản phát triển, mở rộng buôn
bán giao lưu qua nhiều nước, các loài cây có ích lại được nghiên cứu. Các bộ bách
khoa toàn thư về cây cỏ được biên soạn ở nhiều quốc gia, đóng góp rất lớn cho việc
phát triển thêm các loài cây có ích và mở rộng việc gây trồng ở các vùng đất khác
nhau. Nhà thực vật học Ý Prospiero Alpini (1533-1617) lần đầu tiên đã mô tả cây cà
phê, loài cây có hạt làm thức uống đặc sắc thời bấy giờ [10].
Trong hàng ngàn công trình nghiên cứu về cây có ích, đóng góp to lớn nhất
thuộc về nhà thực vật học Thụy Sỹ Alphonse de Camdolle. Trong tác phẩm “ Địa lý
học thực vật” (1855) và “Nguồn gốc cây trồng” (1883) ông đã thống kê các loài cây có
ích được gây trồng trên Thế Giới, đồng thời cũng xác định nguồn gốc phát triển của
chúng [10].
Trong các nghiên cứu về cây có ích, được nghi chép và tìm hiểu nhiều nhất phải
kể đến các cây có công dụng làm thuốc.
Ngày nay, việc phát hiện thêm các loài cây có ích từ các loài hoang dại vẫn
đang đươc tiếp tục nhằm bổ sung cho khoảng trống kiến thức về các loài cây có ích,
cây tài nguyên của nhân loại, đặc biệt là các loại cây thuốc với các bài thuốc dân gian
của các dân tộc ít người trên nhiều vùng đất đai khác nhau. Rất nhiều các tác phẩm từ
thời xưa đã ghi lại những kiến thức về y học và sử dụng cây thuốc như “Kinh vệ đà”
tại Ấn Độ ghi lại những dược liệu hay dùng trong y học Ấn Độ là ba gạc, tỏi, tiêu,

Nguyễn Thị Vân Anh


9

gừng, thầu dầu, me…, “Thần nông bản thảo kinh” trong sách chú ý ghi chép các thực
vật bổ ích, lành mạnh thân thể, chống suy nhược và phòng bệnh cho người già; “Bản
thảo cương mục” ghi khoảng 500 vị thuốc các loại ngũ cốc, rau quả, loài có vảy, loài
chim, loài thú dùng làm thực liệu. Năm 1952 các nhà thực vật học và tài nguyên thực
vật học người pháp cho biết: Đông Dương có 1.350 loài cây thuốc thuộc 160 họ thực
vật khác nhau đã được sử dụng hoặc có thể sử dụng làm thuốc, ngày nay số lượng cây
thuốc đã biết đã tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên không phải tất cả trong số đó được sử
dụng với số lượng lớn. Trong y học cổ truyền Trung Quốc, 9.905 loài thực vật được sử
dụng làm thuốc thì chỉ có khoảng 500 loài thường được sử dụng với số lượng đáng kể
(Natural Medicine Marketing, 1996) [11, 18, 59].
Một bước phát triển lớn của ngành y học là các sản phẩm và dịch triết tự nhiên
liên quan đến chữa bệnh đã được quan tâm nghiên cứu nhiều, đặc biệt là việc xác định
thành phần hóa học và cấu trúc hóa học của các hợp chất. Đánh giá về danh sách một
số dược phẩm ở một số nước cho thấy ít nhất có khoảng 120 hợp chất khác nhau từ
thực vật được sử dụng như những loại biệt dược để cứu sống con người [53]. Các hợp
chất này được sàng lọc mới chỉ khoảng 6% tổng số các loài thực vật. Như vậy, nguồn
tài nguyên thực vật chưa khai thác cần được điều tra để chữa các bệnh hiểm nghèo như
AIDS, ung thư, đái đường… là vô cùng lớn. Những hợp chất được tách ra từ các bài
thuốc cây cỏ của Trung Quốc đã được đưa vào thị trường Tây Âu là Ephedrin, tiếp
theo là artemisinin được tách ra từ cây Thanh hao hoa vàng, có tính năng lớn trong
điều trị sốt rét. Năm 2003, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã thực hiện giai đoạn 2
thử nghiệm hiệu quả của các loại thuốc có tên là Kanglaite từ - iijen (Coix Iachryma –
jobi), để điều trị các tế bào ung thư phổi[50]. Đây là những loại thuôc đầu tiên từ y học
cổ truyền Trung Quốc được đưa vào thử nghiệm điều trị bệnh ở Mỹ. Năm 2002, người
ta thống kê được có khoảng 1141 loại thuốc thực vật truyền thống khác nhau có hoạt

tính chữa bệnh, trong đó có một số hoạt chất mới từ thực vật như artemisinin (chống
sốt rét), indirubin (chống ung thư),vv…

