Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận: chữ “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.83 KB, 14 trang )

Đề tài: Nói về chữ “Nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi nhà nghiên cứu Nguyễn
Huệ Chi cho rằng: “Rõ ràng cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một
cách nói của nhà thơ, một cách ông che giấu nỗi đau lòng”. (Nguyễn Huệ
Chi, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, NXBGD HN 2003, tr454).
Anh/chị có suy nghĩ gì nhận định trên khi đọc những vần thơ nói về thú nhàn
của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập?
1. Đặt vấn đề
Khi nghiên cứu về Quốc âm thi tập của tác gia Nguyễn Trãi, ta mới thấy
hết được giá trị to lớn mà nó mang lại. Nghiên cứu Quốc âm thi tập ta thấy
được trong đó là những lý tưởng lớn, tình yêu lớn và nỗi lòng của nhà thơ
qua những bài thơ của mình.
Đề tài chữ “nhàn” Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một trong những đề
tài được rất nhiều nhà nghiên cứu bàn luận và đánh giá hiện nay. Vì so với
chữ “Nhàn” của Nguyễn Trãi với các nhà thơ trung đại trước và sau Nguyễn
Trãi có sự đặc biệt rất lớn. Nguyễn Trãi vẫn còn đó một nỗi lo dân, lo nước
canh cánh trong lòng. Chính vì thế nhà nghiên cứu GS. Nguyễn Huệ Chi đã
có nhận định rằng: : “Rõ ràng cái nhàn trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một
cách nói của nhà thơ, một cách ông che giấu nỗi đau lòng”. (Nguyễn Huệ
Chi, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, NXBGD HN 2003, tr454).
Để tìm hiểu và làm rõ được nhận định trên của nhà nghiên cứu GS.
Nguyễn Đổng Chi ta cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất:
Những quan niệm về “nhàn”; Thứ hai: Thú “nhàn” trong Quốc âm thi tập và
một số bài thơ tiêu biểu; Thứ ba: Cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi là cái
nhàn che giấu nỗi đau lòng; Thứ tư: Phân tích mở rộng.
2. Giải quyết vấn đề
1


Để hiểu và giải quyết được nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng
Chi ta cần đọc Quốc âm thi tập đặc biệt là những bài thơ nói về thú “nhàn”
trong đó. Hiểu được cơ bản chữ “Nhàn” nói chung và chữ “nhàn” trong thơ


Nguyễn Trãi như thế nào. Sau đó lần lượt giải quyết các vấn đề đã đặt ra ở
phần đặt vấn đề để làm sáng tỏ nhận định.
2.1 Những quan niệm về “nhàn”
Một là nghĩa thông thường, mọi người quen thuộc là chữ "nhàn", trong
các hợp từ như nhàn hạ, nhàn rỗi hay là nông nhàn tức là thời gian nhà nông
rỗi rãi, không có việc gì phải làm ngoài đồng. Hay là trong câu "nhàn cư vi
bất thiện", nghĩa là nhàn là điều bất thiện.
Như chúng ta thấy nội dung chữ "nhàn" theo nghĩa thông thường cũng
không có gì là xấu, nhất là đối với người có tuổi, trừ phi là ở nhàn, rồi làm
điều bậy bạ, bất thiện.
Hai là nghĩa chữ "nhàn" trong văn chương Nho giáo. Trước hết, cần nói
rằng, chữ Hán "nhàn" có thể viết hai cách: một là chữ môn là cửa ở ngoài,
trong là chữ nguyệt là mặt trăng. Hai cũng là chữ môn ở ngoài, và chữ mộc
là gỗ ở trong. Cả hai chữ đều đọc là nhàn, với nghĩa nhàn rỗi, nhàn hạ. Với ý
nghĩa đó, cả hai chữ đều không có ý nghĩa xấu, nhưng trong các đoạn "nhàn
đàm", "nhàn ngôn", "nhàn ngữ", ý tứ là nhân lúc nhàn rồi ngồi nói chuyện
chơi.
Trong Luận Ngữ của Khổng Tử có câu "đại đức bất du nhàn".Chữ nhàn ở
đây có nghĩa là phép tắc, quy củ. Nghĩa của câu trong Luận Ngữ là người có
đức lớn không vượt khuôn phép, quy củ.
Ba là chữ nhàn trong văn chương của Đạo giáo. Trong các thành ngữ
quen thuộc, như "nhàn vân dã hạc" có nghĩa là mây trói con hạc giữa đồng,
nói lên con người sống nếp sống Đạo gia, không bị câu thúc ràng buộc gì.
2


