Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đề cương tài liệu thi vấn đáp sử đại cương cho bậc đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.02 KB, 25 trang )

SOẠN BÀI LỊCH SỬ
1, Chiến thắng Bạch Đằng (938) do Ngô Quyền lãnh đạo đã diễn ra như thế
nào?
Hoàn cảnh
Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán- một trong 10 nước
thời Ngũ đại Thập quốc nằm liền kề với Tĩnh Hải quân - giành lại quyền tự chủ
cho người Việt ở Tĩnh Hải quân, tự xưng là Tiết độ sứ
Năm 937, Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi Tiết độ
sứ. Con rể và là một tướng khác của Đình Nghệ là Ngô Quyền bèn tập hợp lực
lượng ra đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ.
Kiều Công Tiễn sợ hãi, bèn sai người sang cầu cứu Nam Hán. Vua Nam Hán
là Lưu Nghiễm nhân cơ hội đó bèn quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai.[3]
Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn
tướng giỏi, bèn phong con trai thứ chín là Lưu Hoằng Tháo làm "Bình Hải tướng
quân" và "Giao Chỉ vương", thống lĩnh thủy quân.[3]
Diễn biến
Ngô Quyền bao vây và giết chết Kiều Công Tiễn
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt trong nước đứng về phía mình, Ngô Quyền
mang quân từ Ái châu ra bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập
không chống nổi, trông chờ viện binh của Nam Hán.
Trong khi vua Nam Hán đang điều quân thì Ngô Quyền đã tiến ra thành Đại La,
giết chết Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô thế không đủ sức chống lại nên
thành nhanh chóng bị hạ. Lúc đó quân Nam Hán vẫn chưa tiến vào tới biên giới.
Kế hoạch của quân Nam Hán
Vua Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo làm Tĩnh
Hải quân Tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem 2 vạn quân sang với danh
nghĩa là cứu Công Tiễn. Lưu Nghiễm hỏi kế ở Sùng Văn hầu là Tiêu Ích. Ích nói:

Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền



Vua Nam Hán đang muốn hành quân nhanh để đánh chiếm lại Tĩnh Hải quân,
nên không nghe theo kế của Tiêu Ích, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo
sông Bạch Đằng mà vào. Lưu Nghiễm tự mình làm tướng, đóng ở Hải Môn để
làm thanh viện.
Kế hoạch của Ngô Quyền
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng:[1]
Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi
mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất
vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá
được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước
thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn
đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo
nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không
cho chiếc nào ra thoát.

Ngô Quyền cho quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng.
Khi thuỷ triều lên, bãi cọc không bị lộ. Ngô Quyền dự định nhử quân địch vào
khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc
cạn mới giao chiến.
Thủy chiến trên sông Bạch Đằng
Vào một ngày cuối đông năm 938, trên sông Bạch Đằng, vùng cửa biển và hạ
lưu, cả một đoàn binh thuyền do Hoằng Tháo chỉ huy vừa vượt biển tiến vào
cửa ngõ Bạch Đằng.
Quân Nam Hán thấy quân của Ngô Quyền chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có
thể ăn tươi, nuốt sống liền hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền ra lệnh cho quân bỏ
chạy lên thượng lưu. Đợi đến khi thủy triều xuống, ông mới hạ lệnh cho quân sĩ
đổ ra đánh. Thuyền chiến lớn của Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm
thủng gần hết. Lúc đó Ngô Quyền mới tung quân ra tấn công dữ dội. Quân
Nam Hán thua chạy, còn Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ.



Kết quả
Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay
đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, đành "thương khóc
thu nhặt quân còn lại mà rút lui" Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là
Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay).
Di sản
Năm 1288, quân Đại Việt do Trần Hưng Đạo lãnh đạo giao chiến với quân
Nguyên trên sông Bạch Đằng. Trước đó, Trần Hưng đã cho đóng cọc và phủ cỏ
lên trên rồi cho quân khiêu chiến, giả vờ bỏ chạy. Quân Nguyên đuổi theo, quân
Đại Việt cố sức đánh lại. Nước triều rút xuống, thuyền quân Nguyên vướng cọc
và nghiêng đắm gần hết. Trận này quân Nguyên đại bại, bắt được tướng
Nguyên là Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc và 400 chiến thuyền.[4]
Điều kiện thành công
Chiến thuật quân sự của Ngô Quyền rất độc đáo và đúng như nhận định của .
Tuy nhiên, theo các nhà quân sự, việc áp dụng chiến thuật lấy cọc nhọn đâm
thuyền địch muốn thành công cần có sự kết hợp chặt chẽ với một số mưu mẹo
khác.


Thứ nhất, phải dụ địch đến đúng bãi cọc đã đóng giăng bẫy khi thuỷ triều
còn cao, bãi cọc chưa bị phát lộ.



Thứ hai, phải nắm rất vững quy luật thuỷ triều theo từng giờ và tính toán
thời điểm để khi thuyền quân địch tới bãi cọc rồi, thuỷ triều mới rút, có như
vậy thuyền địch mới bị mắc cạn và bị cọc đâm.

Chỉ khi có đủ hai điều kiện trên, mưu kế mới phát huy tác dụng

Ý nghĩa
Trận thắng lớn ở sông Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa quan trọng đối với Việt
Nam vì nó đã giúp chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, mở
ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt
Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu tranh
giành lại độc lập dân tộc.


Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là
một đế quốc lớn mạnh bậc nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng Đại
Hán đang lúc phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường.
Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng
năm 938 - trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên
quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long,
kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của các
nhà Lý, Trần, Lê.
2, Vài nét về triều Ngô – triều đại độc lập đầu tiên của dân tộc.
Nhà Ngô là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có
tới ba vị vua, kéo dài từ năm 939 đến năm 965.
Tranh chấp trong cung đình
Năm 944, Tiền Ngô Vương mất, sai Dương Tam Kha giúp lập thái tử. Dương
Tam Kha là anh (có sách nói là em) Dương Thái hậu cướp ngôi, tự xưng Dương
Bình Vương.
Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy về Nam Sách (Hải Dương).
Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền, làm con nuôi.
Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không thực hiện
được mệnh lệnh vì hào trưởng Nam Sách là Phạm Lệnh Công che chở cho
Xương Ngập.

Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô Xương
Văn thuyết phục được 2 tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẫn quân quay
lại lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Xương Văn không giết Dương
Tam Kha, giáng làm Chương Dương công.
Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa.
Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam
Sách trở về.


Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951-954). Lúc đó
cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Lên ngôi vương, Ngô
Xương Ngập lấn át quyền hành của Ngô Xương Văn khiến Xương Văn bất bình rút
lui việc chính sự[1].
Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh chết, chỉ còn
một vua Nam Tấn vương Ngô Xương Văn làm vua.
Loạn lạc
Lúc nhà Ngô suy yếu, một số thủ lĩnh địa phương nổi dậy cát cứ không thần
phục triều đình.
Hành chính
Thời Ngô, lãnh thổ chỉ còn 8 châu (so với 12 châu thời Tự chủ) là[4]:


Giao



Lục

Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh
thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo ý kiến của Đào Duy Anh

trong Đất nước Việt Nam qua các đời: 4 châu này bị Nam Hán chiếm[5], nhưng
không rõ vào thời điểm nào: Khi Kiều Công Tiễncầu viện đã để quân Hán tiến
vào (937) và Ngô Quyền chưa kịp tập hợp lực lượng tiến ra Đại La (938) hay
sau thời điểm trận Đại La, trước trận Bạch Đằng... (cuối năm 938). Theo Nguyễn
Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, Ngô Quyền bàn giao 4 châu
này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ"[4], thì việc này có thể xảy ra sau trận
Bạch Đằng hoặc Nam Hán đã chiếm được trước đó mà Ngô Quyền chỉ làm việc
công nhận vùng bị mất này thuộc về Nam Hán.
Ngoại giao
Ngô Quyền tự xưng là Ngô vương, sử sách không xác nhận việc ông quan hệ ngoại
giao với các vương triều nào trong số các nước ở phương bắc thời kỳ Ngũ đại Thập
quốc.
Năm 954, Ngô Xương Văn sai sứ sang giao hảo với Nam Hán và xin tiết viện. Vua
Nam Hán là Lưu Thịnh nhận giao hảo của Xương Văn. Sau đó Lưu Thịnh âm mưu
cho Lý Dư làm sứ cầm cờ "tinh" sang chiêu dụ nhận Tĩnh Hải quân là phiên thần
và phong chức Tiết độ sứ cho hắn để cai quản Đô hộ cho Ngô Xương Văn[1].


Được tin Lý Dư sắp vào, Ngô Xương Văn cho ngay người đi sang biên giới ngăn
lại. Hai bên gặp nhau ở Bạch châu. Sứ của Xương Văn nói với Lý Dư rằng:
Giặc biển đương làm loạn, đường xá đi lại rất khó.
Lý Dư bèn quay về nước. Đó là lần ngoại giao duy nhất giữa nhà Ngô và Nam Hán
trong 21 năm tồn tại.
3, Loạn 12 sứ quân là gì ? ai đã chấm dứt tình trạng này ?
Loạn 12 sứ quân là một giai đoạn nội chiến và loạn lạc trong lịch sử Việt Nam mà
đỉnh điểm của nó xen giữa thời kỳ nhà Ngô và nhà Đinh. Loạn 12 sứ quân có
nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất
hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị và tạo ra sự
phân tán cát cứ.[1] Thực chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành quyền
lực tối cao trên đất Tĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khi nhà Đường suy

yếu, người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có
mầm mống từ đầu thế kỷ X và có cơ hội phát triển mạnh từ khi Dương Tam
Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ
một vùng, thậm chí xưng Vương và đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Giai đoạn 12
sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944-968) và kết thúc khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất
đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt - nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên
trong lịch sử.
Bối cảnh và lịch sử
Các Hào trưởng thành Tiết độ sứ
Năm 905, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ là Hào trưởng Chu Diên, được dân
chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ.
Họ Khúc đã mở đầu thời kỳ tự chủ của người Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc.
Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 7000 quân sang nước Việt
đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh
ra 3 con trai sau này là các sứ quân Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn
Siêu.[2] Cũng trong thời kỳ nhà Đường suy yếu, nhiều thủ lĩnh Trung Hoa chạy loạn
xuống Tĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các sứ quân như Đỗ
Cảnh Thạc và sứ quân Trần Lãm.
Năm 918, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay hèn yếu, bất lực dù đã có Đại
La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện
ngoại viện nhà Lương. Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về
Quảng Châu.


Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ từ Ái châu đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của
nước Nam Hán, giải phóng thành Đại La. Lưu Cung sai Trần Bảo mang quân sang
tiếp viện. Dương Đình Nghệ chủ động mở cửa thành nghênh đón địch, tiêu diệt
viện binh Nam Hán, chém chết Trần Bảo. Sau đó ông tự lập làm Tiết độ sứ,
dùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ (thân sinh của Đinh Bộ Lĩnh), Kiều Công
Tiễn làm nha tướng.

Năm 937, Kiều Công Tiễn, hào trưởng Phong Châu, một tướng dưới quyền đã giết
hại Dương Đình Nghệ để cướp quyền với lý do Đình Nghệ là người gây ra cái chết
của Khúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân.[3] Hai cháu nội Tiễn là Kiều Công
Hãn và Kiều Thuận sau này trở thành các sứ quân ở gần khu vực Phong Châu.
Năm 938, Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ ra giết Kiều Công Tiễn rồi dẹp
giặc bên Nam Hán ở sông Bạch Đằng, lên ngôi Vua, lập ra nhà Ngô, dựng lại
quyền tự chủ. Trong số các tướng có sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, sứ quân Kiều Công
Hãn và sứ quân Phạm Bạch Hổ. Tàn dư họ Kiều còn lại là sứ quân Kiều
Thuận chạy về chiếm vùng núi Hồi Hồ và liên kết với Ma Xuân Trường thâu tóm
các tộc trưởng miền núi.
Triều đình Cổ Loa dẹp loạn
Năm 944, Ngô Quyền mất, con trai Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha cướp
ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô Xương Ngập chạy về
nhà một hào trưởng - Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương - (Hải Dương). Dương
Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được.
Từ khi Dương Tam Kha lấy ngôi của nhà Ngô, thêm nhiều nơi không chịu thần
phục. Đặc biệt là loạn ở hai thôn Đường - Nguyễn, nhiều thủ lĩnh nổi lên chống đối
như sứ quânNgô Nhật Khánh ở Đường Lâm (thôn Đường) và sứ quân Nguyễn
Khoan nổi dậy ở Tam Đái (thôn Nguyễn), sứ quân Phạm Bạch Hổ là con của Phạm
Lệnh Công chiếm Đằng Châu, sứ quân Trần Lãm chiếm giữ ở Bố Hải Khẩu.
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh 2 thôn Đường Lâm và
Nguyễn Gia Loan ở Thái Bình. Ngô Xương Văn cho rằng đây là các ấp vô tội và
thuyết phục 2 tướng dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không
giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công. Năm 950, Ngô Xương
Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người
đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc đó
cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sử sách gọi là Hậu
Ngô Vương.



