Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

ẩn dụ tri nhận trong thơ nguyễn duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952 KB, 136 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




TRỊNH THỊ HẢI YẾN




ẨN DỤ TRI NHẬN
TRONG THƠ NGUYỄN DUY

Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐỨC TỒN







THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Cấu trúc luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN
1.1. Ẩn dụ tri nhận .10
1.1.1 Các quan niệm truyền thống về ẩn dụ 10
1.1.2. Các quan niệm mới về ẩn dụ 12
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Nguyễn Duy 32
1.2.1. Vài nét về Nguyễn Duy 32
1.2.2. Sự nghiệp thơ Nguyễn Duy 36.
1.3. Tiểu kết 39
CHƢƠNG 2
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

2
ẨN DỤ CẤU TRÚC TRONG THƠ NGUYỄN DUY

2.1. Về khái niệm ẩn dụ tri nhận 40
2.2 Giới thiệu về tuyển tập thơ Ngyễn Duy 42
2.3. Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy 46
2.3.1. Giới thiệu chung 46
2.2.2.Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy 47
2.2.2.1.Bảng thống kê chung 47
2.2.2.2. Ẩn dụ cấu trúc trong từng phần thơ 48
2.4 Khảo sát phân tích 51
2.4.1. Nguồn biểu trƣng là bộ phận cơ thể con ngƣời 53
2.4.1.1. Nguồn biểu trƣng là bộ phận bên ngoài cơ thể con ngƣời 54
2.4.1.2. Nguồn biểu trƣng là bộ phận bên trong cơ thể con ngƣời 59
2.4.2. Nguồn biểu trƣng từ thế giới tự nhiên 65
2.4.2.1.Nguồn biểu trƣng từ thế giới động vât 65
2.4.2.2 Nguồn biểu trƣng từ thế giới thực vật 68
2.4.2.3Nguồn biểu trƣng từ hiện tƣợng tự nhiên 73
2.4.3.Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng trong cuộc sống .78
2.4.3.1. Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng thuộc văn hoá phong tục 80
2.4.3.2. Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng thuộc đời sống lao động sản
xuất của con ngƣời 83
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

3

2.5. Tiểu kết 85
CHƢƠNG 3
ẨN DỤ BẢN THỂ TRONG THƠ NGUYỄN DUY
3.1. Về khái niệm ẩn dụ bản thể 87
3.2. Khảo sát chung 88
3.3. Các ẩn dụ bản thể trong thơ Nguyễn Duy 89
3.2.1. Ẩn dụ vật chứa, không gian hạn chế 90

3.2.2. Ẩn dụ vật chứa, công việc, hoạt động, trạng thái, tính chất 97
3.3. Tiểu kết 101

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO









Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

4



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Ẩn dụ xuyên suốt cuộc sống đời thường của chúng ta và thể hiện không
chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành động” (G. Lakoff và M.
Johnson, 1990, tr. 378).
Từ quan điểm của G. Lakoff và M. Johnson, chúng ta thấy rằng trong quá
trình phát triển của mình, bất kì ngôn ngữ tự nhiên nào cũng đều sử dụng ẩn
dụ với tƣ cách là công cụ để phát triển ngữ nghĩa, phát triển vốn từ. Đồng
thời ẩn dụ cũng là phƣơng tiện của tƣ duy để con ngƣời miêu tả thế giới,
hiện thực hoá khả năng nhận thức thế giới, cải tạo thế giới và sáng tạo tinh

thần.
Hiện nay, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, ngày càng có nhiều công
trình nghiên cứu quan tâm đến ẩn dụ. Đã có nhiều công trình ngôn ngữ học
hƣớng tới miêu tả các các cấu trúc ẩn dụ không chỉ ở phạm vi chật hẹp của
những đơn vị ngôn ngữ riêng lẻ nhƣ từ, câu, mà mở rộng ra các loại ngôn
bản nhƣ ca dao, tục ngữ, thơ và trong những lĩnh vực đời sống, xã hội.
Vậy, vai trò và ứng dụng của ẩn dụ không còn chỉ là những phƣơng tiện
tạo ra những giá trị mĩ học mà còn nâng cao thành phƣơng tiện của tƣ duy
đời thƣờng, làm phong phú sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và con
ngƣời.
Và chính sự khám phá hiện thực, óc liên tƣởng về sự vật, hiện tƣợng
trong thế giới khách quan của mỗi nhà thơ có tƣ duy khác nhau là nguồn
thôi thúc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Ẩn dụ tri nhận trong thơ
Nguyễn Duy” là đối tƣợng nghiên cứu của luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Nguyễn Duy sinh tại Thanh Hoá. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, năm
1965, ông về làm ruộng kiêm làm dân quân trực chiến máy bay Mĩ. Năm
1966, Nguyễn Duy nhập ngũ, làm lính thông tin và làm báo trong quân đội.
Trong suốt thời gian từ 1971 đến 1975, Nguyễn Duy theo học khoa Ngữ
văn, Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà nội, làm báo văn nghệ giải phóng, rồi
làm báo văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Duy đã giành
đƣợc nhiều giải thƣởng cao quý:
Giải nhất cuộc thi thơ 1972 – 1973 của Tuần báo văn nghệ.
Giải thƣởng thơ hạng A năm 1985 cuả Hội nhà văn Việt Nam.
Giải thƣởng nhà nƣớc về văn học nghệ thuật năm 2007.
Nguyễn Duy là nhà thơ hiện đại đƣợc công chúng yêu mến. Ông nổi lên
là một nhà thơ xuất sắc với thể thơ lục bát đƣợc giới phê bình đánh giá là