Nguyễn Thị Vân Anh


10

1.2. Tình hình nghiên cứu các nhóm cây có ích ở Việt Nam
Ở Việt Nam nhóm tài nguyên thực vật cho gỗ chiếm vai trò vô cùng quan trọng.
Trong tổng số khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, nhóm cây cho gỗ có đến
2.500 loài, phân bố trong các họ thực vật lớn như họ cà phê (Rubiaceae), họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae), họ Đậu (Fabaceae)… hoặc trong các họ tuy số loài ít nhưng số cá thể
lớn, tạo nên các kiểu thảm thực vật tối ưu như họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Long
não (Lauraceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Đước (Rhizophoraceae) [23].
Các cây chứa tinh dầu là một trong những nhóm tài nguyên thực vật quan trọng
nhất trong hệ thực vật Việt Nam, không chỉ bởi chúng có số lượng loài lớn mà còn
được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp. Theo thống kê chưa đầy đủ
hiện đã phát hiện 621 loài thuộc 110 họ thực vật của nước ta chứa tinh dầu. Những
năm trước đây, một số loài cây tinh dầu được đưa vào trồng với diện tích lớn (hàng
nghìn hecta) phục vụ cho mục đích trong nước và xuất khẩu (Mentha arvensis,
Ocimum basilicum, O.gratissimum, Cymbopogon winterianus). Bên cạnh những loài
đã được đưa vào trồng cấy, chúng ta có những vùng phân bố tập trung của một số loài
cây tinh dầu với diện tích lớn. Vùng phân bố tập trung một số loài thông (Pinus
merkusii, P. khaysia) tại cao nguyên Trung bộ được coi là vùng có thông phân bố tập
trung lớn nhất Đông Nam Á. Vùng Tràm (Melaleuca leucadendron) tại Nam Bộ (ước
tính 180.000-200.000 ha) là nguồn cung cấp nguyên liệu để sản xuất cineol rất lớn.Sản
lượng các loại tinh dầu (bạc hà, hương nhu, hương quế, sả…) đạt hàng trăm tấn trong
năm. Tinh dầu từ các loài Màng tang (Litsea cubeba), Húng quế(Ocimum basilicum),
Tràm(Melaleuca leucadendron)... dùng để phục vụ cho công nghiệp tách chiết, tổng

hợp các hợp chất làm thuốc [13, 29].
Theo số liệu thống kê của tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2003), ở Việt Nam
thống kê được trên 200 cây cho chất nhuộm màu trong đó có 57 loài (thuộc 28 họ) đã
được sử dụng và phân bố phổ biến ở nước ta [12, 15]. Đây là nguồn tài nguyên quý để
khắc phục nhược điểm của các sản phẩm nhuộn mầu tổng hợp như gây ung thư, rối
loạn thần kinh, ngộ độc hay chất thải từ các sản phẩm này là nguyên nhân gây ô nhiễm
môi trường. Do vậy, đã có một và công trình nghiên cứu về các loài thực vật cho chất
nhuộm mầu từ việc điều tra tri thức cho đến việc thử nghiệm ứng dụng vào thực tiễn.
Năm 2012, Lưu Đàm Ngọc Anh và cộng sự đã nghiên cứu về cây thuốc nhuộm truyền
Nguyễn Thị Vân Anh