Hay là thành ngữ "nhàn tỉnh, dật trí", nói lên phong cách của Đạo gia sống
an tịnh, siêu thoát.
Bốn là chữ "nhàn" trong văn chương Phật giáo. Nhàn là không bị “tư
dục” trói buộc, dù sống trong đạm bạc nhưng lại thảnh thơi về tinh thần, thể

xác. Có nghĩa là hiểu biết thế gian, tức là hiểu đời. Có hiểu đời là vô thường
thì mới ngộ được đạo lý bất tử. Có biết đời là khổ, mới chứng được cảnh
giới Niết-bàn an lạc, sung sướng.
Như vậy "nhàn" trong văn chương Phật giáo hoàn toàn không có nghĩa là
nhàn hạ, nhàn rỗi, như là theo nghĩa thông thường, "nhàn" trong Phật giáo là
không luỵ công danh, không vướng tài sắc- là những cái ràng buộc rất tầm
thường và thế tục, để làm tất cả những việc có thể làm được để lợi lạc quần
sinh, để cứu nhân độ thế, cứu người và cứu đời.
2.2 Thú “nhàn” trong Quốc âm thi tập và một số bài thơ tiêu biểu
Nhắc tới thú nhàn trong thơ của Nguyễn Trãi, cụ thể trong Quốc âm thi
tập ta có thể thấy được hai nội dung tiêu biểu đó là “cách sống nhàn và tâm
trạng khi sống nhàn”.
Thứ nhất: cách sống nhàn của Nguyễn Trãi
Với Nguyễn Trãi sống nhàn trước tiên đó là sống thanh bạch, giản dị, hòa
mình với nhân dân, vui thú điền viên qua các bài Thuật hứng III, XXIV,
XXV: “Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan xen vãi đậu kê.
Khách đến chim mừng hoa sảy rúng
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về… (Thuật hứng, bài III)
Hay : “Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh vớt cỏ ương sen”. (Thuật hứng, bài XXIV)

3


Sống mãn nguyện với cuộc sống do chính mình tạo ra cho dù là đạm
bạc…qua Mạn thuật bài XIII, Trần tình bài III, Bảo kính cảnh giới bài XII:
“Vầu làm chèo trúc làm nhà,
Được thú vui ngày tháng qua…” (Trần tình, bài III)
Vui thú bầu bạn với thiên nhiên thanh khiết, thuần hậu, thủy chung qua bài

Thủ vĩ ngâm bài số XX: “ Cây rợp tán che am mát,
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn
Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn,
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
Thứ hai: đó là tâm trạng khi sống nhàn của Nguyễn Trãi trong Quốc âm
thi tập.
Nguyễn Trãi cảm thấy yêu lối sống nhàn, thích lối sống nhàn và nhiêu khi
say sưa, ca tụng cảnh thanh nhàn (Ngôn chí thi bài III,bài X; Tự thán bài
XXV): “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dại dột có phong lưu…” (Ngôn chí thi, bài III)
Nguyễn Trãi cảm thấy mãn nguyện với thú nhàn: qua các bài Mạn thuật
bài số II, VI; Tự thán bài số VII. Như: “…
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,
Ông này đã có thú ông này.”
(Tự thán,
bài VII)
Cuối cùng đó là một nghịch lý khi “sống nhàn” mà Nguyễn Trãi đang phải
chịu đựng. Đó là sống nhàn nhưng chưa bao giờ được thảnh thơi, mẫn thế
được yên giấc bởi vẫn còn đó một nỗi lo dân, lo nước:
“Còn có một lòng âu việc nước
4


Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.” (Thuật hứng, bài XXIII)
Hay tuy sống trong cảnh nhàn nhưng nhà thơ lại đau khổ:
“Uổng có thân hèn cực thửa nuôi,
Ghe đường dại dột mỗ nên xuôi.” ( Tự hán, bài XXXVI)
Phải chăng nhà văn đang che giấu nỗi lòng của mình đằng sau những thú

nhàn nơi thôn quê yên bình vắng vẻ? “Nhàn” có thể chỉ là cách nói của
Nguyễn Trãi trong những bài thơ của mình. Đằng sau đó là nỗi lòng đau đáu
của một trung thần yêu nước thương dân chỉ muốn cống hiến tài chí của
mình cho đất nước, nhân dân…
2.3 Cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi là cái nhàn che giấu nỗi đau lòng.
Xuất phát từ nghịch lý “yêu lối sống nhàn nhưng lại đau khổ khi sống
nhàn” của Nguyễn Trãi chúng ta lại tự đặt câu hỏi cho mình rằng: Tại sao
Nguyễn Trãi yêu lối sống nhàn nhưng lại đau khổ trong cảnh nhàn?
Và “cái đau khổ ấy chính là nỗi đau lòng của nhà thơ được che giấu bởi chữ
nhàn”?
Nguyễn Trãi làm quan dưới hai triều đại và không ít lần về ở ẩn và lại được
mời ra làm quan. Chính vì tấm lòng “ưu quốc ái dân” mà Nguyễn Trãi mới
trở lại làm quan và cống hiến tài trí của mình cho đất nước. Vì dân, vì nước
chính là tư tưởng chính mà nhà thơ đã lựa chọn và nguyện suốt đời thực
hiện. Sống nhàn tức là ông đã không thực hiện được lý tưởng vì dân vì nước
vì thế cho nên lúc ở ẩn trong lòng ông lúc nào cũng canh cánh nỗi lo cho
dân, cho nước.
Nguyễn Trãi tuy có nói tới thú ẩn gia nhưng trong lòng ông đâu có được
thanh nhàn. Dù say sưa với thú nhàn, khao khát sống nhàn nhưng tấm lòng
ưu quốc ái dân vẫn cuồn cuộn như nước biển Đông:
“ Chân mềm ngại bước dặm mây xanh
5


Quê cũ tìm về cảnh cũ thanh.
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh.
Ơn tư là ấy yêu dường chúa,
Lỗi thác vì nơi lụy bởi danh.
Bui có một niềm trung hiếu cũ

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.” (Bảo kính cảnh giới, bài XXXI)
Khi tác giả đã lui về ẩn nhưng tấm lòng vẫn hướng về chốn quan trường.
Tuy không còn thú làm quan, bỏ qua lợi lộc công danh nhưng khát khao
cống hiến cho đất nước thì vẫn còn đó. Tác giả hoài niệm về nơi mình làm
việc trước kia tại “gác vân”- nơi mà ông đã từng là Thừa chỉ học sĩ đứng
đầu Hàn lâm viện. Vẫn còn đó lòng biết ơn với vua, lòng trung hiếu xưa, nay
vẫn không hề mai một...
Nỗi lòng của Nguyễn Trãi không biết ngỏ cùng ai, lấy ai cho thấu nỗi lòng
này của ông. Chỉ có trăng, hoa, cây cỏ, muông thú làm bầu bạn. Hòa mình
vào thiên nhiên, lấy thú nhàn để quên đi nỗi đau lòng của một thời mà nay
đã đi vào dĩ vãng…
Khi sống trong cảnh nhàn theo lý mà nói thì lúc đó con người ta không
còn ưu phiền gì nữa, tự do tự tại và luôn trong trạng thái thoải mái nhất. Thế
nhưng Nguyễn Trãi sống trong cảnh nhàn nhưng ông lại đau khổ:
“ Càng một ngày càng ngặt đến xương,
Ắt vì số mệnh ắt văn chương.
Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu,
Kẻ hãy bằng quỳ hướng thái dương.
Chè thuở tiên thì mình kín nước,
Cầm khi đàn khiến thiếp thiêu hương.
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
6


