LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi, các quốc gia
dần chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế có nhiều vấn đề bất cập xảy ra. Một trong những vấn đề luôn
song hành với nền kinh tế đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ là lạm
phát. Lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối
quan tâm lớn nhất của các nhà chính trị và của cả dân chúng. Lạm phát được
coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể
đạt được kết quả khả quan nhất. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt là giới lao động,chống lạm phát không chỉ là việc của
doanh nghiệp, của một cá nhân mà còn là nhiệm vụ của chính phủ.
Ở Việt Nam,hiện nay về việc kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát triển
ổn định của nền kinhtế là một mục tiêu quan trọng trong việc phát triển kinh
tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Do đó xuất phát từ tính cấp thiết của việc nghiên cứu lạm phát, đã có
nhiều nhà kinh tế học, nhà quản lý đưa ra những giải pháp nhất định. Bài luận
sau đây sẽ cho chúng ta cái nhìn khái quát nhất về “ vấn đề lạm phát, thực
trạng và giải pháp ở Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất
hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng,
nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá còn tồn tại
những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát
và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều người. Do đó lạm phát
được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiêm cứu của các nhà kinh
tế. Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương
hướng nghiên cứu của mình.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền
giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các
đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do
Nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì
giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng :”lạm phát xảy ra khi mức chung
của giá cả và chi phí tăng –giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương,
giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng “.Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu
thị sự tăng lên của giá cả” .
Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tiền giấy mất giá kéo dài và liên tục so
với hàng hóa, vàng và ngoại tệ. Hay lạm phát là hiện tượng thừa tiền trong
lưu thông, làm cho đồng tiền bị giảm giá trị so với tất cả các loại hàng hóa,
vàng và ngoại tệ, và được đo lường bằng chỉ số giá tổng quát ngày càng
tăng.
2. Các phương pháp đo lường lạm phát
2.1. Phương pháp chỉ số giá tiêu dùng(CPI)
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát .
CPI đo lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho
tiêu dùng của các hộ gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được
tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã
được chọn theo quy định:
2.2.
Phương pháp chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá
chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều
chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá
bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở.
3. Phân loại lạm phát
Khi tốc độ tăng giá lớn hơn tốc độ tăng tiền nghĩa là tiền tăng thêm ít mà
giá cả tăng lên thì nhiều. Trong trường hợp này, lạm phát không còn là hiện
tượng của tiền tệ nữa mà là tình trạng nguy hiểm, bi đát của nền kinh tế tài
chính.
Có nhiều cách để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau
sẽ có các loại lạm phát khác nhau.
a) Căn cứ vào định lượng gồm:
- Lạm phát vừa phải(Reasonable Inflation) :Còn gọi là lạm phát một con
số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả
biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình
thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện :
Giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua
bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn. Có thể nói đây là mức lạm phát mà
nền kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là không đáng kể. Mặt
khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ
vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu ổn định,
ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
- Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với
tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các tác động
tiêu cực không đán kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi
tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh
chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này
người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay
tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh
đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên
với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa
lạmphát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ
tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thục tế của
người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không
còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin
doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát
làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên
siêu lạm phát rất ít xảy ra.
b) Căn cứ vào định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng.
* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người
lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao
động và dến nền kinh tế nói chung.
*L ạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
- Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có
thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý,
người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do
đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất
hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa
kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền
kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác
nhau : lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một
năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên
50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một
năm. Trường hợp điển hình của siêu lạm phát là Hungari năm 1946: tháng
lạm phát cao nhất là 13.600.000.000%, giá tăng gấp đôi sau mỗi: 15,6 giờ;
Zimbabwe tháng 11/2008 tháng lạm phát cao nhất 79.600.000.000%, gia tăng
gấp đôi sau mỗi 24,7 giờ.