ngƣời đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống lục bát. Nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn đã nhận định: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ
Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó”.
Nghiên cứu đề tài ẩn dụ tri nhận trong thơ Nguyễn Duy sẽ góp phần thúc
đẩy sự phát triển việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhân, một vấn đề lý luận
còn mới mẻ đối với ngôn ngữ học nƣớc ta. Ngoài ra nghiên cứu đề tài này
còn giúp ích cho việc tìm hiểu những ngôn bản văn học trong nhà trƣờng đạt
kết quả cao.
2. Lịch sử vấn đề
Trong nghiên cứu Việt ngữ học, ẩn dụ tri nhận là một khái niệm còn
tƣơng đối mới mẻ. Ngƣời đầu tiên đề cập một cách gián tiếp đến vấn đề có
liên quan đến ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam dƣới thuật ngữ “tri giác” là
Nguyễn Đức Tồn trong cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (Trong sự so sánh với các dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

6
khác”(Nxb ĐHQG HN, 2002). Sau đó (năm 2007) Nguyễn Đức Tồn có bài
viết trực tiếp bàn về Bản chất ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận (Bản chất của ẩn dụ,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 10& 11, 2007).
Năm 2005 vấn đề ngôn ngữ học tri nhận đã đƣợc nghiên cứu trong cuốn
“Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt ”( Lý
Toàn Thắng, Nxb KHXH, H, 2005). Trọng tâm cuốn sách là vấn đề tri nhận
không gian nên tác giả cuốn sách chƣa dành một vị trí xứng đáng cho khái
niệm ẩn dụ tri nhận cũng nhƣ khảo sát bƣớc đầu về nó.
Chuyên luận tiếp theo về ngôn ngữ học tri nhận của Trần Văn Cơ với
nhan đề: “Khảo luận ẩn dụ tri nhận”(NXB Lao động – Xã hội, 2009).Tác
giả cũng chỉ bàn về sự ra đời của ẩn dụ, bản chất ẩn dụ và sự phân lọai các
kiểu loại ẩn dụ tri nhận (gồm: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định
hƣớng và ẩn dụ kênh liên lạc).

Tác giả Hà Công Tài quan tâm chủ yếu tới đặc điểm và vai trò ẩn dụ
trong việc xây dựng các hình tƣợng hoặc hình thể trong thơ ca. Một số đề tài
khoá luận, luận văn thạc sĩ cũng quan tâm tìm hiểu về ẩn dụ tri nhận. Luận
án Tiến sĩ So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình Việt Nam của tác giả
Hoàng Thị Kim Ngọc. Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận trong ca dao của tác
giả Bùi Thị Dung, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, 2008. Và
Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận, mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ
của Trịnh Công Sơn của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, Đại học khoa
học xã hội và nhân văn T.P Hồ Chí Minh, 2009. Luận Văn đã đƣợc PGS.TS
KH Trần Văn Cơ nhận xét là “đã làm được một việc có ý nghĩa: tự giải
thoát khỏi chiếc vòng kim cô của ngôn ngữ học thế kỉ XX”.
Nhƣ vậy, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu thành công vể ẩn dụ
tri nhận, nhƣng việc nghiên cứu ẩn dụ trong trong thơ là một vấn đề vẫn còn
ít đƣợc quan tâm.Vì vậy, với luận văn này, chúng tôi muốn góp phần vào
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

7
việc làm sáng tỏ thêm về ẩn dụ tri nhận, đặc biệt là ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ
bản thể trong thơ Nguyễn Duy. Và nguồn tƣ liệu phong phú của thơ Nguyễn
Duy sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về ẩn dụ tri nhận trong những tác
phẩm của ông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, luận văn nhằm đạt đƣợc những mục
đích sau:
3.1.1. Hệ thống hoá những kiến thức lí luận về ẩn dụ tri nhận và cơ chế
nhận biết ẩn dụ tri nhận;
3.1.2. Tiến hành khảo sát ẩn dụ trong thơ Nguyễn Duy dƣới góc độ ngôn
ngữ học tri nhận, cụ thể là kiểu loại ẩn dụ cấu trúc là chủ yếu, đồng thời
qua cơ chế của ẩn dụ và nhân sinh quan của nhà thơ, chúng ta có sơ sở để

khẳng định những thành công của tác giả trong việc sử dụng và sáng tạo
ngôn ngữ dân tộc;
3.1.3. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc, luận văn sẽ đúc rút ra
những bài học cần thiết cho việc dạy và học văn trong nhà trƣờng phổ
thông đạt kết quả cao hơn về phƣơng diện nội dung và phƣơng diện nghệ
thuật.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào một số nhiệm vụ sau:
1) Thống kê và phân loại các ẩn dụ trong trong Tuyển tập thơ
Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn, Nhã Nam, 2010;
2) Khảo sát và mô tả các ẩn dụ trong tập thơ trên;
3) Phân tích vai trò của ẩn dụ trong các bài thơ để thấy giá trị
thẩm mỹ của chúng.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