Năm 951, Hậu Ngô Vương tiến đánh Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư hơn một tháng
không được đành mang Đinh Liễn về Cổ Loa làm con tin. Cũng từ đó Ngô Xương
Ngập chuyên quyền, không cho Xương Văn tham dự chính sự nữa.
Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết,[4] chỉ còn một vua
là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn.
Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật
cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được
Chu Thái.[5]Cũng sau thời gian này, Ngô Xương Văn đi đánh giặc Lý Huy/Dương
Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, suốt tháng trời giặc tan mới rút
quân trở về.
Các sứ quân tham chiến
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường tức Đường Lâm của sứ quân Ngô
Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của sứ quân Nguyễn Thái Bình bị phục binh
bắn nỏ chết.[6] Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ
cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành.[7]
Cũng trong năm 965 thứ sử Phong Châu Kiều Công Hãn kéo quân về triều đình Cổ
Loa cùng tranh ngôi vua với Lã Xử Bình,[8][9] Con của Ngô Xương Ngập là Ngô
Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều, trở thành Ngô sứ quân. Theo sử gia Ngô
Thì Sỹ "thì lúc đó Nam Tấn mới mất, trong nước rối ren, Đinh Liễn có công dẹp
loạn, lại được phong tước, chứ chẳng như những con tin tầm thường nhân lúc loạn
lạc mà trốn về". Đinh Liễn sau 15 năm làm con tin ở Cổ Loa đã trở về Hoa Lư,
cùng cha Đinh Bộ Lĩnh sang đầu quân cho sứ quân Trần Lãm ở Thái Bình.
Năm 966 thứ sử Dương Huy, thứ sử Kiều Công Hãn, tham mưu Lã Xử Bình và
nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau làm vua.[10] Đinh Bộ Lĩnh giết được Lã Xử
Bình, kiểm soát được thành Cổ Loa. Các tướng Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh
Thạc thua chạy về Phong Châu và Đỗ Động, nổi dậy thành sứ quân.
Các sứ quân ra mặt đánh chiếm lẫn nhau: Lã Đường tấn công Đỗ Cảnh Thạc; Kiều
Công Hãn tấn công Nguyễn Khoan; Nguyễn Thủ Tiệp giết Dương Huy chiếm Vũ
Ninh và tự xưng là Vũ Ninh Vương.[11]
Năm 967, sứ quân Trần Lãm mất, sứ quân Ngô Nhật Khánh từ Đường Lâm, Đỗ

Động Giang tập hợp 500 con em Ngô tiên chúa đánh Bố Hải Khẩu, khi đến đất Ô
Man thì bị Ngô phó sứ chặn đánh phải bỏ về.[12] Đinh Bộ Lĩnh liền cất quân đi
đánh, không bộ lạc nào ở đó không hàng phục. Các sứ quân Phạm Bạch Hổ, Ngô
Nhật Khánh, Ngô Xương Xí đem quân về hàng, lực lượng họ Đinh ngày càng lớn


mạnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Nguyễn
Khoan, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh dẹp các sứ quân Lý Khuê, Lã Đường và
thống nhất Tĩnh hải quân, lên ngôi Hoàng đế ở kinh đô Hoa Lư, chính thức lập ra
triều đại nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam.
12 sứ quân
Danh sách các sứ quân
Đến năm 966, hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:
1. Ngô Xương Xí, tức Ngô sứ quân giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa) [13].
2. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà
Nội)
3. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Thanh
Oai, Hà Nội)
4. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
5. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt
Trì-Lâm Thao, Phú Thọ)
6. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh
Phúc)
7. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh
Trì, Hà Nội)
8. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
9. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê (Phú Thọ)
10.Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
11.Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố (Thái

Bình)
12.Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)


4, Triều Lí đã có những đóng góp nào cho lịch sử dân tộc.
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, giữ đến chức Điện tiền chí huy sứ, chỉ huy
cấm quân ở kinh đô Hoa Lư, có uy tín trong triều đình.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý, ông đặt niên hiệu Thuận Thiên.
 Định đô Thăng Long
Quyết định quan trọng đầu tiên của ông là dời kinh đô từ vùng núi Hoa Lư chật
hẹp về Thăng Long (tên gọi mới của thành Tống Bình – Đại La thời Bắc thuộc) ở
vùng đồng bằng thoáng rộng, địa thế thuận lợi, giữ vị trí trung tâm chính trị - kinh
tế. Nhân dịp này, nhà vua viết Chiếu dời đô.
Việc dời đô về Thăng Long của Lí Công Uẩn đã chứng tỏ một tầm nhìn chiến lược
sâu rộng của ông trong việc xây dựng một sự nghiệp lâu dài, phản ánh thế đi lên
của vương triều và đất nước
Dưới thời Lý, kinh thành Thăng Long đã được xây dựng và phát triển trở thành
một đô thị phòn thịnh và tiêu biểu của Đại Việt, gồm 2 khu vực chính trị quan liêu
(đô) và kinh tế dân gian ?(thị).
 Quân đội và luật pháp.
Nhà Lý có nhiều loại quân
Quân đội nhà Lý có quân bộ và quân thuỷ, kỉ luật nghiêm minh, huấn luyện chu
đáo. Khu Gỉang Võ phía Tây kinh thành Thăng Long là nơi giảng dạy, luyện tập
cho các tướng sĩ và binh lính. Từ thời Lí đã thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”,
cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng theo tinh thần “tĩnh vi nông, động vi binh”.
Chính sách đó vừa bảo đảm sản xuất, vừa bảo đảm động viên quân đội khi cần
thiết.
Nhà Lý là vương triều Việt Nam đầu tiên ban hành luật thành văn. Qua các pháp
lệnh, ta được biết pháp luật nhà Lý đã mang tính chất đẳng cấp đảng cấp phong
kiến, bảo vệ hoàng cung, trừng trị nặng tội mưu phản, cho tầng lớp quí tộc chuộc