Viên hạc chăng hờn lại những hương. (Tự thán, bài I)
“ Mười năm đọc sách nghèo đến xương” cũng vì số mệnh văn chương đã ăn
sâu vào cuộc đời Nguyễn Trãi. “cúc qua trùng cửu” chỉ hoa cúc nở vào tiết
trùng cửu mùng chín tháng chín.
Hoa cúc nở trước tiết này mới quý, qua tiết này thì không còn ai quý nữa.
Nguyễn Trãi có ý ngại rằng tài năng của mình không còn được coi là hợp

thời nữa. Thử hỏi rằng có nỗi đau nào đau bằng nỗi đau khi người đời lãng
quên mình và tài năng của mình. Trong khi đó tác giả vẫn luôn hướng về
vua, về đất nước: “Kẻ hãy bằng quỳ hướng thái dương”. Thái dương ở đây
chỉ vua mà lòng tác giả vẫn như hoa quỳ luôn hướng về phía nhà vua.
“ Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
Viên hạc chăng hờn lại những hương”
Chiêm bao thấy vượn hạc ở non quê hờn vì mình chưa về với với chúng mà
lại thương mình sao lận đận thế này. Nguyễn Trãi thấy mình trong đó mà
không khỏi đau xót…
Những nỗi lòng không biết tâm sự dãi bày cùng ai, những nỗi buồn, nỗi
đau khi chưa thực hiện được lý tưởng, những tâm nguyện lớn mà mục đích
chính là mong sao “quốc thái dân an” mà Nguyễn Trãi chưa thể thực hiện
được. Nó đã biến thành những nỗi đau mà tác giả không biết giấu nó đi thế
nào, chỉ còn cách đó là mượn thú “nhàn” nơi thôn quê thanh bình đề làm
nguôi ngoai đi nỗi đau và mục đích chính là che giấu đi nỗi đau ấy để người
đời không biết…
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi đã đúng khi cho rằng: “Rõ ràng cái
“nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một cách nói của nhà thơ, một cách ông
che giấu nỗi đau lòng”. Có thể Nguyễn Trãi nhàn về nhiều thứ khi chọn cách
sống ẩn dật nhưng cái tâm của ông không lúc nào được an nhàn cả. Vì trong
ông vẫn luôn ấp ủ một nỗi niềm “ưu quốc ái dân” bất diệt.
7


2.4 Phân tích mở rộng: Chữ “nhàn” trong Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi với “nhàn” trong thơ của của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy được nỗi
đau lòng được che giấu trong chữ “nhàn” của hai nhà thơ.
Những nhà Nho chân chính ở Việt Nam thời Trung đại, thường gặp nhau ở
một điểm cơ bản dễ thấy, đó chính là lý tưởng đại dụng: “Tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Bởi thế, họ ra sức dùi mài Kinh Sử, mong được đỗ đạt,

bia đá bảng vàng, trước hết, để “vinh thân”, sau nữa là “phì gia” và cao hơn
là giúp vua giúp nước. Xét cho cùng, đó là lý tưởng sống đẹp đẽ, mang đậm
dấu ấn lịch sử và tinh thần thời đại.
Điểm thứ hai, cũng dễ thấy ở các nhà Nho Việt Nam là quan niệm “xuất”
và “xử”. Nghĩa là gặp “chúa Thánh vua Hiền” thì gắng đem hết tài “Lương
đống” với mong mỏi “Những vì Chúa Thánh âu đời trị” ( Nguyễn Trãi).
Nhưng khi gặp thời loạn, ước mơ một xã hội “vua Nghiêu Thuấn dân
Nghiêu Thuấn” không phỉ sở nguyền…thì họ sẵn sàng cởi áo từ quan về
sống cảnh thanh nhàn, xa lánh chốn quan trường “đào mận ngặt chăng
thông”, dơ bẩn, cố giữ mình trong sạch thanh cao. Khí tiết nhà Nho như thế,
thật là những nhân cách lớn, đủ để làm tấm gương cho đời soi chung! Đã có
nhiều những nhà Nho như thế xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử các triều
đại Phong kiến Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu như “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường” (Nguyễn Du)
thì chữ “Nhàn” với các nhà Nho Việt Nam, cũng thật lắm hình nhiều vẻ. Mỗi
người, với những cảnh ngộ khác nhau, điều kiện lịch sử chi phối khác nhau,
tâm tính khác nhau, bản lĩnh khác nhau, ngoài điểm chung có tính hình thức
là lui về ẩn dật ở “nơi vắng vẻ”, cũng có chỗ khác nhau ở chữ “Nhàn” này.
Xem xét trường hợp Nguyễn Trãi (1380-1442) và Nguyễn Bỉnh Khiêm
(11491-1585) qua một số bài thơ tiêu biểu, sẽ thấy hiện lên chân dung đích
8