8
4) Chỉ ra những nét riêng, mang tính sáng tạo của hình tƣợng nhờ
hệ thống các ẩn dụ trong thơ Nguyễn Duy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là ẩn dụ tri nhận trong thơ Nguyễn
Duy. Qua tƣ liệu khảo sát và thống kê, chúng tôi thấy rằng thơ Nguyễn Duy
chỉ sử dụng chủ yếu hai loại ẩn dụ tri nhận là Ẩn dụ cấu trúc và Ẩn dụ bản
thể. Vì vậy luận văn tìm hiểu và trình bày kết quả nghiên cứu hai kiểu ẩn
dụ tri nhận này trong thơ ông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tƣ liệu đƣợc khảo sát chủ yếu trong luận văn là Tuyển tập thơ
Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn, Nhã Nam, 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp sau:
5.1. Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn
Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa bê mặt ngôn từ và nghĩa biểu trƣng
của hiện tƣợng ẩn dụ xuất hiện trong ngữ cảnh nhất định để thấy giá trị
của chúng.
5.2.Phƣơng pháp miêu tả
Trên cơ sở lý luận chung, luận văn tiến hành miêu tả các ẩn dụ tri nhận
trong tập thơ để phát hiện những giá trị ẩn sau chúng mà tác giả đã gởi gắm
trong mỗi bài thơ.
5.3. Phƣơng pháp thống kê
Trên cơ sở tập hợp ngữ liệu về các loại ẩn dụ trong thơ, luận văn tiến
hành phân loại chúng thành các tiểu loại theo các chủ đề và tìm tần số
xuất hiện, giá trị biểu đạt của chúng trong văn bản tập thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

9
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liêu tham khảo, Luận văn gồm
các chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn
Chƣơng 2: Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy
Chƣơng 3: Ẩn dụ bản thể trong thơ Nguyễn Duy






















Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận
1.1.1. Các quan niệm truyền thống về ẩn dụ
Trong lý thuyết ngôn ngữ học cổ điển, ẩn dụ đƣợc coi là một vấn đề
thuộc ngôn ngữ chứ không phải là vấn đề của tƣ duy. Lối nói ẩn dụ đƣợc cho
là không có trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày
không có ẩn dụ. Nói cách khác, ẩn dụ chỉ đƣợc dùng trong các địa hạt bên
ngoài ngôn ngữ đời thƣờng. Trong nhiều thế kỷ, ngƣời ta đã quá tin vào lý
thuyết cổ điển, tới mức, chẳng hề nhận ra đƣợc rằng chẳng qua nó cũng chỉ
là lý thuyết mà thôi. Ngƣời ta không chỉ tin lý thuyết đó là thật, mà còn lấy
nó để làm định nghĩa. Phép ẩn dụ (metaphor) đƣợc định nghĩa là cách biểu
đạt ngôn ngữ của tiểu thuyết hoặc thi ca trong khi chỉ có một hay vài từ chỉ
một khái niệm nào đó đƣợc dùng vƣợt ra ngoài ý nghĩa thông thƣờng của nó

để diễn đạt một khái niệm tƣơng tự
Ẩn dụ trong ngôn ngữ là một lĩnh vực đƣợc giới nghiên cứu ngôn ngữ
rất quan tâm bởi ẩn dụ là một hình thái một cụm từ đƣợc dùng để thể hiện
một cụm từ khác có cùng hoặc gần sắc thái nghĩa. Việc sử dụng ẩn dụ đƣợc
các tác giả đánh giá là sinh động và có tính chủ động hơn lối suy diễn thông
thƣờng. Một số các phƣơng pháp tu từ khác cũng dùng để so sánh các sự vật
nhƣ là phép hoán dụ, phép so sánh, cách nói bóng gió hay kể cả chuyện ngụ
ngôn bởi chúng có khá nhiều nét chung với lối ẩn dụ mặc dù cũng có một
đôi nét khác biệt trong cách mà sự vật đƣợc so sánh.
Theo quan niệm truyền thống về ẩn dụ, các tác giả có điểm chung khi
nói vê ẩn dụ đƣợc Nguyễn Đức Tồn tổng kêt lại trong Một cái nhìn mới về
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

11
bản chất ẩn dụ: “Ẩn dụ là phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên
sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau” [27,1]
Trong Dẫn luận ngôn ngữ học, A.A . Reformatxky giải thích: “Ẩn dụ
theo nghĩa chiết tự là sự chuyển đổi, là trường hợp chuyển nghĩa điển hình
nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự vật về
màu sắc., hình thức, đặc tính vân động”[38, 54].
Theo B.N. Golovin thì: “Sự chuyển đổi của các từ từ một đối tượng
này sang một đối tượng khác trên cơ sở giống nhau của chúng được gọi là
ẩn dụ” [37, 81]
Ju. X. Xtepanôp cho rằng: “Bản thân từ Metaphora từ tiếng Hy lạp
cũng có nghĩa là “sự chuyển nghĩa” và khi “một từ tuy vẫn còn liên hệ với
biểu vật cũ nhưng lại có sự liên hệ với cái biểu vật mới thì hiện tượng ngôn
ngữ đó là ẩn dụ” [36, 51-52]
Các nhà Việt ngữ học cũng có những quan điểm tƣơng tự. Chẳng hạn,
Nguyễn Văn Tu cho rằng: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên của
một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó

chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ theo tưởng
tượng của ta mà gọi một sự vật, chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ
biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy
mối quan hệ giữa các sự vật khác nhau” [31, 159].
Theo Nguyễn Lân thì ẩn dụ là : “Phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa
trên sự tương đồng, sự giống nhau giữa các thuộc tính của cái dùng để
nói và cái nói đến”[14].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chyển đổi tên gọi dựa và
sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau ” [7,
126].
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Đào Thản cũng giải thích về ẩn dụ: “Ẩn dụ cũng là một lối so sánh
dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất hoặc
chức năng của hai đối tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song
hai phần đối tượng và phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần
để so sánh”[24].
Nhƣ vậy, tựu trung lại các tác giả khi xem xét vấn đề ẩn dụ đều có
điểm thống nhất ở cơ sở của ẩn dụ là sự “so sánh ngầm”, “chuyển đổi tên”
gọi hay “chuyển đổi nghĩa”. Nhƣ thế, các tác giả vẫn chƣa chỉ ra đƣợc rằng
sự so sánh các sự vật với nhau chỉ là cơ sở của hiện tƣợng ẩn dụ; và không
phải chỉ là phép so sánh ngang bằng; các sự vật tham gia vào quan hệ ẩn dụ
là khác loại nhau. Nguyễn Đức Tồn đã tổng kết và khắc phục các hạn chế
đó. Theo tác giả, dựa và đặc điểm, thuộc tính nào đó có thể đồng nhất hoá
các sự vật, hiện tƣợng khác loại nhau rồi lấy tên gọi (và các đặc điểm, thuộc
tính ) của sự vật, hiện tƣợng này (thƣờng mang tính cụ thể hơn) để thay thế
khi gọi tên hoặc nói về sự vật, hiện tƣợng kia (thƣờng mang tính trừu tƣợng
hơn) sẽ tạo ra đƣợc cách diến đạt ẩn dụ.
Tiếp đó, các quan điểm mới về ẩn dụ ngày càng giải quyết thấu đáo về

vấn đề ẩn dụ.
1.1.2. Quan niệm mới về ẩn dụ
Các quan điểm mới về ẩn dụ đƣợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu và chỉ ra rằng ẩn dụ không chỉ là hiện tƣợng của ngôn ngữ mà là
hiện tƣợng “hiện hữu trong tư duy và hành động thường nhật của chúng ta”
[32, 66].
Quan niệm cuả tác giả Phan Thế Hƣng về ẩn dụ đã có sự gần gũi với
quan niệm của các nhà ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ. Ông viết: “Ẩn dụ
không đơn giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại
thuộc về cấu trúc bề sâu của tư duy. Nói cách khác, hiểu sự so sánh không
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

13
phải là trung tâm của việc hiểu ẩn dụ, mà chính là hiểu được việc xếp
loại”[15, 12].
Theo GS. TS Nguyễn Đức Tồn: “Ẩn dụ là phép thay thế tên gọi hoặc
chuyển đặc điểm thuộc tính của sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở
sự liên tưởng đồng nhất hoá chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có
ở chúng” [28,8]. Tác giả cũng viết: “Hiện nay các nhà ngôn ngữ học nổi
tiếng thế giới như Lakoff và Johnson (1980) và những học giả khác đã
khẳng định rằng ẩn dụ không phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ, nói cụ thể
hơn, ẩn dụ được coi là phương thức tư duy của con người” [28,5]. “Từ đó
các nhà khoa học về ngôn ngữ và triết học đã xây dựng lý thuyết ẩn dụ ý
niệm để mô tả cách chúng ta hiểu các khái niệm trừu tƣợng khi đƣợc hiện
thân hoá qua trải nghiệm cảm xúc của chúng ta” [28, 5]. Nói đến ẩn dụ tri
nhận trƣớc hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm tri nhận, thuật ngữ ngôn ngữ
học tri nhận.
1.1.2.1. Ngôn ngữ học tri nhận
Tri nhận là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó “biểu hiện
môt qua trình nhận thức hoặc tổng thể những quá trình tâm lý – tri giác,

phạm trù hoá, tư duy, lời nói phục vụ cho việc xử lý lời nói, chế biến thông
tin. Nó bao gồm cả việc con người nhận thức và đánh giá cả bản thân mình
trong thế giới xung quanh và xây dựng thế giới đặc biệt - tất cả những cái
tạo thành cơ sở cho hành vi của con người” [1,58].
Nhƣ vậy, “Tri nhận là tất cả quá trình trong đó dữ liệu cảm tính được
cải biến khi truyền vào não dưới dạng những biểu hiện tinh thần (hình ảnh,
mệnh đề, khung, cảnh ) để có thể lưu lại trong trí nhớ của con người. [1,
58]
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

14
“Đôi khi tri nhận còn đƣợc định nghĩa nhƣ sự tính toán, nghĩa là xử lý thông
tin dƣới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác – thành
mật mã khác, thành cấu trúc khác” [1,58].
Các qua trình tri nhận bao gồm: quá trình nhận thức, ý niệm hoá,
phạm trù hoá, tri giác và các biểu hiện tinh thần đang diễn ra trong bộ não
của con ngƣời, nhờ đó con ngƣời nhận đƣợc những tri thức về thế giới.
Về Ngôn ngữ học tri nhận: Lý Toàn Thắng đã nêu rằng ngôn ngữ học
tri nhận đƣợc hiểu là “ một trƣờng phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến
hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của
con ngƣời về thế giới khách quan cũng nhƣ cái cách thức mà con ngƣời tri
giác và ý niệm hoá các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó”. Luận
văn này chúng tôi quan tâm đến vấn đề ẩn dụ tri nhận.
1.1.2.2. Ẩn dụ tri nhận
Khái niệm ẩn dụ tri nhận
Theo Black (1962), ẩn dụ chứa một "nội dung tri nhận xác thực"
(positive cognitive content), Michael Reddy, ngƣời đƣợc Lakoff coi là "thực
ra đã có những đóng góp vƣợt lên cả những điều mình khiêm nhƣờng đề ra"
đã cho rằng ẩn dụ là một quỹ tích của những suy nghĩ chứ không phải của
ngôn ngữ và nó là một phần đáng kể và thiết yếu của phƣơng cách ƣớc định

tri nhận thế giới (theo Lakoff,1993).
Có thể không phải là những ngƣời đầu tiên đặt ẩn dụ trong mối quan
hệ với tƣ duy mà cụ thể là khả năng tri nhận của con ngƣời nhƣng mốc quan
trọng trong sự phát triển của lý thuyết hiện đại của tri nhận luận về ẩn dụ
phải là 1980, khi công trình Metaphor we live by của G. Lakoff và M.
Johnson ra đời. Lakoff và Johnson (1980) cho rằng: “Hệ thống ý niệm đời
thƣờng của chúng ta, mà trong khuôn khổ của nó chúng ta suy nghĩ và hành
động, về bản chất là ẩn dụ ”. Chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ đƣợc quy
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