11

thống của người Thái đen tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, công trình đã chỉ ra
được 22 loài cho chất nhuộm mầu thực phẩm, 12 loài dùng để nhuộm mầu quần áo,
nhuộm đồ dùng là 2 loài và mĩ phẩm là 1 loài [1]. Hay trong 1 công trình khác Lưu
Đàm Ngọc Anh và cộng sự đã chỉ ra 10 loài được đồng bào Mạ ở Tỉnh Đắc Nông sử
dụng để nhuộm vải [2].
Lương thực, rau quả là một phần không thế thiếu trong cuộc sống con người. Ở
Việt Nam, nguồn cung cấp rau chủ yếu ở các thành thị là các loại rau trồng với các
nhóm như rau xanh, nhóm rễ củ hay nhóm cho quả. Nhưng ở vùng núi rừng, ngoài một
số loại cây được trồng làm ra, còn nhiều loài cây khác được thu hái trong tự nhiên
cũng được thu về làm rau. Nguyễn Quốc Bình và cộng sự trong một nghiên cứu ở Đăk
Lak và Gia Lai (2013) đã thống kê 234 loài thuộc 169 chi, 71 họ được sử dụng làm rau
ăn, trong đó có một số ít loài trồng còn lại chủ yếu là thu hái ngoài tự nhiên [8]. Trong
một nghiên cứu khác của tác giả Ninh Khắc Bẩy (2013) và cộng sự đã chỉ ra các nhóm
cây ăn được trong hệ thực vật của tỉnh Phú Thọ. Trong đó cây làm rau (bao gồm cả
cây gia vị) có 113 loài thuộc 96 chi 48 họ, cây ăn quả có 115 loài thuộc 77 chi, 36 họ,
cây làm lương thực có 10 loài thuộc 7 chi 5 họ [6].

Ở nước ta từ trước đến nay có gây trồng sản xuất nhiều loại sợi từ các loài cây
khác nhau, tập trung hơn cả có cây bông, sau đó đến cây đay, cây gai và các loại cói...
trước đây trong thế chiến thứ hai, người Nhật đã bắt nhân dân ta bỏ trồng lúa, mở rộng
diện tích trồng đay, lấy nguyên liệu đưa về Nhật Bản sản xuất bao bố [10].
Nguồn cây thuốc ở Việt Nam đặc biệt phong phú và đa dạng về thành phần loài.
Dường như tất cả các nhóm và ngành thực vật (kể cả nấm) đều có các loài được sử
dụng để làm thuốc. Đặc biệt là trong thực vật bậc cao các ngành có mạch, so với
10.386 loài đã biết thì cây làm thuốc chiếm tới trên 37,26%. So với một số nhóm cây
có ích khác như: cây gỗ 700 loài, cây chứa tinh dầu 657 loài, song mây và tre nứa trên
130 loài ... rõ ràng số loài cây được sử dụng làm thuốc lớn hơn rất nhiều. Ngay từ thời
cổ xưa nhân dân đã biết sử dụng thực vật làm thuốc chữa bệnh. Ngày nay nền y học cổ
truyền của ta đã phát triển khá mạnh. Để đạt được những thành tựu này, chúng ta
không thể không kể đến công của Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông… [18].
Tuệ Tĩnh sinh ra vào đời Trần, trong lúc triều đình và giới quan lại quyền quý
sính dùng thuốc Bắc thì thầy thuốc Tuệ Tĩnh với tinh thần độc lập tự chủ đã đề xưởng
Nguyễn Thị Vân Anh


12

ra quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” qua tác phẩm “Nam dược thần hiệu” (được bổ
sung và in lại vào 1761) với những phương thuốc giản dị và có sẵn ở Việt Nam [18].
Đến Thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông đã tổng hợp những thành tựu của nền y
học phương đông, áp dụng sáng tạo vào điều kiện tự nhiên và bệnh tật ở nước ta thành
bộ sách “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập chia thành 66 quyển [18].
Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật trong nhưng năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về cây thuốc cổ truyền của các dân tộc
Thái, Mường, Tày, Nùng, H’Mông, Hoa,… đã cập nhật và bổ sung cho dữ liệu về cây
thuốc dân tộc ở Việt Nam.