tội chuộc tội bằng tiền. Mặt khác, pháp luật đời lí cũng bảo vệ trật tự xã hội, chống
hà lạm thuế má, giải quyết các vấn đề tranh chấp, cầm chuộc, mua bán ruộng đất,
đảm bảo sức kéo bàng cách trừng phạt nặng tội trộm trâu, giết trâu.
 Xác lập chủ quyền quốc gia dân tộc
Có thể nói rằng đến thời Lý, Việt Nam đã là 1 quốc gia dân tộc, dựa trên 1 ý thức
cộng đồng chung về nguồn gốc, dòng giống, lịch sử và văn hoá. Năm 1054, vua Lý
Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt. Nam 1175, nhà Tống chính thức công nhận


chủ quyền quôc gia của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chì quận
vương thành An Nam quốc vương
Quốc gia Đại Việt đã được bảo vệ củng cố qua cuộc kháng chiến chống Tống
(1075 – 1077) và mở rộng lãnh thổ về phía nam qua cuộc chiến tranh với Champa
(1069), sáp nhập các châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (vùng Quảng Bình và Bắc
Quảng Trị ngày nay). Các vua Lý đã thực hiện chính sách kimi, đưa nhiều công
chúa gả cho các thổ tù miền núi để vừa ràng buộc họ vừa tạo sự ủng hộ hậu thuẫn.
 Kinh tế
Sau khi xác lập vương triều, cùng với việc xây dựng, phát triển nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền, các cua thời Lý cũng ra sức xây dựng và
phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ về mọi mặt.
- Về kinh tế nông nghiệp: dưới thời Lý ruộng đất bao gồm 2 hình thức
sở hữu chính là ruộng đất sở hữu nhà nước và ruộng đất sở hữu tư
nhân. Ruộng đất nhà nước sở hữu gồm nhiều loại
o Vấn đề ban cấp hộ nông dân là hình thức và chế độ phong hộ
cho các quan lại cao cấp được thự hiện ở thời Lý. Đây là hình
thức nhằm đánh giá công lao và đóng góp của người được ban
cấp đối với nhà Lý. Chức hàm tước càng cao thì số lượng ban
cấp càng nhiều. bên cạnh ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, vào
thời Lý, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân đã phổ biến và phát
triển

o Hiện tượng mua bán, kiện tụng ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi,
buộc nhà nước phải ban hành nhiều điều luật công nhận quyền
tư hữu ruộng đất đã thể hiện sự phát triển của hình thức sở hữu
ruộng đất này
o Ngay từ khi mới lên ngôi, vua Lý Thái Tổ cũng như các vua Lí
sau này luôn luôn chăm lo đến sản xuất nông nghiệp thông qua
những chính sách cụ thể thiết thực.
o Năm 1010, Lý Thái Tổ xuống chiếu bát hững người đào vong
phải trở về bản quán.
o Nam 1065, Lý Thánh Tông hạ chiêu khuyên nông. Các vua nhà
Lý còn thực hiẹn công việc cày tịch điền và nhà vua tự đi xem
gặt ở hành cung Ưng Phong nhằm khuyến khích sản xuất.
o Chính sách ngụ binh ư nong cứng có tác dụng phát tri63n sản
xuất nông nghiệp, làm cho sức lao động không bị thiếu hụt.
o Nhà Lý đã có luật bảo vệ trâu, bò để bảo đảm sức kéo. Trộm tau
hay giết trâu bị tôi nặng.


o Nhà nước cũng trú trọng đến đê điều, trị thuỷ, đặc biệt ở vùng
châu thổ sông Hồng. Năm 1077, triều đình ra lệnh đắp đê sông
Như Nguyệt. Năm sau lại cho đắp đê Cơ Xá (sông Hồng) từ
Yên Phụ đến Lương Yên. Năm 1103, nhà vua lại xuống chiếu
tha thuế cho thiên hạ
- Thủ công nghiệp, thương nghiệp.
o Sản phẩm của thủ công nghiệp nhà nước có chất lượng cao và
kĩ thuật khá tinh xảo nhưng không đc trao đổi trên thị trường
o Thủ công nghiệp nhân dân là các nghề thủ công truyền thống
lâu đời trong dân gian đến thời Lý tiếp tục có những bước phát
triển như dệt, gốm, đúc, đồng, đặc biệtt nghề dệt tơ lụa, vua ko
dùng gấm vóc của nước Tống

o Một số nghề khai thác vàng, làm đất nung gạch, ngói phục vụ
cho xây dựng, nghề in bàn gỗ cũng bắt đầu xuất hiện. Đặc biệt
ở thời Lý đã làm được gốm men ngọc, gốm dàn hoa nâu, đường
nét hoa van trang trí khoẻ đẹp và xuất hiện một số trung tâm sản
xuất gốm tiêu biểu như Bát Tràng (Hà Nội).
- Thương nghiệp
o Kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy
thương nghiệp có những chuyển biến. Thời Lý, tiền tệ đã có vai
trò quan trọng trong các hoạt động nội thương và ngoại thương.
Nhà nước đã có các xưởng đúc tiền phục vụ cho nhu cầu trao
dổi trên thị trường
o Nhà nước nhập thêm tiền đồng Đường Tống ?(Trung Quốc).
Điều này thể hiện quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với Trung
Hoa khá phát triển.
o Một địa điểm ngoại thuơgn quan trọng thời Lý là cảng biển Vân
Đồn ra đời. Vân Đồn nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc
xuống các nước ĐNA, nên đây là 1 thương cảng tốt. Thời Lý,
Đại Việt buôn bán với các nước Xiêm La, Java (indo), Trung
Quốc, hàng xuất của ta là lâm thổ sản và hàng nhập là giấy, bút,
tơ, vải, gấm, vóc. Vì mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn
của đất nước nên nhà Lý chỉ cho phép thương nhân nước ngoài
đến buôn bán ở một số địa điểm nhất định. Song ngoại thương
thời Lý vẫn còn khá Phát triển.
 Rõ ràng nền kinh tế thời Lý đã có những bước phát triển mới về các mặt,
trong đó đặc biệt là nông nghiệp. Sự phát triển kinh tế đã trở thành cơ sở vật


chất để xây dựng đất nước vững mạnh và đảm bảo cho tháng lợi của cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm.
 Nghệ thuật