4. Nguyên nhân lạm phát
a. Lạm phát do cầu kéo:
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung –cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng
hoặc tăng không kịp.Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến việc tăng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên
nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu
cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng
hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất
không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy
từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kéo xuất hiện)
Nguyên nhân của lạm phát cầu kéo là do:
-
Sự tăng lên bất thường của chi tiêu của Chính phủ (Tổng cầu tăng trực tiếp
thông qua các khoản đầu tư thuộc lĩnh vực Chính phủ quản lý hoặc có thể
gián tiếp thông qua các khoản chi phúc lợi xã hội tăng và kết quả là giá cả
hàng hóa tăng lên. Khi nhu cầu Chính phủ tăng lên dẫn đến bội chi thì việc
phát hành tiền và đi vay từ các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt rất
-
dễ gây ra lạm phát cao, kéo dài).
Nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp(: xuất phát từ việc dự đoán về triển vọng
phát triển kinh tế, khả năng mở rộng thị trường, do lãi suất đầu tư giảm, điều
-
kiện vay vốn đầu tư dễ dàng hơn…
Nhu cầu chi tiêu của hộ gia đình(do mức thu nhập thực tế tăng lên, lãi suất
giảm, do điều kiện vay tiêu dùng thuận lợi… thúc đẩy AD dịch phải => tạo áp
-
lực lên lạm phát.)
Do chính sách tiền tệ mở rộng: Thuế giảm dẫn đến thu nhập của dân chúng
tăng, kích thích tiêu dùng. Cung tiền tăng làm cho lãi suất thực giảm, kích
-
thích đầu tư và xuất khẩu ròng, tăng cầu.
Nhu cầu chi tiêu của các yếu tố nước ngoài: : Các yếu tố như tỷ giá, giá cả
hàng hóa nước ngòa so với trong nước và thu nhập bình quân của thị trường
nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu hàng hóa nhập khẩu
và do đó ảnh hưởng đến tổng cầu cũng như mức giá chung nội địa.
AD2
Giá P
AD1
AS
E1
P2
E
P1
Y1
Y2
Lạm phát cầu kéo
Khi xảy ra những trường hợp trong nguyên nhân nêu trên trong trường
hợp đường cung AS không thay đổi, thì làm cho đường cầu AD1 dịch chuyển
lên AD2. Từ đó làm tăng sản lượng Y1 -> Y2, đồng thời thay đổi điểm cân
bằng dịch chuyển từ E đến E1. Làm cho giá cả tăng lên, từ P1-> P2.
b. Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm
thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ". Hình thức của lạm phát này
phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang
người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế
khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do:
-
Mức tăng tiền lương tiền lương vượt quá mức tăng của năng suất lao động (thị
trường lao động khan hiếm, yêu cầu tăng lương của công đoàn, lạm phát dự
-
tính tăng).
Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hóa
-
tăng lên.
Do giá cả nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên.
Tăng thuế và các nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước
AD
AS1
Giá P
B
AS2
P1
A
P2
Y2
Y1
Lạm phát chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất tăng cao làm cho đường cung thu hẹp, dịch chuyển
từ AD1 đến AD2, qua đó làm dịch chuyển điểm cân bằng từ A -> B, đồng thời
làm sản lượng giảm sút, giá tăng lên từ P1->P2. Hiện tượng lạm phát chi phí
đẩy là còn gọi là hiện tượng đình lạm.
c. Các loại lạm phát khác
Ngoài lạm phát do cầu kéo và do chi phí đẩy, lạm phát còn có thể xuất
hiện do những nguyên nhân khác nhau: tình trạng kéo dài của thiên tai địch
họa, sự biến động tiêu cực của tỷ giá hối đoái, sự khủng hoảng kéo dài của cơ
cấu kinh tế xã hội.
5. Tác động của lạm phát
Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự
mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra
những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận
thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá.
Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông.
Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực
sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu
thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa
mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống
ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt
nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự
mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống
ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn
chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì
chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá.
Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của
giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu
vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho
phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ
đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã
hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
Đối với phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại
khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra,
những ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các
loại tài sản nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống.
Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những
người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn
giản là lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi
suất thực là 3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy
nhiên, một sự điều chỉnh cho lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực
hiện được trong điều lạm phát ở mức độ thấp.
II.