Từ lâu Chính phủ ta đã rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
trong đó có bảo vệ sự đa dạng các loài sinh vật của đất nước. Chưa đến 10 năm, sau
cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, năm 1962, Chính phủ nước ta đã kí quyết định thành
lập vườn quốc gia đầu tiên của đất nước- vườn quốc gia Cúc Phương và Việt Nam
cũng là một trong những nước đầu tiên ký vào công ước Quốc tế về bảo tồn đa dạng
sinh vật tại hội nghị thượng đỉnh tại Rio de Janeiro (Brazin) vào năm 1992. Đến tháng
5/2005, số lượng khu bảo tồn và vườn quốc gia trong cả nước đã lên tới 138. Đồng
thời với điều đó, chính sách đóng cửa rừng cũng đã được công bố nhằm góp phần bảo
vệ đa dạng sinh vật, bảo vệ tài nguyên và môi trường của đất nước.
Từ ngày hòa bình lặp lại ở miền Bắc và sau ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước, Đảng và nhà nước đã quan tâm nhiều đến dược liệu, khuyến khích điều
tra nghiên cứu nguồn cây thuốc nước nhà. Rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu
quan tâm đến vấn đề này và bỏ công sức ra nghiên cứu tìm hiểu. Đáng chú ý là tác
phẩm “Tài nguyên cây thuốc Việt Nam” của Viện Dược liệu đã nghiên cứu về các mặt
danh pháp, phân loại thực vật, phân bố sinh thái, trồng trọt, hóa học chuyển biến, dược
lý công dụng những cây thuốc đã được khai thác và sử dụng lâu đời trong dân gian. Từ
năm 1962-1965 GS. TS Đỗ Tất Lợi cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam” gồm 6 tập, đến năm 1969 tái bản thành 2 tập, giới thiệu trên 500 vị thuốc
có nguồn gốc từ thảo mộc, động vật và khoáng vật. Lần tái bản năm 2003 ông mô tả tỉ
mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành phần hóa học 792 loài cây thuốc, chia tất
Nguyễn Thị Vân Anh


13

cả các cây thuốc theo nhóm bệnh khác nhau. Năm 2004, Viện Dược liệu xuất bản tài
liệu “Những cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” đã thống kê được ở Việt
Nam có: 11.000 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 3.800 loài thực vật bậc cao
và thấp (kể cả nấm) được dùng làm thuốc. Sách đã giới thiệu 63 loại bệnh được chữa
trị bằng cây thuốc. Năm 2012, Võ Văn Chi tái bản cuốn “Từ điển cây thuốc Việt

Nam”, theo thống kê ở Việt Nam có hơn 4.700 loài cây cỏ dùng làm thuốc [5, 11, 27,
44].
Tác phẩm nói về cây có ích phải kể đến “Cây cỏ có ích ở Việt Nam (sách có
nhiều tập)” đã đề cập đến 9 ngành thực vật với 15 lớp, bao gồm 314 họ khác nhau có
các đại diện là cây có ích trong hệ thực vật nước ta. Mỗi loài cây gồm tên Việt Nam,
tên khoa học, tên khác, mô tả, phân bố, sinh thái, công dụng, ghi chú [10].
Theo đánh giá của viện Dược liệu, năm 1988 cần 30.000 tấn dược liệu cung cấp
cho hệ thống y học cổ truyền và 20.000 tấn cho công nghiệp dược và xuất khẩu. Công
tác trọng tâm trong chiến lược ngành dược nước nhà giai đoạn 2001-2005 phải đảm
bảo 40% và năm 2010 là 60% thuốc thiết yếu sản xuất từ nguyên liệu trong nước [17].
1.3. Khái quát về điều kiện tự nhiên và xã hội ở huyện Bát Xát
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Bát Xát là huyện vùng cao biên giới cách thành phố Lào Cai 12 km về phía tây
bắc.
- Phía bắc giáp huyện Kim Bình (Trung Quốc).
- Phía nam giáp huyện Sa Pa.
- Phía đông giáp thành phố Lào Cai và thị trấn Hà Khẩu (Trung Quốc).
- Phía tây giáp huyện Phong Thổ (Lai Châu).
Diện tích toàn huyện là 1.061,89 km2 trên 70% là đồi núi, dân số 74.138 người
[44].
Huyện Bát Xát có cửa khẩu Bản Vược và Ý Tý với 99,8 km đường biên giới
với Trung Quốc. Khí hậu nằm trong vùng nóng ẩm mưa nhiều, do ảnh hưởng của địa