15
ƣớc hoá và từ vựng hoá và nhất là những ẩn dụ ý niệm (conceptual
metaphor) một cách thuần tuý ngôn ngữ học mà sự thực là chúng ta có suy
nghĩ hay ý niệm hoá phạm trù “đích” thông qua phạm trù “nguồn”.
Bởi hiện nay, tƣ liệu dịch thuật cũng nhƣ nghiên cứu về ngôn ngữ học tri
nhận ở nƣớc ta chƣa nhiều nên chúng tôi xin trích dịch nguyên một đoạn
trong tài liệu mang tên "Lý luận mới về ẩn dụ " (Lakoff, 1993) khi bàn về
khái niệm ẩn dụ dƣới quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận.
Lý thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập
khái quát có tính liên tƣởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tƣợng
hàng ngày nhƣ thời gian, trạng thái, thay đổi, nguyên nhân, kết quả hoặc
mục đích đều trở nên có tính ẩn dụ . Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có
tính liên tƣởng) chính là tâm điểm tuyệt đối của ngữ nghĩa học trong ngôn
ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là một sự mở rộng
của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ đƣợc dùng
đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thƣờng nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm
vô số những khái quát liên tƣởng, và hệ thống này đƣợc sử dụng trong ẩn dụ
văn học. Nhờ những kết quả thực chứng này, chữ ẩn dụ đã đƣợc dùng theo
một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ lúc này có nghĩa là một
khái quát có tính liên tƣởng trong hệ thống khái niệm. Khái niệm sự diễn đạt

có tính ẩn dụ đƣợc dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ, một cụm
từ, hoặc một câu) thực hiện đƣợc sự khái quát có tính liên tƣởng đó. [ ]
Khác với ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ ý niệm (hay tri nhận), ngoài
chức năng quy ƣớc hóa và từ vựng hóa còn có chức năng ý niệm hóa, thể
hiện cách tƣ duy, tri nhận về sự vật của ngƣời bản ngữ theo những phƣơng
thức nhất định.
Lý Toàn Thắng đã nói đến tầm quan trọng của ẩn dụ tri nhận trong
ngôn ngữ đặt trong sự so sánh với ẩn dụ - theo cách hiểu truyền thống và tu
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

16
từ học. Theo ông: “Ẩn dụ theo truyền thống văn học và tu từ học thường
được coi là một trong hai (cùng với hoán dụ) kiểu chính của phép dùng từ
theo nghĩa bóng, được xây dựng trên những khái niệm về sự tương tự và so
sánh giữa nghĩa đen và nghĩa bóng của từ ngữ; thí dụ chân núi (so với: chân
người); ánh sáng chân lý ( so với: ánh sáng mặt trời ) . Tuy nhiên, chúng ta
chưa khảo sát và chưa đánh giá hết tầm quan trọng của ẩn dụ trong ngôn
ngữ đời thường hàng ngày và nhất là như một công cụ tri nhận mạnh mẽ để
ý niệm hoá các phạm trù trừu tượng ”[30, 28]. Nếu nhƣ ẩn dụ theo quan
điểm truyền thống bao giờ cũng mang tính quy ƣớc do đƣợc tạo thành trong
một cộng đồng văn hoá – ngôn ngữ và đƣợc từ vựng hoá trong các hình thức
từ ngữ thì ẩn dụ tri nhận đƣợc xem là “công cụ tri nhận”(Black (1962)). Từ
những dẫn giải về ẩn dụ, Lý Toàn Thắng đã đƣa ra cách hiểu mới về ẩn dụ: “
Ẩn dụ ý niệm là một sự chuyển di (transfer) hay một sự đồ hoạ (mapping)
cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích”
[ 28,30]. Cụ thể hơn, ông viết: “Thông thường các phạm trù ở mô hình
nguồn cụ thể hơn, nghĩa là chúng ta thường dựa vào kinh nghiệm của mình
về những con người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý
niệm hoá các phạm trù trừu tượng”[ 30, 30]. Ông dẫn các ví dụ điển hình
nhƣ : thời gian là tiền bạc, tình yêu là một cuộc hành trình Trong đó, tiền

bạc, cuộc hành trình là nguồn; thời gian, tình yêu là đích. Chẳng hạn, chúng
ta có thể dùng sắp hết tiền và cũng có thể dùng sắp hết thời gian; hoặc có
thể dùng tiêu tốn thời gian và tiêu tốn tiền; giữ gìn tiền bạc, giữ gìn thời
gian; mất tiền bạc, mất thời gian; ăn cắp tiền bạc, ăn cắp thời gian
Trần Văn Cơ cũng viết: “Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm)
là một trong những hình thức ý niệm hoá, một quá trình tri nhận có những
biểu hiện là hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể
nhận được tri thức mới”[1,180]. “Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