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990
Bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng
Sau Đại hội Đảng lần VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989.Tuy nhiên,nền kinh tế nước ta
vẫn đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội : kinh tế phát triển
chậm không ổn định;tốc độ tăng trưởng bình quân thời kì 1986-1990 của giá
trị sản xuất nông nghiệp là 3,5%, công nghiệp là 6,2% và tốc độ tăng trưởng
kinh tế đạt 3,9%,trong khi dân số tăng 2,3%.
Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng: thâm hụt
ngân sách ở mức 8% so với GDP, kim nghạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp
và chỉ bằng 54% kim nghạch nhập khẩu (1986 kim nghạch xuất khẩu đạt 499
triệu USD và năm 1990 đạt 1734 triệu USD. Lạm phát phi mã tuy đã được
đẩy lùi nhưng vẫn còn rất cao(từ 487,2%năm 1986 còn 67,1% năm 1990).
2. Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định(1991-1995)
Bước sang giai đoạn 1991-1995, tình hình kinh tế –xã hội nước ta có
nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn
diện, nền kinh tế đã bắt đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định.
Tổng sản phẩm trong nước thời kì 1991-1995 tăng bình quân 8,2% (năm 1991
tăng 6%,1992 tăng 8,6%,1993 tăng 8,1%,1994 tăng 8,8% và 1995 tăng 9,5%),
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,2%. Giá trị sản xuất
công nghiệp tăng bình quân khoảng 13%/ năm vượt qua nhiều thử thách gay
gắt của thị trường, thích nghi dần với cơ chế mới. Các ngành dịch vụ phát
triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống của
nhân dân. Lưu thông vật tư hàng hoá và dịch vụ phát triển phong phú, đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về số lượng, chất lượng và chủng loại
đã góp phần tạo nên những biến động sâu sắc trên thị trường trong nước.
Tuy nhiên thành công lớn nhất trong giai đoạn 1991-1995 là bước đầu
chặn được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm 1990 xuống
12,7% năm 1995 (năm 1991 tỉ lệ lạm phát là 67,5% , năm 1992 là 17,5%,
năm 1993 là 5,2%, năm 1994 là 19,4%, năm 1995 là 12,7%).
Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng vẫn ở mức hai con số, nhưng đây là một chỉ
số rất nhỏ bé so với các năm trước đó, tình hình kinh tế-xã hội đã có nhiều
khởi sắc và đang càng ngày đi vào thế ổn định và phát triển, đời sống nhân
dân đã được cải thiện một bước. Do vậy, giai đoạn này, tình hình chính trị xã
hội đã có nhiều hứng khởi, lòng dân được khích lệ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước hơn.
3. Thời kỳ kinh tế có nhiều dấu hiệu trì trệ(1996- 2000)
Bước sang giai đoạn này, tình hình kinh tế –xã hội đã đi vào thế ổn định
và phát triển. Đây là giai đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thời
kỳ phát triển mới-đẩy mạnhcông nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.trên cơ sở
kế thừa những thành quả đã đạt được trong giai đoạn trước giai đoạn 19962000, kinh tế nước ta đã bảo đảm duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế
khá ,GDP bình quân tăng 7%/năm,giá trị sản xuất nông,lâm,ngư nghiệp tăng
5,8%/năm,giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm,giá trị các nghành
dịch vụ tăng 6,8%/năm,GDP bình quân đầu người người năm 2000 tăng gấp
1,8 lần năm 1990.