thực của hai nhà Nho cỡ lớn của một thời kỳ lịch sử có biết bao biến cố
thăng trầm.
Trước hết, với Nguyễn Trãi, cái gọi là cảnh sống nhàn dật khi đất nước
vừa thoát khỏi chiến tranh xâm lược, có thể nói ngay rằng, đó hoàn toàn
không phải là sở nguyện của ông. Nguyễn Trãi từng tự xem mình cốt cách
thanh cao, tài “lương đống” đủ làm rường cột cho nước nhà, lại quý hiếm
như “phục linh hổ phách”, ông còn muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho dân

cho nước, như “con ngựa già còn ham rong ruổi”. Bởi thế, Nguyễn Trãi
chẳng muốn sống cuộc sống thanh nhàn mà ông hoàn toàn có quyền được
hưởng. Nguyễn Trãi từng viết những câu thơ tâm huyết thế này:
…“ Những vì Thánh Chúa âu đời trị
Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn!”
Vậy nên, dù ông viết: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”.(Bảo kính cảnh giới
số XXXXIII) hoặc như có vẻ như lý sự:
“Một phút thanh nhàn trong buổi ấy
Nghìn vàng ước đổi được hay chăng?”
(Tự thán, bài XII)
Lại còn tỏ ra an phận, tự an ủi lấy mình:
“Lều nhàn vô sự ấy lâu dài,
Nằm ở chẳng từng khuất nhiễu ai.”
(Tự thán-XVI)
Thì đó cũng chỉ là một chút tâm tư thầm kín, một chút dỗi hờn bất đắc
chí của kẻ có tài mà bỗng dưng bị vô hiệu hoá, thất sủng, bị gạt ra ngoài đời
sống chính trị của đất nước, nhất là khi đất nước đang rất cần đến ông để sửa
sang việc nước, củng cố hoà bình sau chiến tranh tàn phá. Nỗi đau đớn day
dứt giằng xé trong tâm hồn Nguyễn Trãi, phải tìm ở phía sau, ở phía khuất
lấp của những câu thơ có vẻ “nhàn” mà nặng trĩu tâm tư của người anh hùng
9


thất thế. Dẫu sao, chính vì có những năm tháng “thất nghiệp” như vậy,
Nguyễn Trãi mới có dịp gần đời hơn, gần thiên nhiên hơn và do đó, ông đã
để lại cho đời những bài thơ Nôm vào loại kiệt tác, truyền mãi đến muôn
sau.
Nguyễn Bỉnh Khiêm ra đời sau cái chết oan khuất của Nguyễn Trãi
gần nửa thế kỷ. Cũng lại tới gần nửa thế kỷ sau ông mới đi thi, đỗ ngay trạng
nguyên triều Mạc Đăng Doanh. Những tưởng được đem tài học giúp đời,