Nhà Lý còn nổi tiếng về nghệ thuật với kinh đô Thăng Long phỏng theo mô hình
kinh thành Trường Ancủa nhà Đường và Khai Phong của nhà Tống, tạo nên một
quần thể kiến trúc vĩ đại và hoa lệ. Những hiện vật về mái ngói,linh thú trang trí
trên nóc mái và các loại gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ cao của các nghệ nhân
thời Lý. Con Rồng thời Lýđược xem là hình tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo
hình đương thời, bên cạnh các tượng Phật lớn còn lại cho thấy tư duy đồ sộ của
người thời Lý là rất lớn. Ba trong 4 bảo vật của An Nam tứ đại khí là Tháp Báo
Thiên, Chuông Quy Điền và Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm được tạo ra trong thời
đại nhà Lý. Cùng với sự sùng đạo Phật, những tinh hoa nhất của nghệ thuật thời Lý
đa phần đều thể hiện qua các bức tượng Phật, chùa chiền, phản ánh sự xa hoa tột
độ của Phật giáo thời Lý.
5, Triền Trần đã có những đóng góp nổi bật nào cho lịch sử dân tộc.
Vương triều Trần tồn tại được 174 năm, gồm 12 đời vua
 Về chính trị
- Về chính sách chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ
máy nhà nước hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống
đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà
lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới
điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi
Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều
đại nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen
việc cai trị cho đến khi trưởng thành
 Quân sự
- Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển
đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các
nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất
là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực
ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân
đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được
cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3

lần vào năm1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh
tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại
vương Trần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng
vào năm 1285 và 1287.


 Kinh tế
- Thi hành chính sách “trọng nông”, khuyến khích nông nghiệp. Cùng
với chính sách “ngụ binh ư nông” kết hợp kinh tế với quốc phòng
- Để đảm bảo nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã
phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch
- Nhà trâ2n có những biện pháp khuyến khích thủ công nghiệp và
thương nghiệp: chợ có ở khắp nơi, họp đều kì. Vân Đồn vẫn là địa
điểm giao thương quốc tế, trao đổi hàng hoá giữa Đại Việt và các
nước ĐNA và ĐA.
 Nhìn chung, dưới triều Trần, mộ thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được
duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế
hàng hoá, giữa quyền lực, lợi ích nhà nước với các đẳng cấp quí tộc quan
liêu cũng như khốibình dân làng xã
6, Triều Lê Sơ vì sao được gọi là thời kì phát triển thịnh vượng trong chề độ
phong kiến Việt Nam. Giải thích ngắn gọn.
- Nhà Lê sơ là giai đoạn đầu của triều đại nhà Hậu Lê, một triều
đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau
khi Lê Thái Tổ Lê Lợi phát động khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại quân
đội nhà Minh.
-

Dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt
từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Nước Đại Việt từ trước
chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu

vực lớn bằng thời này, thời kỳ này được gọi là Hồng Đức thịnh
thế tính đến ảnh hưởng các đời sau là Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, là
hơn 30 năm.

-

Lãnh thổ thời đại này tiếp tục được mở rộng ra hơn nữa, cực thịnh gấp
mấy lần so với đời nhà Lý và nhà Trần. Cùng với quân sự hùng mạnh,
các đời Thái Tông đến Thánh Tông liên tiếp sát nhập lãnh thổ các
quốc gia Bồn Man, Chiêm Thành; ngoài việc đối phó với các quốc
gia, nền quân sự hùng mạnh khiến triều đình thẳng tay đàn áp các
cuộc bạo loạn ở miền thượng, ổn định chính quyền trong thời gian dài.
Mặc khác vì để đáp ứng một nền quân sự phát triển mạnh, nền kinh


tế được phát triển theo thông qua buôn bán trong nước và thông
thương với nước ngoài.
-

Thời kỳ nhà Hậu Lê bước vào giai đoạn trọng dụng quan lại, khác với
nhà Trần bị chi phối bởi người trong hoàng tộc, luôn nắm đại quyền
và được kế thừa nhau bằng việc thế tập. Triều đình mở nhiều khoa cử,
thay đổi bộ máy chính quyền, không cho hoàng tộc các chức vụ thực
quyền mà trọng dụng những người đã đổ khoa để bổ nhiệm, việc hạn
chế sự thế tập dòng dõi quan lại giúp chế độ quan liêu hạn chế rất
nhiều sự chuyên quyền dòng họ. Văn học Việt Nam được ghi nhận
phát triển rực rỡ thời kỳ này, với việc Lê Thánh Tông mở ra Hội Tao
Đàn, chính Hoàng đế khuyến khích học thuật trong toàn quốc gia.
Danh sử Ngô Sĩ Liên thuộc về triều đại này, đã biên soạn Đại Việt sử
ký toàn thư, tiếp tục nối bước Lê Văn Hưu đời Trần ghi chép giai đoạn

lịch sử một cách đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều công trình sử liệu, văn
học, thiên văn, quan chế...được hoàn thiện trong thời Lê Sơ.

7, Cục diện chia cắt Nam – Bắc triều và Đàng Trong – Đàng Ngoài diễn ra như
thế nào ? Trình bày ngắn gọn các mốc sự kiện chính.
A, Nam – Bắc triều:
- Triều đình nhà Lê suy yếu, các phe phái tranh giành quyết liệt
- Năm 1527, Mạc Đăng Dung (1 quan võ dưới triều Lê) cướp ngôi nhà
Lê và lập ra triều Mạc  Bắc Triều (vẫn đóng đô ở Thăng Long)
- Năm 1533, Nguyễn Kim (võ quan triều Lê) chạy vào Thanh Hoá lập 1
người thuộc dòng dõi nhà Lê lên làm vua lấy danh nghĩa “Phù Lê diệt
Mạc” và lực lượng ngày càng mạnh  sử cũ gọi là Nam Triều để phân
biệt
- Từ năm 1539 – 1543, quân nhà Lê liên tiếp mở các cuộc tấn công về
Nghệ An và Thanh Hoá. Cuối 1543, nhà Lê chiếm được Tây Đô.
Thanh Hoá, Nghệ An trở thành trở thành vùng đất đứng chân của vua
Lê.
- Năm 1545, Nguyễn Kim bị đầu độc => Trịng Kiểm thay thế.
Cuộc nội chiến Nam – Bắc triều diễn ra trong gần 50 năm với 40 trận chiến lớn
nhỏ, chia thành 3 giai đoạn chính.