Trong giai đoạn này, điều đặc biệt làm chúng ta quan tâm là đi cùng với
tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỷ lệ
lạm phát được kiểm soát, giảm xuống mức thấp đáng kể và chuyển sang xu
thế thiểu phát. Điều này được thể hiện ở chỗ tỷ lệ lạm phát năm 1995 là
12,7%, năm 1996 là 4,5%,1997 là 3,6%,1998 là 9%, 1999 là 0,1%) thì năm
2000 là một số âm (-0,6%)
Vào các năm cuối của giai đoạn 1996-2000,tình hình lạm phát có thay
đổi,tỷ lệ lạm phát ở mức thấp như không thể thấp hơn được nữa và nguy cơ
thiểu phát đã xuất hịên. Đi cùng với chỉ số giá ở mức 0,1% năm 1999 và (0,6%) năm 2000 là sản xuất trì trệ, các hoạt động kinh doanh có nhiều dấu hiệu
đình đốn.Chúng ta đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát bảo đảm lạm
phát từ 3 con số xuống còn 2 con số và giữ nguyên ở mức 1 con số. Nhưng
kiềm chế được lạm phát thì lại phát sinh vấn đề thiểu phát và từ thiểu phát tốc
độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm xuống. Một vấn đề mới đặt ra cho sự phát
triển kinh tế nước ta đó là vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
4. Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới (2001-2007)
Với những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn 2001-2005,
chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát, kích cầu nhằm tỷ lệ
lạm phát lên một mức hợp lí và nhằm đạt được tộc độ tăng trưởng kinh tế cao
hơn. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh , bền vững và ổn định,trong bốn
năm vừa qua 2001-2005, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả
quan:năm 2000 chặn đứng đà giảm sút của tốc độ tăng trưởng GDP, năm 2001
tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện, bắt đầu tăng và đạt 6,89%,năm 2002
tốc độ này đạt 7,04%, năm 2003 tăng 7,24% và năm 2004 tăng 7,62%. Cùng
với tốc độ tăng trưởng nhanh trở lại thì tỷ lệ lạm phát trong các năm trong giai
đoạn này cũng tăng dần lên từ năm 2000( -0.6%) ,năm 2001 là 0,8%, 2002 là
4%, năm 2003 là 3%, năm 2004 9.5%. Năm 2004 tỷ lệ lạm phát xấp xỉ 2 con
số, buộc NHNN phải điều chỉnh thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách cho lãi
suất tăng chút ít và giữ ổn định tỷ giá. Tuy nhiên việc quản lý cứng nhắc tỷ giá
hối đoái kéo dài đến cuối năm 2008 đã không giúp kéo dài thành công ổn định
lạm phát như giai đoạn 2001-2003, mà làm cho tỷ lệ lạm phát sau khi giảm nhẹ
năm 2005 là 8.4%, năm 2006 là 6.6% đã tăng mạnh trở lại 12.36% năm 2007
và đỉnh điểm là năm 2008 tỷ lệ lạm phát tăng cao lên tới 24.4%,
5. Thời kì nền kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu đến nay (2008- nay)
Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bùng nổ, bắt đầu ở Mỹ và
lan rộng khắp thế giới. Đến nay, cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục ảnh hưởng
lớn đến tất cả các nền kinh tế trên thê giới.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng kinh tếthếgiới 2008-2009 đã góp phần làm
giảm lạm phát ở Việt Nam từ cuối năm 2009. Giá quốc tế giảm cùng với tổng
cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát
trong năm 2008. Cụ thể tỷ lệ lạm phát năm 2009 là 7%
Tuy nhiên do một số thay đổi trong chính sách kinh tế, việc tăng giá một
số hàng hóa đầu vào( điện) hay việc phá giá đồng so với USD trong năm 2010
và biến động của thị trường vàng trong nước và quốc tế làm cho tỷ lệ lạm phát
tăng cao trở lại( 2010-11,75%).
Bước sang năm 2011, đà phục hồi của nền kinh tế trong năm 2010 bị
gián đoạn. Tăng trưởng GDP của năm 2011 là 5,89%, thấp hơn mức 6,78%
của năm 2010, trong khi tỷ lệ lạm phát tăng cao lên tới 18,13%. Nguyên nhân
của tình trạng lạm phát cao trong năm 2011 về cơ bản là do tiền tệ đã được
nới lỏng trong một thời gian dài. Bên cạnh đó, tính thiếu tính nhất quán của
chính sách tiền tệ đã phần nào tác động tiêu cực đến tâm lý của người dân về
lạm phát Đồng thời, giá của những loại hàng hóa quan trọng như xăng dầu,
điện, than… bị kìm giữ quá lâu, làm thu hẹp không gian chính sách, đến khi
buộc phải thực hiện xóa bỏ bao cấp thì lại thực hiện dồn dập vào một thời
điểm gây hiệu ứng tâm lý, làm giảm hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm.