Nguyễn Thị Vân Anh


14

hình nên khí hậu chia làm hai khu vực vùng thấp và vùng cao. Hệ thống sông ngòi khá

dày và phân bố tương đối đều với hệ thống sông Hồng và các con suối chính như Ngòi
Phát, Lũng Pô, Quang Kim, ngòi Đum [64].
1.3.1.2. Khí tượng thủy văn
Bát Xát nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều. Do ảnh hưởng của địa hình nên được chia thành 2 khu vực khí hậu khác nhau. Do ảnh hưởng
của địa hình núi cao, độ chia cắt lớn nên khí hậu vùng núi cao mang tính chất của khí
hậu cận nhiệt đới và ôn đới ẩm,nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất 16,6C, thấp nhất
14,3C.
1.3.2. Tài nguyên thiên nhiên
1.3.2.1. Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ thổ nhưỡng Lào Cai năm 1972 và báo
cáo khoa học (đất Lào Cai) do Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia
thuộc Viện Địa lý xây dựng năm 1996 cho thấy huyện Bát Xát có 8 nhóm đất chính:
- Nhóm đất mùn thô trên núi cao 25,39 ha chiếm 0,02% diện tích tự nhiên, loại
đất này chủ yếu được phân bố ở các đỉnh núi cao trên 2800 m.
- Nhóm đất mùn Alít trên núi cao 1513,1 ha chiếm 1,2% diện tích tự nhiên,phân
bố chủ yếu ở độ cao từ 1800 - 2800m khu vực phía tây và phía bắc huyện.Như khu
vực Hồng Ngài (Y Tý), Mào Mù Sủi (Sàng Ma Sáo).
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi cao 34956,66 ha chiếm 33,92% diện tích tự
nhiên, phân bố chủ yếu ở độ cao từ 900 -1800m.
- Nhóm đất đỏ vàng 64787,94 ha chiếm 61,01% diện tích tự nhiên, phân bố ở
độ cao dưới 900m.
- Đất thung lũng dốc tụ (DI): Diện tích 974,44 ha chiếm 0,92%. Đây là loại đất
thứ sinh được hình thành và phát triển trên sản phẩm rửa trôi và bồi tụ của các loại đất
ở chân sườn hoặc khe dốc.

Nguyễn Thị Vân Anh


15


- Đất lầy thụt và than bùn (J): Diện tích 12,1 ha chiếm 0,01% diện tích đất tự
nhiên. Loại đất này có hàm lượng các chất dinh dưỡng khá, thành phần cơ giới nhẹ độ
pH cao. Phân bố ở các xã vùng thấp.
- Đất phù sa: Diện tích 524,54 ha chiếm 0,49% diện tích tự nhiên toàn
huyện,nhóm đất này bao gồm: Phù sa sông Hồng và phù sa các suối khác.
- Núi đá: Diện tích 3394,55 ha chiếm 3,2 tổng diện tích tự nhiên. Phân bố chủ
yếu ở các dãy núi cao phía bắc huyện [61].
1.3.2.2. Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt và nước ngầm khá phong phú và dồi dào, được phân bố tương
đối đều khắp lãnh thổ.
- Nguồn nước mặt: Sông Hồng, suối Lũng Pô, Ngòi Phát... và hệ thống khe lạch
là nguồn nước mặt có ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người và phát triển kinh
tế xã hội của huyện.
- Nguồn nước ngầm: Tuy nguồn nước mặt phong phú về mùa mưa song do ảnh
hưởng của địa hình (độ chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nghiêng về sông Hồng) nên nguồn
nước ngầm có xu hướng cạn kiện về mùa khô.
Nhìn chung nguồn nước trên địa bàn huyện còn tương đối tốt đáp ứng cho sản
xuất và đời sống con người song cần được duy trì nâng cao về trữ lượng và chất lượng
trong tương lai thông qua các giải pháp về trồng rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn và các
giải pháp ngăn chặn ô nhiễm do phát triển của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, khai
khoáng, phát triển đô thị cũng như các tác nhân khác làm phá huỷ nguồn nước [61].
1.3.2.3. Tài nguyên khoáng sản
Bát Xát nằm trong vùng sinh khoáng của Việt Nam, qua điều tra, tìm kiếm và
thăm dò địa chất đã phát hiện được nhiều điểm mỏ trên địa bàn huyện:
- Quặng đồng: Mỏ đồng Sin Quyền, kéo dài 60 km từ suối Lũng Pô tới thành
phố Lào Cai.
- Quặng sắt: Có 16 điểm kéo dài từ xã Bản Vược đến xã A Mú Sung dọc bờ
phải sông Hồng
Nguyễn Thị Vân Anh