+ 1545 – 1569: Nam triều giành thế chủ động (tổ chức 11 lần xuất quân đánh phá
các trấn vùng đồng bằng Bắc Bộ), quân nhà Mạc mở đc 4 lần tấn công vào Thanh
Hoá. Tuy nhiên ko bên nào dành thắng lợi quyết định.
+ 1570 – 1583: quân Mạc phản công nhưng ko tiêu diệt đc quân Trịnh (Trịnh Cối
và Trịnh Tùng), nhà Mạc gần như điều động cạn kiệt tiềm lực của mình vào chiến
tranh.
+ 1583 – 1592: giai đoạn suy sụp của nhà Mạc. Năm 1592, quân Nam triều mở
cuộc tấn công quyết định vào Thăng Long, Trịnh Tùng giành toàn thắng. Cục diện

chiến tranh Nam – Bắc triều về cơ bản đã kết thúc
 1592 Trịnh Tùng xưng vương và xây dựng Vương phủ (phủ chúa) bên cạnh
triều đình nhà Lê. Vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa còn mọi quyền hành
đều do chúa Trịnh quyết định.
B, Trịnh – Nguyễn phân tranh
- 1545 NK chết, vua Lê trao mọi quyền bính cho Trịnh Kiểm (con rể
NK). Tuy nhiên, TK muốn loại bỏ ảnh hưởng của nhà họ Nguyễn nên
lập mưu giết Tả tướng Nguyễn Uông. Em trai NU là Nguyễn Hoàng
đã nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ TK) xin cho được vào trấn thủ đất
Thuận Hoá.
- 1558, NH đưa gia tuyến, tuỳ tùng và họ hàng vào Thuận Hoá. Sau này
được tin cậy giao cho kiêm lãnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam. Tuy nhiên
vẫn giữ bề ngoài hoà hiếu vơi chính quyền Lê – Trịnh.
- 1613, Nguyễn Phúc Nguyên – con trai t6 của Nguyễn Hoàng, thay cha
thực hiện lời trăng trối gây dựng sự nghiệp muôn đời.
- 1627, chiến tranh nổ ra, trên thực tế đất nước bị chia cắt làm 2 miền,
vùng đất từ Đèo Ngang trở ra Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính
quyền Lê Trịnh gọi là Đàng Ngoài, đất Thuận – Quảng được gọi là
Đàng Trong. Đến 1672 chiến tranh kết thúc, không phân thắng bại.
Nếu xét theo mục đích thì bên thất bại là chính quyền Lê – Trịnh. Họ
Nguyễn đã bước đầu thực hiện được ý đồ của mình trong việc tách
Đàng Trong ra thành một giang sơn riêng.
8, Những đóng góp quan trọng của phong tào nông dân Tây Sơn (1771).


- Xóa bỏ nền thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng trong, chúa Trịnh ở
Đàng ngoài chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến mở đường cho quá
trình thống nhất đất nước sau nhiều thời kỳ bị chia cắt, điều này đưa
pk nông dân Tây sơn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân giống như bao
cuộc khởi nghĩa nông đân khác trở thành một cuộc chiến tranh nông

dân lan rộng trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ đàng trong và đàng ngoài.
Nếu xét về quy mô, lực lượng tham gia trong lịch sử dân tộc chưa có
một cuộc khởi nghĩa nông dân nào có quy mô lớn và lượng người
tham gia đông nhu Tây Sơn.
- Bằng thiên tài quân sự của mình thì Nguyễn Huệ và anh em Tây Sơn
đã đưa cuộc khởi nghĩa nông dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác trong khoảngmột thời gian rất ngắn. Những thắng lợi đó đã
khẳng định sức mạnh của giai cấp nông dân và cuộc chiến tranh nông
dân của nước ta ở thế kỷ XVIII.
- Trong một khoảng thời gian ngắn, anh em Tây Sơn và cả dân tộc đã
lập nên 2 chiến thắng hiển hách: chiến thắng Rạch Gầm -Xoài Mút
chôn vùi 5 vạn quân Xiêm, 2-3 vạn quân Nguyễn Ánh: chiến thắng
Ngọc Hồi Đống Đa trong mùa xuân Kỷ Dậu đẫ chôn vùi 29 vạn quân
Thanh cùng bè lũ Lê Chiêu Thống. Cả hai chiến thắng này có vị trí và
ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với lịch sử dân tộ, .quét sạch ngoại xâm,
nội phản, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa nghệ
thuật quân sự Việt Nam đạt tới đỉnh cao.
- Là sự tiếp nối truyền thống chống ngoại xâm bất khuất của toàn thể
quốc gia dân tộc với những chiến thắng đó đứng đầu Bắc Bình Vương
đã đưa lịch sử dân tộc bước sang một giai đoạn mới sau chiến thắng
oanh liệt trong mùa xuân Kỉ Dậu 1789 Hoàng đế Quang Trung bắt tay
xây dựng đất nước. Ông có hoàng loạt chính sách tiến bộ táo bạo tác
động trực tiếp tới đời sống vật chất, tinh thần của người dân như:
quyết định tành lập Viện sùng chính giao cho La Sơn phu tử Nguyễn
Thiếp cùng các đồng sự biên soạn biên dịch sách chữ Nôm với khát
vọng thay thế chữ Hán, chuẩn bị cho sự hưng thịnh của nền giáo dục
khoa cử mới.
- Ông cho rằng làm thẻ ghi tên các đinh để quản lí nhân khẩu ở làng xã
và dễ dàng huy động lực lượng quân đội khi cần thiết khuyến khích
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển. Đời sống của nhân



dân có những thay đổi hết sức quan trọng. Đáng tiếc năm 1792 Hoàng
đế Quang Trung đột ngột qua đời cơ nghiệp nhà Tây Sơn vùa mới
được xây dựng đã thiếu người chống đỡ. Quốc Toản nối ngôi cha
nhưng không đủ tài năng nối nghiệp cha.
9, Phong trào Cần Vương đã diễn ra ntn ? Kết quả
. Phong trào Cần vương bùng nổ.
1. Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến tại kinh thành Huế và sự bùng nổ
của phong trào Cần Vương.
- Sau hai hiệp ước Hácmăng và Patơnốt Pháp bắt đầu thiết lập chế độ bảo hộ ở Bắc
Kì, Trung Kì.
- Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta tiếp tục phát triển. Một số quan
lại, văn thân, sĩ phu yêu nước, nhân dân các địa phương đấu tranh sôi nổi.

- Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân phái chủ chiến do Tôn Thất
Thuyết chỉ huy tấn công Pháp ở toà Khâm sứ, đồn Mang Cá, nhưng thất bại.
- Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Tân Sở (Quảng Trị), lấy danh nghĩa Hàm
Nghi xuống chiếu Cần vương kêu gọi nhân dân cả nước chống Pháp.
- Chiếu Cần vương làm bùng lên phong trào đấu tranh của nhân dân, trở thành
phong trào sôi nổi suốt những năm cuối thế kỉ XIX.
2. Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần vương

a) Từ năm 1885 đến năm 1888
- Lãnh đạo: Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Các văn thân sĩ phu yêu nước.
- Lực lượng: Đông đảo nhân dân, có cả dân tộc thiểu số.
- Địa bàn: Từ Bắc vào Nam, sôi nổi nhất là Trung Kì, Bắc kì với các cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu: Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Khê.



=> Đây là giai đoạn bùng phát mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào trên phạm vi cả
nước.
b) Từ năm 1889 đến năm 1896.
- Lãnh đạo: sĩ phu văn thân yêu nước.
- Địa bàn: Thu hẹp, quy tụ thành những trung tâm lớn, tập trung ở Bắc Trung Kì và
Bắc Kì Trọng tâm chuyển lên vùng núi và trung du, tiêu biểu có khởi nghĩa Hùng
Lĩnh, Hương Khê
 Kết quả: thất bại
10, Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc cho quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam
-

Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam đó là
cách mạng vô sản

-

Truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm
cho hệ tư tưởng Mác – Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống
xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến
lập trường của giai cấp công nhân.

-

Về chính trị: Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong
những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927,
được in thành sách lấy tên là “Đường Cách mệnh”.


-

Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính
chất giải phóng dân tộc của cách mạng, những động lực chủ yếu của
nó - công nhân và nông dân là “gốc cách mệnh”, “học trò, nhà buôn,
điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách mệnh của công nông. Những luận điểm
đó là nền tảng hình thành liên minh công nông và mặt trận dân tộc
thống nhất trong cách mạng dân tộc giải phóng do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Người còn nêu quan điểm cực kỳ quan trọng: Đảng Cộng
sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.


-

Về tổ chức: cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho
sự ra đời của một chính Đảng, Người đã dày công chuẩn bị về mặt tổ
chức đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do
Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một tổ chức tiền thân có tính
chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy
giờ. Nó giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các
thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản
ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về
mặt tổ chức cho Đảng ra đời.

-

Như vậy, có thể thấy rằng Người đã chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng,

chính trị và tổ chức, là một sáng tạo lớn và vững chắc cho việc ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Đó là thành quả
tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, mà lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc giữ vai trò là người kiến tạo và sáng lập. Điều đó càng làm sáng
tỏ thêm vai trò to lớn của tầm cao tư tưởng và phương pháp hoạt động
thực tiễn của Người trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

-

Kỷ niệm 85 năm thành lập Đảng, chúng ta càng thấy công lao to lớn
của Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tưởng nhớ
Người, chúng ta càng khắc sâu công lao của Người, mỗi cán bộ đảng
viên của Đảng, đặc biệt những người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng
lý luận tự hào luôn có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm
nhuần đạo đức cách mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị
vững vàng trên cơ sở “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[5], tích
cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học
tập đạo đức và phong cách của Người để vận dụng vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới, đấu tranh chống các
quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của
Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa
các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.

-

Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với chức vụ là
phái viên của Quốc tế Cộng sản, hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trong



Việt Nam và Đông Dương: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn,
11, Diễn biến chính của CMT8 1945.
1. Hoàn cảnh lịch sử . Cách mạng tháng Tám nổ ra trong thời cơ chín muồi.
a.Thế giới (Khách quan)Thời cơ thuận lợi đã đến
- Ở Châu Âu: Tháng 5/1945 phát xít Đức đầu hàng quân đồng minh
không điều kiện.
- Ở Châu Á –Thái Bình Dương: 8/1945 Nhật cũng đầu hàng vô điều
kiện.
b.Trong nước (Chủ quan).
- Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã .Chính phủ thân Nhật Trần Trọng
Kim hoang mang
- Ngày 13/8/1945 TƯ Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập UB khởi nghĩa
toàn quốc, ra quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa
trong cả n ước
- Từ ngày 14-> 15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào
thông qua kế hoạch lãnh đạo ND Tống khởi nghĩa và quyết định
những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi
giành được chính quyền
- Từ ngày 16 ->17/8/1945 Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào
tán thành lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của
Việt Minh, thành lập UB dân tộc giải phóng do CT Hồ Chí Minh đứng
đầu.
2. Những nét chính về diễn biến
- Chiều ngày 16/8/1945 một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên
Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên mở
đầu cho CM tháng tám.
- Từ 14 đến 18/8/1945 có 4 tỉnh giành được chính quyền: Bắc Giang,

Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam.
- Giành chính quyền ở Hà Nội: Từ ngày 15 đến 18/8 phong trào chuẩn
bị khởi nghĩa của quần chúng ngày càng sôi sục. Ngày 19/8/1945 Hà
Nội giành được chính quyền.
- Ngày 23/8 ta giành chính quyền ở Huế.
- Ngày 25/8 ta giành chính quyền ở Sài Gòn.


- Ngày 28/8 hầu hết các địa phương trong cả nước giành được chính
quyền.
- Ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị.
- Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba §ình chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa.
Như vậy chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14/8 đén 28/8/1945) tổng khởi
nghĩa tháng Tám đã thành công trong cả nước. Lần đầu tiên trong cả
nước chính quyền về tay nhân dân.
3.Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng tám.
a.Đối với dân tộc: Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặc lớn trong lịch
sử dân tộc,vì:
- CMT8 mở ra một bước ngoặc lớn trong lịch sử dân tộc.Nó phá tan hai
tầng xiềng xích nô lệ của Pháp- Nhật, lật nhào chế độ quân chủ, khai
sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập tự
do; kỷ nguyên ND lao động nắm
chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh DT; kỷ nguyên giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng XH.
- Với thắng lợi của CMT8, ĐCSDD trở thành 1 Đảng cầm quyền,
chuẩn bị những ĐK tiên quyết cho
những thắng lợi tiếp theo

b.Đối với thế giới:
- Góp phần đánh bại chủ nghĩa phát xít
- Cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của ND các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa trên thế giới nhất là Châu Á và châu Phi.
4.Bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám.
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phải biết giải
quyết đúng đắn hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ đưa nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Biết tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng với nòng cốt là liên minh
công nông.