Đến năm 2012 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giảm mạnh chỉ còn 6.81%, tốc
độ tăng trưởng kinh tế 5.03%, do những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu đang
tìm lối thoát khỏi cuộc khủng hoảng, cùng với những dấu hiệu ảm đạm của nền
kinh tế làm cho nhu cầu vốn không cao, đồng thời lãi xuất được điều chỉnh
giảm xuống làm cho tâm lý tiết kiệm gửi tiền giảm, người dân tiêu dùng nhiều
hơn, tiền cung của chính phủ giảm, do đó tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm.
6. Nguyên nhân của lạm phát ở nước ta
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung,
phần này ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.
Thứ nhất : Lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan
liêu bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các nghành
có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến
sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế
kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những nguyên nhân dẫn
đến lạm phát phi mã.
Thứ hai : Do sự điều hành sai lầm của bộ máynhà nước, như xác định cơ
cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính
sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà
nước, chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không
muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng,
ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho
vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây dựng cơ
bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân bằng cung
cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất
hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng,
thép, xăng dầu và ngoại tệ.
Thứ ba : Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các
doanh nghiệp. những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà
nước. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải
bù lỗ, bù giá qua lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân sách.
Thứ tư : Môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở
mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài qua
sức chịu đựng của nền kinh té trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn.
Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách
nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.
Thứ năm : Nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu
bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế.
Các quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong
khu vực, tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, chao đảo hệ thống tài
chính Mỹ, Châu Âu cũng tác động không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam.
III. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA
Khi lạm phát xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì chính phủ các nước
phải tìm cách để chống lại lạm phát, khôi phục sức mua của đồng tiền. nói
như vậy có nghĩa là việc thực hiện các biện pháp ổn định tền tệ và kiềm chế
lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong quá trình phát
triển kinh tế của mỗi nước.
Ổn định tiền tệ nói chung và kền chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước
áp dụng các biện pháp về kinh tế tài chính, kĩ thuật để ổn định sức mua của
đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong thời kì các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị
vàng, ổn định tiền tệ là áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình
thường giữa tiền giấy so với vàng.
Với mục tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như:
- Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán
- Biện pháp khôi phục
- Biện pháp phá giá tiền tệ
Trong thời đại hiện nay trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở
của lưu thông tiền tệ, không còn là cơ sở trực tiếp cho tiền giấy lưu thông
trong nước nữa thì các bieenh pháp ổn định và kiềm chế lạm phát đã có sự
thay dổi quan trọng. Ổn định tiền tệ ngày nay là ổn định sức mua của tiền giấy
trên cơ sở ngăn chặn sự leo thang của giá cả hàng hóa bằng cách giải quyết
các vấn đề của mối quan hệ tiền và hàng. Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì
đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không có chính sách
tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục
tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn đinh giá cả, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm….
1. Các giải pháp vĩ mô.
a. Chính sách tiền tệ tín dụng.
Trong lĩnh vực tiền tệ,tín dụng cần xử lí hợp lí các vấn đề sau :Nhu cầu
về vốn để phát triển kinh tế cao,khả năng đáp ứng vốn và kiềm chế lạm phát ở
mức hợp lí với ổn định đồng tiền:
Hàng năm hệ thống ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế một lượng vốn
khoảng vài chục đến vài trăm nghìn tỷ đồng để đầư phát triển. Thực tế nhu
cầu tăng tín dụng rất cấp bách với việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn vàchất lượng tín dụng.Tình hình cạnh tranh gay gắt của các doanh
nghiệp ở khu vực và thế giới với sự khó khăn bên trong nền kinh tế nước ta,
việc đòi hỏi tiếp tục giảm lãi suất “đầu vào” của các doanh nghiệp là đặc biệt
chính đáng và những diễn biến lãi suất thị trường để có thể huy động vốn cho
vay nền kinh tế lại là vấn đề nan giải.Vốn vay tăng nhanh và vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đang có dấu hiệu tăng không nhiều, công với việc ổn định
tỷ giá theo hương khuyến khích xuất khẩu và đẩy mạnh sản xuất trong nước là
vấn đề đau đầu của nhiều nhà kinh tế
Để xử lý tốt các vấn đề nêu trên, cần tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ
thận trọng hợp lý, song phải điều chỉnh kịp thời ,linh hoạt theo tín hiệu thị
trường để góp phần kiềm chế lạm phát khi giá cả tăng lên hoặc chống lại tình
trạng giảm phát khi giá giảm xuống liên tục. Các công cụ lãi suất tỷ giá, hạn
mức tín dụng, dự trữ bắt buộc ..phải được sử dụng hết sức nhạy bén phù hợp
với diễn biến cung cầu hàng hoá và giá cả thị trường.