17
năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể
và những lớp đối tượng khác nhau” [1, 180].
Để tiện bề hiểu hơn về đồ chiếu trong hệ thống ý niệm, Lakoff và
Johnson đã áp dụng một chiến lƣợc đặt tên cho những đồ chiếu nhƣ vậy,
dùng trí nhớ đề nghị ra đồ chiếu này, theo hình thức: Target domain is
source domain hay có thể là Target domain as source domain.
Ví dụ nhƣ khi nói Love is a journey (Tình yêu là một cuộc hành
trình), ta sẽ dùng trí nhớ để nêu lên đặc điểm của các đồ chiếu (mapping) gọi
là The love-as-journey mapping:
- Ngƣời tình nhân tƣơng ứng với ngƣời lữ khách
- Mối quan hệ yêu đƣơng tƣơng ứng với một phƣơng tiện đi lại
- Mục đích chung của hai ngƣời yêu nhau tƣơng ứng với điểm đến chung
trong chuyến hành trình.
- Những khó khăn trong quan hệ giữa họ tƣơng ứng với những trở ngại trên
đƣờng đi.
Điều cần lƣu ý là không nên nhầm lẫn tên đồ chiếu Love is a journey
với bản thân đồ chiếu. Đồ chiếu tạo nên các sự tƣơng ứng nên khi nói đến
một ẩn dụ, ta nghĩ đến một loạt các tƣơng ứng.
Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm đã bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở

tƣ duy của con ngƣời và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tƣ duy và sau đó là
ngôn ngữ về cơ bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân
và các nền văn hóa. Một số lý thuyết thỏa đáng về hệ thống ý niệm của con
ngƣời là phải giải thích đƣợc các ý niệm: (1)căn cứ vào đâu, (2)cấu trúc nhƣ
thế nào, (3)có quan hệ với nhau nhƣ thế nào, (4) và đƣợc định nghĩa nhƣ thế
nào.
Cái tạo nên một mệnh đề ẩn dụ Tình yêu là một cuộc hành trình
không phải là các từ hay cụm từ . Đó chính là một đồ chiếu xuyên suốt các
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

18
phạm vi ý niệm, từ phạm vi nguồn của các cuộc hành trình cho tới phạm vi
đích của tình yêu. Ẩn dụ không phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là
của tƣ duy và lý luận. Ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đồ chiếu mới chính là quan
yếu vì nó chi phối việc sử dụng ngôn ngữ source domain và các cấu trúc suy
ra về các khái niệm target domain. Đồ chiếu mang tính chất quy ƣớc, là một
phần của hệ thống ýniệm của chúng ta.
Đồ chiếu cho phép chúng ta nhìn thấy chính xác tình yêu ở đấy đƣợc
ý niệm hóa thành một cuộc hành trình.Và các ý niệm hóa ẩn dụ (metaphor)
để nói về một đồ chiếu ý niệm, và thuật ngữ biểu đạt ẩn dụ (metaphorical
expression) đƣợc dùng nói tới một biểu đạt ngôn ngữ cá nhân, nghĩa là đồ
chiếu quy định.
Nhƣ vậy, theo Lakoff, ẩn dụ, với tƣ cách là một hiện tƣợng, có liên
quan đến các đồ chiếu ý niệm và các biểu đạt ngôn ngữ cá nhân. Một điều
hết sức quan trọng là cần phải để cho các đồ chiếu và biểu đạt đó trở nên độc
đáo. Vì đồ chiếu đóng vai trò chính yếu và mang nghĩa khái quát hóa, cần
giữ thuật ngữ ẩn dụ dùng cho đồ chiếu hơn là dùng cho biểu đạt ngôn ngữ.
Về mặt nghĩa văn học, những mệnh đề nhỏ kiểu Love is a journey
đƣợc dùng theo kiểu thuật nhớ để đặt tên cho các đồ chiếu. Do vậy, khi
chúng ta nói về ẩn dụ Love is a journey, chúng ta nhắc tới những khái niệm

tƣơng ứng vừa đề cập. Trong tiếng Anh, mệnh đề Love is a journey là một
biểu đạt ẩn dụ đƣợc hiểu thông qua những tập hợp tƣơng ứng (set of
correspondence). Ẩn dụ Love is a journey là một đồ chiếu ý niệm có các đặc
điểm khái quát hóa thành hai loại : Thứ nhất là khái quát hóa đa nghĩa
(polysemy generalization) - một sự khái quát quan hệ với nghĩa của các biểu
đạt ngôn ngữ; Thứ hai là khái quát hóa suy luận (inferential generalization):
một sự khái quát hóa về các suy luận qua các domain ý niệm khác nhau - sự
tồn tại của đồ chiếu mang lại một sự trả lời khái quát cho hai câu hỏi: Tại
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