- Triệt để lợi dụng mâu thuẩn trong hàng ngũ kẻ thù chỉa mũi nhọn vào
kẻ thù chính trước mắt.
- Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa.
- Phải tích cực chuẩn bị và chớp đúng thời cơ.
5.Nguyên nhân thành công của cách mạng tháng tám? Nguyên nhân nào có
tính chất quyết định?Vì sao?
 Nguyên nhân khách quan. Hoàn cảnh quốc tế vô cùng thuận lợi đó là Hồng
quân Liên Xô và phe Đồng mimh đã đánh bại phát xít Nhật, kẻ thù của ta đã
gục ngã. Đó là cơ hội để nhân dân ta vùng lên giành chính quyền.
 Nguyên nhân chủ quan:
- Dân tộc ta giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh chống giặc ngoại
xâm.
- Sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng đứng đầu là chủ tịch HCM
với đường lối đúng đắn sáng tạo.
- Đã xây dựng được khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được
các lực lượng yêu nước trong mặt trận thống nhất.

- Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị chu đáo cho thắng lợi của cách mạng
tháng tám trong suốt 15 năm với ba cuộc diễn tập 1930-1931;19361939;1939-1945
 Nguyên nhân quan trọng và mang tính quyết định nhất là nguyên nhân chủ
quan bởi vì: Nếu quần chúng nhân dân không sẵn sàng đứng lên, nếu Đảng
không sáng suốt tài tình nhận định đúng thời cơ thì thời cơ sẽ qua đi.Vì thế
nguyên nhân chủ quan mang tính chất quyết định còn nguyên nhân khách
quan chỉ là sự hổ trợ là thời cơ để Đảng sáng suốt phát động quần chúng
nhân dân đứng lên giành chính quyền trong thời gian ngắn.
12, Những thuận lợi và khó khăn của VN sau CMT8 đến toàn quốc kháng
chiến.
Hoàn cảnh nước ta sau CMT8
- Sau CMT8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối


cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải những khó khăn to
lớn, hiểm nghèo.
- Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống XHCN với nòng cốt là Liên
xô. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới nâng cao.
Phong trào hoà bình và dân chủ phát triển mạnh mẽ nhât là ở các nước
tư bản chủ nghĩa.
- Trong nước, chính quyền cách mạng đc thiết lập từ Trung ương đến cơ
sở, có Đảng sáng suốt lãnh đạo đc toàn dân ủng hộ.
- Địa vị của nhân dân ta có sự thay đổi, từ thân phận nô lệ trở thành
người dân làm chủ đất nước, dân tộc mình. Đảng ta từ 1 đảng bí mật
bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền.
Khó khăn
- Trên lĩnh vực kinh tế xã hội, nền kinh tế do Pháp Nhật để lại sau chiến tranh
nghèo nàn, kiệt quệ. Nạn đói ở miền Bắc vẫn chưa đc khắc phục, ruộng đất
bị bỏ hoang, công nghiệp đình đốn, ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong

tay tư bản Pháp.
- Trên lĩnh vực văn hoá, nền văn hoá nô dịch ngu dân, nặng nề, hơn 95% dân
số mù chữ.
- Trên mặt trận chính trị quân sự thì nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa ra
đời đã bị các thế lực phản động bao vây tấn công. Miền Bắc có hơn 20 vạn
quân Tưởng, miền Nam có hơn 1 vạn quân Anh dưới danh nghĩa quân đồng
minh và tước vũ khí quân Nhật nhưng thực chất là chống phá CM nước ta,
tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta 1 lần
nữa. Ngày 23/9/1945, thực dân P nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc
xâm lược Việt Nam lần 2. Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật đang chờ rải
rác. Các lực lượng phản động trong nước như Đại Việt, Việt Quốc ra sức
chống phá cách mạng. Chưa bao giờ cùng 1 lúc trên đất nước ta lại có nhiều
kẻ thù đến vậy
- Trên mặt trận ngoại giao, nước VNDCCH ra đời chưa được nước nào trên
thế giới đặt quan hệ ngoại giao
 Tổ quốc đang bị lâm nguy, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
 Trước hoàn cảnh đó, Đảng ta đứng đầu là chủ tịch HCM đã đề ra những
đường lối chủ trương đưa CM VN vượt qua thời kì khó khăn, thử thách.


Đường lối xây dựng và bảo vệ chính quyền của Đảng được thể hiện trong
chỉ thị kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945.
- Chỉ thị xác định tính chất của cuộc kháng chiến vẫn là cuộc CM giải phóng
dân tộc, khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết” nhưng ko
phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
- Về phương hướng nhiệm vụ, Đảng nêu lên 1 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách
cần khẩn trương thực hiện là “củng cố chính quyền,chống thực dân Pháp
xâm lược,bài trừ nội phản,cải thiện đời sống dân sinh” trong đó nhiệm vụ 1
là quan trọng nhất.
- Biện pháp để thực hiện chỉ thị đó trên lĩnh vực nội chính là xúc tiến bầu cử

quốc hội, thành lập chính phủ,hợp pháp,hợp hiến,kiện toàn bộ máy chính
quyền từ trung ương đến địa phương.Về quân sự đảng ta chủ trương kháng
chiến chống Pháp ở miền nam,xây dựng lực lượng kháng chiến trong toàn
quốc.Trên mặt trận ngoại giao,đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn
bớt thù nêu cao khẩu hiệu” Hoa việt thân thiện” đối với quân đội tưởng giới
thạch và”độc lập về chính trị,nhân nhượng về kinh tế” đối với pháp
 Chỉ thị “ kháng chiến kiến quốc” có ý nghĩa hết sức quan trọng chỉ thị đã xác
định đúng kẻ thù của dân tộc, kịp thời đề ra những biện pháp cơ bản nhằm
khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài bảo vệ chính quyền
cách mạng.


×