Cần khống chế mức tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lí từ
đó tính toán tổng lượng tiền cung ứng của ngân hàng trung ương hàng năm sẽ
tăng tương ứng so với năm trước đó.
Bên cạnh khống chế dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ở mức vừa
phải,bảo đảm sử dụng đồng vốn có hiệu quả , thì nâng cao chất lượng tín dụng
và thu hồi được nợ ,trong đó tín dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh tăng
hợp lý , đẩy mạnh tăng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh.
Phấn đấu nguồn vốn huy động tăng nhanh ngày một đáp ứng đủ nhu cầu
vốn trong nước đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Tuy vậy ,
cần đẩy mạnh việc phát hành tín phiếu,trái phiếu kho bạc , trái phiếu công ty
của Bộ Tài chính và các doanh nghiệp,Ngân hàng nhà nước cần chuẩn bị tốt
công tác phát hành tín phiếu ngân hàng để bán ra thị trường thu hút tiền dư
thừa trong lưu thông khi có dấu hiệu lạm phát gia tăng.
Bảo đảm viẹc mua bán ngoại tệ được thực hiện bình thường,ổn định ở
các tổ chức tín dụng ,Ngân hàng nhà nước chỉ mua ngoại tệ trong trường hợp
cần thiết để thực hiện chính sách quản lý ngoại hối, mua ngoại tệ để tăng dự
trữ ngoại hối,trước hết dùng quỹ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng nhà nước
để mua bán là chính. Tỷ giá phải được điều hành theo cung cầu và diễn biến
của thị trường ở mức hợp lý bảo đảm khuyến khích phát tri ển sản xuất,xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định tiền tệ,không gây biến động trong đời
sống kinh tế xã hội,góp phần làm lành mạnh cán cân thanh toán.
Mức tái cấp vốn tối đa không vượt quá mức cung ứng dành cho mục tiêu
cung ứng phương tiên thanh toán trong năm. Thực hiện tái cấp vốn ở mức
hợp lý ,mức lãi suất cần được thực hiện theo hướng nâng cao hiệu quả tín
dụng và làm cơ sở điều hành lãi suất thị trường .
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như huy động tiền
gửi từ các tổ chứckinh tế, huy động tiền gửi tiết kiệm với các thời hạn 3,6,9
tháng. Tập trung huy động vốn trung và dài hạn dưới nhiều hình thức:phát
hành trái phiếu,tiết kiệm xây dựng nhà ở,nhận vốn uỷ thác đầu tư chiều sâu .
Các Ngân hàng thương mại phải tính toán lên phương án huy động vốn tập
trung và dài hạn.
Lãi suất cần được điều hành một cách linh hoạt, theo sát cung cầu vốn phục
vụ phát triển và tăng trưởng kinh tế,bảo đảm đáp ứng yêu cầu huy động vốn và
kiềm chế lạm phát. Trong tình hình hiện nay trên nghiên cứu giải pháp nâng lãi
suất hợp lý (lãi suất dương bằng 20% tỷ lệ lạm phát)để một mặt kiềm chế lạm
phát mặt khác khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất.
b.
Chính sách tài khoá
Kiên quyết giữ vững mức bội chi ngân sách nhà nước ở mức hợp lý so
với GDP trên cơ sở phấn đấu tăng thu,tiết kiệm chi và hiệu quả,quản lý chặt
chẽ các khoản chi, chống tham nhũng một cách quyết liệt.