16

- Quặng Apatit: Kéo dài từ xã Nậm Chạc đến thành phố Lào Cai.
- Molybden: Có 02 điểm trên địa bàn thôn Vĩ Kẽm (Cốc Mỳ) và thôn Kin
TChang Hồ (xã Pa Cheo).
- Trên địa bàn huyện có một số mỏ sét xi măng, sét gạch ngói, khai thác
Dolomit ở Cốc San... trữ lượng lớn, chất lượng tốt phục vụ công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng.
- Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có một số mỏ khoáng sản như: điểm mỏ
Graphit, kao lanh ở xã Trịnh Tường; vàng sa khoáng ở xã Tòong Sành...
Nhìn chung huyện Bát Xát có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, quý
hiếm với trữ lượng khá lớn. Nguồn tài nguyên khoáng sản này tạo ra sức hút đối với
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này... Tuy nhiên, sự phát triển
ngành công nghiệp khai khoáng đòi hỏi quỹ đất khá lớn để khai thác đây là nguyên
nhân chính sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môi trường, trong khi Bát Xát
còn có tiềm năng về phát triển du lịch, điều này đặt ra cho huyện cần có những định
hướng hợp lý, nhất là định hướng sử dụng đất nhằm giảm thiểu tác động của công
nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản đến sự phát triển của nông nghiệp, du lịch và
môi trường sinh thái [61].
1.3.3. Kinh tế xã hội
Huyện Bát Xát bao gồm 22 xã và 1 thị trấn, với nhiều dân tộc thiểu số, với 98
km đường biên giới. Dân số huyện 15.311 hộ với 74.138 nhân khẩu, tổng số lao động
40.590 người, 14 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có 3 dân tộc chiếm da số là
Mông, Dao, Dáy. Mỗi dân tộc đều có phong tục và tập quán riêng như người H’Mông,
người Hà Nhì có truyền thống làm ruộng bậc thang, người Dáy trồng bông dệt vải,
người Dao làm giấy [63].
Trước đây các xã trong huyện Bát Xát việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh
cho nguời dân còn rất hạn chế và khó khăn. Mặt khác với cuộc sống trong rừng- nơi có
nhiều loài cây có ích phong phú và đa dạng, người dân địa phương đã tự tìm hiểu và

tìm ra được rất nhiều loài cây rừng có tác dụng ăn, chữa được nhiều bệnh, xây nhà,

Nguyễn Thị Vân Anh


17

thuốc nhuộm và đặc biệt là nguồn thức ăn cho chăn nuôi. Những kinh nghiệm và tri
thức sử dụng đó đươc lưu giữ và truyền từ đời này sang đời khác.
Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao năm 2013 cán bộ và nhân dân các
dân tộc huyện Bát Xát đã đạt được kết quả trong năm 2013 như sau:
Tổng sản lượng lương thực có hạt 37.966 tấn, trong đó thóc 22.928 tấn, ngô
15.038 tấn
- Cây lúa: Lúa xuân diện tích 1.134,4 ha, năng suất đạt 56,91 tạ/ha; lúa mùa với
diện tích là 3.534,96 ha, năng suất đạt 46,05 tạ/ha
- Cây công nghiệp: Đậu tương 421,11 ha, cây thuốc lá 13,74 ha.
- Cây ăn quả: chuối 455,33 ha, cây lê tainung trồng mới 30 ha, dứa 71,43 ha
- Ngoài ra còn có một số cây trồng khác như sắn 752,2 ha, đao riềng 120,7 ha,
xuyên khung 54 ha, thảo quả 1.906,3 ha [42].
Theo kết quả thống kê đến nay trên địa bàn huyện Bát Xát, tổng dàn gia súc đến
01/10/2012 gồm: đàn Trâu, bò, lợn, gia cầmlần lượt có 19.887 con, 1.402 con, 72.319
con, 278.885 con [42].
Không chỉ chăn nuôi gia súc gia cầm, địa bàn huyện phát triển cả về thủy sản.
Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản là 260,6 ha, đang cho triển khai thí điểm 1,88 ha
diện tích nuôi cá nước lạnh tại Ý Tý và Dền Sáng. Năng suất thủy sản trung bình năm
2012 là 20,22 tạ/ha, sản lượng đạt 537,88 tấn. Trong đó nuôi thâm canh đạt 96,1
tạ/năm, sản lượng đạt 140 tấn; nuôi bán thâm canh 28,5 tạ/ha, sản lượng đạt 254,17 tấn
(cá, ếch); nuôi quảng canh 11,5 tạ/ha, sản lượng đạt 143,63 tấn [42].
1.3.4. Vài nét về dân tộc H’Mông
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở, người H’Mông ở Việt Nam có dân số