19
sao các từ dùng để nói về hành trình đƣợc dùng để miêu tả mối quan hệ? Tại
sao các mẩu suy luận đƣợc dùng để lý giải về hành trình đƣợc dùng để lý
giải quan hệ tình ái?
Việc đồ chiếu Love is a journey là một phần ấn định của hệ thống ý
niệm giải thích tại sao các cách dùng tƣởng tƣợng và mới lạ của đồ chiếu lại
có thể đƣợc hiểu nhanh chóng, dựa trên những sự tƣơng thích bản chất và
các kiến thức khác về các cuộc hành trình. Vídụ trong lời một bài hát: We’re
driving in the fast lane on the freeway of love. Tri thức về hành trình đã gợi
ra: Khi chúng ta lái xe trên mặt đường cao tốc, chúng ta sẽ đi rất nhanh
nhưng cũng hết sức nguy hiểm và đầy phấn khích.
Đồ chiếu ẩn dụ chung đã vạch ra tri thức nền về lái xe với tri thức về
mối quan hệ tình yêu. Sự nguy hiểm có thể xảy ra với phƣơng tiện (tình yêu
có thể không bền lâu) hay hành khách (những kẻ tình nhân có thể bị
thƣơng, về mặt tinh thần). Sự hào hứng phấn khích của tình yêu – cuộc hành
trình của sự ái ân. Sự hiểu biết về lời bài hát là kết quả của sự tƣơng thích ẩn
dụ đã có từ trƣớc về ẩn dụ Love-as-journey. Lời bài do vậy cũng không làm
khó ngƣời nghe tiếng Anh vì những sự tƣơng thích ẩn dụ đã là một phần của
hệ thống ý niệm. Ẩn dụ Love as Journey là một ví dụ cho ta thấy đó không
phải là một lối nói hình tƣợng (figure of speech), mà là một hình thức tƣ duy

(mode of thought), đƣợc quy định bởi một đồ chiếu hệ thống từ phạm vi
nguồn cho tới phạm vi đích.
Mỗi một ẩn dụ, hay một đồ chiếu là một phần ấn định của những
tƣơng thích ý niệm qua các phạm vi ý niệm cụ thể. Do vậy mỗi một đồ chiếu
ấn định một loại mở của các tƣơng thích tiềm năng qua các mô thức suy luận
và phải đƣợc coi là một mẫu cố định về sự tƣơng thích bản thể qua các miền
(domain).
Lí thuyết ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận cũng đã mở ra cách tiếp cận
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

20
hoàn toàn mới mẻ và hé lộ cho việc nghiên cứu thành ngữ. Theo cách hiểu
truyền thống, thành ngữ (idiom) mang tính võ đoán nhƣng theo cách hiểu
của ngôn ngữ học tri nhận, thì hoàn toàn khác. Chúng không hoàn toàn võ
đoán mà là có nguyên do. Nghĩa là, thành ngữ xuất hiện tự nhiên theo các
quy tắc sản sinh (producetive rule), nhƣng lại chỉ có thể phù hợp với một
hay hơn một mô thức hiện hữu trong hệ thống ý niệm. Một thành ngữ nhƣ
spinning one’s wheel theo nghĩa tinh thần truyền thống là bánh xe của xe hơi
bị kẹt trong các vật liệu nào đó nhƣ bùn, cát, hay tuyết nên xe không thể nào
chuyển động dù máy đã khởi động và bánh vẫn quay. Một phần tri trức của
chúng ta về hình ảnh này là tốn kếm rất nhiều sinh lực, năng lƣợng mà
không mang lại kết quả, tiến bộ nào, rằng tình hình sẽ vẫn không thay đổi
hiện trạng, và rằng sẽ phải mất rất nhiều công sức mới làm cho xe khởi động
và chuyển động đƣợc, và rằng điều đó là hầu nhƣ không thể. Ẩn dụ Love-as-
Journey áp dụng vào trong tri thức về hình ảnh này. Ẩn dụ này vạch ra đồ
chiếu về tri thức phƣơng tiện với tri thức về quan hệ tình yêu: Tốn công phí
sức nhƣng thể nào đạt đƣợc đến đƣợc mục đích chung, sẽ không thể nào
thay đổi đƣợc hiện trạng, sẽ phải tốn rất nhiều công sức để cả hai cùng nhìn
về một hƣớng v.v Tóm lại, khi thành ngữ có liên hệ với các hình ảnh quy
ƣớc, thì tất yếu sẽ phải có những ẩn dụ ý niệm mang tính nguyên nhân gắn

kết, phụ thuộc để vạch ra đồ chiếu tri thức từ nguồn tới đích.
Thật thú vị khi thấy những khái niệm về tình cảm nhƣ tình yêu và sự
giận dữ đƣợc biểu đạt qua rất nhiều ẩn dụ cũng nhƣ rất nhiều trong số những
khái niệm cơ bản thuộc các hệ thống ý niệm cũng đƣợc hiểu thông thƣờng
qua các khái niệm ẩn dụ nhƣ thời gian, chất lƣợng, tình trạng, sự thay đổi,
hành động, nguyên nhân, mục đích, phƣơng tiện, tình thái và thậm chí là các
khái niệm về một phạm trù lớn
1.1.2.3. Phân loại ẩn dụ
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Một số cách phân loại ẩn dụ của các tác giả tiêu biểu:
Theo Nguyễn Thiện Giáp nghiên cứu ẩn dụ voíƣ tƣ cách phƣơng thức
chuyển nghĩa của từ đã chia ẩn dụ ra thành các kiểu sau:
+ Giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tƣợng.
Ví dụ: cổ là một bộ phận cơ thể ngƣời, nơi tiếp giáp đầu và ngƣời;
tƣơng tự với các sự vật: cổ chai, cổ tay Ẩn dụ này rất phong phú trong
tiếng Việt.
+ Giống nha về màu sắc:
Ví dụ: màu da trời, màu cánh sen
+ Giống nhau về chức năng
Ví dụ: Bến xe, bến sông, bến đò Đều là các đầu mối giao thông
+ Giống nhau về thuộc tính, tính chất
Ví dụ: nói ngọt lọt đến xƣơng
+Giống nhau về đặc điểm vẻ ngoài nào đó
Ví dụ: NGƣời đàn bà đẹp đƣợc gọi là Kiều
Ngƣời đàn bà xấu đƣợc gọi là Thị Nở.
+ Ẩn dụ từ cụ thể tới trừu tƣợng
Ví dụ: nắm là động tác cụ thể của bàn tay
Ẩn dụ: nắm chắc tình thế.