Tăng tỉ lệ thu ngân sách nhà nước bằng các biện pháp khai thác các
nguồn thu, tích cực chống thất thu. Triệt để thực hiện tốt các pháp lệnh về
thực hành tiết kiệm chống lãng phí thường xuyên,cắt bỏ những khoản chi
chưa thật cần thiết . Chính sách tài khoá cũng đặc biệt quan trọng đối với ổn
định và phát triển kinh tế. Khống chế thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức
thấp như trên đã nêu. Việc tăng giá tác động đến người nghèo nhiều hơn và
những nhóm người có thu nhập thấp còn có thể mất nhiều do thuế lạm phát
hơn là cái mà họ được do có nhiều cơ hội việc làm mới. Tài trợ cho thâm hụt
ngân sách Nhà nước gia tăng phải tránh không gây thêm tác động đến tỷ lệ
lãi suất trong nước và giảm thiểu các chi phí đi vay. Trước mắt phải huy động
tối đa nguồn lực trong nước. Nâng cao tính hiệu quả của chi tiêu công cộng
phải đi cùng với bù đắp thâm hụt gia tăng.
c.
Các giải pháp thương mại
Trước hết là bảo đảm cung ứng hàng hoá đáp ứng đủ nhu cầu của thị
trường , tức là bảo đảm tổng cung hàng hoá cân bằng với tổng cầu hàng hoá.
Việc điều hành xuất nhập khẩu phải đảm bảo tốc độ phát triển xuất khẩu tăng
nhanh hơn tốc độ nhập khẩu, giữ mức nhập siêu hàng năm ngày một giảm
nhằm lành mạnh hoá cán cân thương mại.
Biện pháp chủ yếu để tăng cung ứng hàng hoá là thúc đẩy sản xuất hàng
hoá trong nước, nâng cao chất lương hàng hoá để tăng giá trị và tăng nhanh
sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu, hàngtiêu dùng cao cấp, hàng
lắp ráp như ô tô,xe máy ,điện tử, đẩy nhanh sản xuất các loại vật liệu xây
dựng, trang thiết bị nội thất cao cấp …Đồng thời đảm bảo điều hành thị
trường hàng hoá ở các vùng trong cả nước,xử lí tốt mối quan hệ nội tiêu và
ngoại tiêu,giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu trong từng thời
điểm, tránh gây ứ đọng cũng như thiếu hàng cục bộ, đặc biệt là đối với các
vùng xa xôi hẻo lánh, miền núi..trước hết là đối với các mặt hàng thiết yếu.
Tăng cường dự trữ quốc gia., và dự trữ lưu thông để có đủ khả năng can thiệp
vào thị trường, bình ổn giá cả trong mọi lúc,mọi nơi khi có biến động giá cả
trên thị trường .
Hoạt động xuất khẩu cho đến nay đã có nhiều tiến bộ nhưng không thể
nói là không có khó khăn. Vì vậy để tăng xuất khẩu cần chuyển hướng xuất
khẩu,trước hết là xuất khẩu ra các thị trường mới và tìm kiếm những nhu cầu
mới nảy sinh trong thời gian gần đây. Đẩy mạnh xuất khẩu,đặc biệt xuất khẩu
sang các thị trường mới là vô cùng quan trọng.
d.
Các giải pháp khác :
Tiếp theo là các giải pháp trên đòi hỏi phải có các giải pháp huy động
triệt để cơ sở vật chất và lao động hiện có,huy động thêm nguồn vốn, tăng
nhanh khả năng đầu tư,tăng tiêu dùng hợp lý hàng hoá và dịch vụ của các tầng
lớp đân cư. Cụ thể những chủ trương lớn trên là:Giải phóng và nâng cao hiệu
quả các nhân tố sản xuất;Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, làm cho đất đai có
giá trị thực sự, phải hạch toán đầy đủ chi phí sử dụng đất vào chi phí sản xuất
kinh doanh,đảm bảo đất là một trong những nhân tố trong phát tri ển kinh
tế;tạo công ăn việc làm ,nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ và năng lực của
người lao động ;nâng cao công suất sử dụng kết cấu cơ sở hạ tầng và hiệu quả
sử dụng các năng lực sản xuất hiện có;Bảo vệ ,phát triển và khai thác có hiệu
quả tài nguyên rừng biển;Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lực sản xuất của
các doanh nghiệp;Mở rộng thị trường,nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thúc đẩy hội nhập quốc tế;Thúc đẩy phát triển đồng bộ hệ
thống thị trường và tăng cường hiệu lực các công cụ chính sách kinh tế vĩ
mô;Đẩy mạnh thu hút tối đa các nguồn lực bên ngoài ; Thực hiện tốt cải cách
hành chính.