nhưng tiếc thay sở nguyện của ông chẳng thành. Ông dâng tấu xin vua chém
đủ mười tám tên lộng thần tham nhũng, nhưng không được vua nghe theo.
Trạng Trình liền cáo quan về thẳng, không mảy may băn khoăn luyến tiếc.
Điểm này thì ông có phần hơi khác với Ức Trai. Ông tự vui với thú nhàn, với
tự do tự tại:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào”…
Rồi ông tự xem mình là kẻ dại khờ. Ông đem cái dại cái khờ cái ngu của
mình mà đối lập với cái khôn cái ngoan cái khéo của người đời:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Câu thơ như thoáng một chút kiêu hãnh của bậc thức giả có thừa kinh
nghiệm, có thừa từng trải việc đời, lại có vẻ như ngầm mỉa mai những kẻ
thật là khôn mà lại hóa ra là dại. Ông rất vừa lòng với cuộc sống ở “nơi
vắng vẻ” của mình, dẫu cho cuộc sống sinh hoạt thường ngày có phần đạm
bạc, đơn sơ, dân dã mà hoàn toàn trong sạch thanh cao:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”…
Về sự dại sự khôn, trước Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm một thế kỷ, Ức
Trai Nguyễn Trãi cũng đã từng hào hứng “tuyên bố” rằng:
10


“Hễ kẻ làm khôn thời phải khó
Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho!” (Bảo kính cảnh giới, bài
XL-IX)
Tuy nhiên, Ức Trai chỉ nói cho đỡ cơn buồn cơn giận, chứ làm sao mà ông
có thể ngáy pho pho, bởi trong lòng ông chưa bao giờ yên tĩnh:
“Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”… (Thuật hứng, bài XXIII)

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, thực sự ông không hề muốn trở lại chốn quan
trường đầy nhố nhăng, đầy mưu toan cướp giật và trục lợi. Bằng chứng là
nhà Mạc đã nhiều lần mời ông trở lại, thậm chí ban thêm tước Trình Quốc
Công nữa (khi ông cáo quan mới có tước Trình Tuyền Hầu), nhưng ông nhất
mực từ chối mà thảnh thơi “ngồi xem phú quý tựa chiêm bao”, mà buồn cho
cái sự đời đảo điên, buồn cho “thế gian biến cải vũng nên đồi”! Từ bỏ con
đường danh lợi sau tám năm làm quan cho nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm
sống thanh thản với thú nhàn ở nơi vắng vẻ. Ông cho rằng “ ở trong được
thú vui của tâm, của thân; bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho
hình xác” (Cảm hứng). Tuy nhiên, cũng như Nguyễn Trãi, trong tư tưởng và
hành động, cả hai ông đều chẳng có lúc nào nhàn cả! Nguyễn Bỉnh Khiêm ở
quê, dù không tham dự chính sự một cách trực tiếp, nhưng tấm lòng ông
không thể nguôi ngoai, không thể nào yên tĩnh, không thể nào“nhàn” được,
vì đất nước còn lắm khổ đau, nhân dân còn lầm than, loạn lạc trong cuộc
chiến giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê-Mạc, rồi sau là cả
Trịnh- Nguyễn…Lại thêm những cuộc nổi loạn của các loạn thần, những
quan lại có thế lực bất mãn. Chiến tranh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn
không ngừng không nghỉ. Bài thơ “Hữu cảm” có thể xem là tiêu biểu cho
tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm được ông viết sau
loạn cuối năm Nguyên Hoà thứ 14, đời Mạc Phúc Nguyên, tức năm 1546:
11


“Giặc dã ngông cuồng lấn đế kinh
Vua lo, tôi nhục, thật thương tình
Mong vua, khắc khoải lòng dân vọng
Trừ bạo ai người dấy nghĩa binh?
Bốn bể theo về mưa móc cũ
Trời cao sáng lại sắc thanh bình.”
Rồi tác giả kết luận bài thơ như một bài học lịch sử, như một tiếng chuông