1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, sinh
sống ở các vùng Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hòa Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Các vùng này thường ở những sườn núi, thung lũng có
độ cao 800-1.500m so với mặt biển, địa hình hiểm trở, nhiệt độ trung bình từ 15-20 độ
C, lượng mưa 2.000-3.000mm, có nơi chỉ có 700mm [43, 62].

Nguyễn Thị Vân Anh


18

H’Mông là tên tự gọi, tổ tiên sớm biết nghề trồng lúa, có nguồn gốc chung với
người Dao, đến Thế kỷ VII- IX mới tách riêng thành hai cộng đồng người Dao và
người H’Mông. Đồng bào ăn ngày hai bữa, vào ngày mùa ăn ba bữa. Thức ăn chính là
cơm hay bột ngô đồ. Hàng năm đồng bào ăn hai tết lớn là tết 5-5 và tết năm mới vào
đầu tháng 12 dương lịch [43].
Trang phục truyền thống của phụ nữ khá độc đáo và nhiều hình vẽ, gồm váy, áo
cánh, áo xẻ ngực, có yếm lửng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp… phụ nữ và đàn ông
H’Mông ở Sa Pa còn mặc áo khoác ngoài không có tay, cổ đứng trang trí hoa văn [43].
1.3.5. Vài nét về dân tộc Dao
Người Dao ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Do sự đàn áp tàn khốc
của phong kiến Hán, Ngô… do chiến tranh liên miên, hạn hán, mất mùa liên tiếp nhiều
năm… Tổ tiên người Dao phải di cư dần về miền núi phía nam và một bộ phận nhỏ đã
nhập cư vào Việt Nam.
Người Dao ở nước ta có khoảng 470.000 người [62], sống xen kẽ với nhiều dân
tộc khác. Phạm vi cư trú của người Dao rất rộng, dải khắp các miền rừng núi, dọc theo
biên giới Việt – Trung, Việt Lào cho tới một số tỉnh trung du và ven biển Bắc Bộ. Trên
cả ba vùng: vùng cao, vùng giữa và vùng thấp, đều có người Dao cư trú:
- Vùng cao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kan, Thái Nguyên, Hà
Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Quảng Ninh và vùng cao Tây Bắc là nơi sinh sống của

nhiều người Dao Đỏ, một bộ phận Dao Tiền và một số ít Dao Làn Tiền.
- Vùng thượng du Bắc bộ và Trung bộ là địa Bàn sinh sống chủ yếu của Dao
Quần Chẹt, Giao Lô Giang, Giao Tiền và Dao Thanh Y.
- Vùng chuyển tiếp giữa vùng núi và đồng bằng, trước đây vùng này hầu như
chỉ có nhóm Dao Quần Trắng, nhưng nay có thêm một số nhóm như Dao Quần chẹt,
Dao Tiền, Dao Làn Tiền.
Trải qua quá trình phát triển lịch sử của mình trên đất nước Việt Nam, các
Nhóm Dao vẫn còn đậm nét những yếu tố văn hóa địa phương.

Nguyễn Thị Vân Anh


×