2.
Các giải pháp vi mô
Trước hết là phải nâng cao sản lượng hàng hoá trong các doanh nghiệp
trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất công,nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương
thực,thực phẩm,một số hàng hoá là tư liệu sản xuất (xi măng,phân bón ,sắt
thép )và các loại hàng hoá là nhiên liệu,năng lượng(xăng dầu,điện)
Mặt khác ,các doanh nghiệp phải khai thác triệt để các tiềm năng vốn sẵn
có trong nội bộ nền kinh tế để đẩy mạnh phát triển sản xuất;giảm chi phí sản
xuất và chi phí lưu thông, chống mọi biểu hiện đầu cơ gây khan hiếm giả tạo
nhưng loại hàng hoá thiết yếu của xã hội triệt để tiết kiệm trong chi tiêu,tăng
nhanh nguồn vốn dự trữ quốc gia; đảm bảo các cân đối lớn nhằm đạt tốc độ
tăng trưởng GDP theo dự kiến;sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhằm nâng
cao năng suất lao động, chống thất thoát vốn và tài sản Nhà nước. Lưu thông
hàng hoá cần phải thông suốt, chống khan hiếm giả tạo, quản lý thị trường
phải gắn với đặc điểm thị hiếu và tính thời vụ của mỗi vùng, mỗi miền,ngăn
chặn mọi “cơn sốt” hàng hoá giả tạo vì lí do chủ quan gây ra.
Đối với việc giảm thiểu ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực các cú sốc giá quốc
tế của các yếu tố đầu vào tới lạm phát trong nước,điều cần thiết trước tiên là
nên giảm mạnh mức thuế nhập khẩu(tới 0%) đánh vào các mặt hàng yếu tố
đầu vào có mức giá quốc tế tăng cao như sắt,thép,phân bón…,nhằm giảm bớt
sự gia tăng khuếch đại chi phí của các yếu tố đầu vào đối với sự gia tăng chỉ
số giá của nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng,lương thực và thực phẩm.Bên
cạnh đó phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất và quy
hoạch xây dựng thêm một số nhà máy lọc dầu khác nhằm góp phần gia tăng
tính tự chủ trong việc cung cấp xăng dầu,đáp ứng một phần nhu cầu thiết yếu
trong nước trước các cú sốc giá xăng dầu trên thế giới,tăng khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển dịch sang cơ chế thị trường.
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy,lạm phát là biểu hiện của vấn đề mất cân đối vĩ mô rất phức
tạp.Mỗi lần xuất hiện ở mỗi hoàn cảnh và điều kiện khác nhau thì khác nhau
nên cùng mang màu sắc muôn hình,muôn vẻ .Để nhận dạng đúng và bắt mạch
đúng nguyên nhân gây ra lạm phát là rất khó khăn.Có thể nói lạm phát mỗi
khi diễn ra đã hàm chứađủ các yếu tố như lạm phát cơ cấu, lạm phát tiền tệ,
lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
Để chống lạm phát không thể áp dụng đơn lẻ một giải pháp nào mà phải
có một hệ thống các nhóm giải pháp thì mới mong thành công.Các nhóm giải
pháp này phải đi từ đẩy mạnh sản xuất đến các giải pháp phát triển lưu thông
hàng hoá,các giải pháp chống đầu cơ lũng đoạn thị trường, các giải pháp đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ,tiếp đến là các giải pháp về ngân sách
nhà nước,chi tiêu phải có hiệu quả,đúng việc và tiết kiệm,không thể bội chi
ngân sách nhà nước quá cao và bù đắp thâm hụt không thể tự phát hành tiền.
Chúng ta chống lạm phát nhưng không quên nhiệm vụ đẩy nhanh phát
triển của nền kinh tế,bảo đảm nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao.Chống lạm phát đến một mức nào đó có thể làm cho tăng trưởng kinh tế
chậm lại. Nhưng để nền kinh tế không tụt hậu so với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới đòi hỏi phải đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là
nguyên tắc bất di bất dịch.
MỤC LỤC