cảnh tỉnh, như một chân lý giản dị mà vô cùng sâu sắc:
“Xưa nay nhân giả là vô địch
Lọ phải ôm hoài mộng chiến tranh”
(Vũ Bình Lục dịch thơ)
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng ông muốn quên hết sự đời, tự nhận mình
là Khách tiên; lại khi “Một mai một cuốc một cần câu / thơ thẩn nào ai vui
thú nào”…nhưng thực ra ông vẫn luôn hành động. Ông cho dựng Quán
Trung Tân để giao du cùng những bậc thức giả trong thiên hạ. Ông mở lớp
dạy học, tự nguyện làm thầy đào tạo cho đời nhiều nhân tài lỗi lạc. Hóa ra,
ông vẫn cống hiến cho đời ở một lĩnh vực khác thanh tao, trong sạch và cao
quý. Việc ông tắm táp, ăn uống xuề xòa, thảnh thơi vô sự nói trong thơ, đó
chỉ là cách ông chỉ nói cho vui, thoang thoáng tự trào cho đủ lệ bộ như một
hàn Nho ngoài vòng cương tỏa của “chốn lao xao” mà thôi. Rõ ràng,
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, mỗi người một thời một thế. Có người
quằn quại đớn đau, ngậm sầu nuốt tủi. Có người ăn chua uống chát, cố dấu
đi bao nỗi niềm vào nghiên mực…Văn chương Nguyễn Trãi cao khiết, sừng
sững như Thái Sơn; còn cái tình của Phu Tử (Trạng Trình) thì dạt dào như
sông Tuyết. Nhân cách nhà Nho của hai ông lại hoàn toàn tương đồng, đều
là những nhân cách lớn, đối lập hoàn toàn với hạng nhà Nho tầm thường,
hạng nhà Nho mà “Muốn chê họ, chẳng có gì chê, muốn trách họ thì chẳng
12


có chỗ gì trách! Họ đồng hoá theo thói tục thông thường, họ dung hợp với
cõi ô trọc. Họ có vẻ trung tín, hành vi của họ có vẻ liêm khiết. Dân chúng có
vẻ thích họ mà họ cũng tự nhận mình là trung tín, liêm khiết, nhưng họ
không thể cùng đi với đạo Thuấn, Nghiêu” (Tận tâm Hạ-Mạnh Tử). Khổng
Tử thì gọi những hạng người như vậy là “kẻ thù của đức”.
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là những nhà văn hoá lớn
nhưng buồn thay, cả hai ông đều là những người bất đắc chí, tuy mỗi người

một cảnh ngộ khác nhau. Song có một điều thú vị là cả hai nhà Nho lớn này
đều gặp nhau ở một điểm, ấy là cái tâm trong sáng và cao thượng. Yêu nước
thương dân hết mực và suốt đời hành động vì nghĩa lớn cao cả, nhưng buộc
phải “nhàn cư” vì thất sủng hoặc được trọng dụng nhưng vì chán ghét thời
thế mà lui về để giữ mình khỏi chết chìm trong ô trọc, đó là “những bi kịch
của những con người lỗi lạc với những nỗi đau lòng thầm kín buộc phải giấu
nó trong thú “nhàn” của riêng mình!”
3. Kết luận
Qua việc tìm hiểu Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và một số bài thơ
nói về thú “nhàn” của ông mà ta đã thấy bao nỗi đau lòng được ẩn chứa
trong đó. Những nỗi lòng không biết không biết tâm sự cùng ai, chỉ biết lấy
thiên nhiên, cây cỏ, chim muông, tửu nguyệt ra tâm sự… Những trang thơ
“Nhàn” là những trang của những nỗi lòng thầm kín…
Có thể nói sự đánh giá của nhà nghiên cứu GS. Nguyễn Đổng Chi đã đúng
khi cho rằng: “Rõ ràng cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một cách nói
của nhà thơ, một cách ông che giấu nỗi đau lòng”
Và quả thật đúng như vậy khi ta thâm nhập vào những bài thơ nói về nhàn
ta mới thấy hết được những tâm sự trong đó. Một lý tưởng cao cả, một tình
yêu bao la mà Nguyễn Trãi dành chọn cho dân cho nước…
13


4. Tài liệu tham khảo
1. Lê Bá Hán (chủ biên) (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.
2. Nguyễn Lộc (1998), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X – giữa thế kỉ XVIII,
Nxb giáo dục.
3. Phạm Luận (2012), Nguyễn Trãi – Quốc âm thi tập, Nxb giáo dục.
4. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2010), Văn học trung đại Việt Nam ( tập 1),
Nxb Đại học sư phạm.
5. Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb giáo dục

6. />7. />
14



×