+ Lấy vật chỉ ngƣời
Ví dụ: cún con của mẹ.
Chuyển tính chất của sự việc hiện tƣợng này sang tính chất của sự việc hiện
tƣợng khác.
Có thể nhận thấy rằng: trong cách phân loại của Nguyễn Thiện Giáp,
các loại ẩn dụ tuy rất cụ thể và đa dạng song thiếu nhất quán và chƣa bao
quát hết các trƣờng hợp ẩn dụ và phƣơng thức ẩn dụ chỉ ngƣời.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ với tƣ cách là biện pháp tu từ ra thành các
nhóm:
+ Nhóm 1: Ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung và ẩn dụ tƣợng trƣng
Ẩn dụ: Căn cứ vào từ loại và chức năng của ẩn dụ có thể chia ẩn dụ thành ba
loaị:
- Ẩn dụ định danh: Là loại thủ pháp có tính chất thuần tuý kĩ thuật
dùng để cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ cũ.
Ví dụ: Đầu thôn, chân trời
Là loại thủ pháp có tính chất thuần tuý kĩ thuật dùng để cung cấp
những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ vựng cũ. Ví dụ: mũi dao, mũi
thuyền
- Ẩn dụ nhận thức: nảy sinh ra do kết quả của việc làm biến chuyển
khả năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi yêu cầu của
chúng từ cụ thể đến trừu tƣợng.
Ví dụ: mơn mởn vốn là từ dùng cho thực vât những đƣợc dùng cho
cả ngƣời - chỉ tuổi xuân của con ngƣời: Tuổi xuân đang mơn mởn.
- Ẩn dụ hình tƣợng: là phƣơng thức biểu giá riêng có của cá nhân nhà
văn. Nó tác động trực tiếp vào trực giác của ngƣời nhận và đem lại khả năng
cảm thụ sự sáng tạo. Nó đồng thời cũng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa.
-Ẩn dụ của lời nói với hình ảnh còn tƣơi tắn đƣợc xây dựng từ trong

văn cảnh cụ thể mà bao giờ cũng gắn với nó.
- Ẩn dụ bổ sung còn gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, là sự kết hợp
của hai hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ các trung khu của các
cảm giác khác nhau. Cơ sở tâm lý học của nó là sự tác động lẫn nhau giữa
các giác quan, sự hợp nhất của chúng.
- Ẩn dụ tƣợng trƣng: là sự kết hợp của một khái niệm trừu tƣợng với
một khái niệm về cảm giác.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Ẩn dụ tƣợng trƣng là đặc điểm của thơ, nó trở thành một phƣơng tiện
tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan kì diệu của
nhà thơ.
Nhóm 2: Nhóm biến thể của ẩn dụ
Nhóm biến thể của ẩn dụ bao gồm nhân hoá và vật hoá.
Nhân hoá là một biến thể của ẩn dụ trong đó ngƣời ta lấy những từ ngữ biểu
thị thuộc tính của con ngƣời để biểu thị những thuộc tính, dấu hiệu không
phải là con ngƣời, nhằm làm cho đối tƣợng đƣợc miêu tả trở nên gần gũi
hơn, đồng thời làm cho ngƣời nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tƣ, nguyện
vọng, tình cảm của mình.
Vật hoá còn đƣợc gọi là vật cách hoá, là một biến thể của ẩn dụ, trong
đó ngƣời ta dùng một hình thứcdi chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngƣợc chiều
lại với nhân hoá, tức là lấy những từ biểu thị thuộc tính dấu hiệu của loài
vật, đồ vật để biểu thị khái niệm, thuộc tính, dấu hiệu của con ngƣời nhằm
mục đích châm biếm đùa vui và qua đó thể hiện thái độ, tình cảm kín đáo
của con ngƣời.
Ví dụ:
Người tình ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không

(ca dao)
Nguyễn Đức Tồn trong bài viết Bản chất của ẩn dụ [ 29, 6] cũng đã
đƣa ra quan niệm mới về ẩn dụ nhƣ sau:
“Ẩn dụ là phép thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của
sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự
liên tưởng đồng nhất hoá chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở
chúng”. Nhƣ vậy dựa vào định nghĩa này có thể thấy tác giả chỉ ra hai loại
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên

24
ẩn dụ: ẩn dụ theo quan điểm truyền thống là “phép thay thế tên gọi” và loại
ẩn dụ tri nhận là “chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này
sang sự vật, hiện tượng khác loại”, và cả hai loại ẩn dụ đều cùng đƣợc dựa
trên cơ sở sự liên tƣởng đồng nhất hoá chúng (các sự vật) theo đặc điểm,
thuộc tính nào đó cùng có ở chúng.
Trong ẩn dụ ý niệm, Lakoff và đồng sự của mình bàn đến những loại
ẩn dụ khác nhau nhƣ ẩn dụ bản thể (ontological metaphor) là loại ẩn dụ định
hình sự vật và và biến chúng thành thực thể (entities) và chất thể
(substances) để từ đó nói đến chúng, phạm trù hóa, phân loại và định lƣợng
chúng. Hoặc nhƣ ẩn dụ cấu trúc (structural metaphor) với việc sử dụng một
ý niệm nguồn có cấu trúc tổ chức cao và rõ ràng để tri nhận một ý niệm đích,
ẩn dụ hình ảnh (image metaphor) - đồ chiếu một hình ảnh lên một hình ảnh
khác hay ẩn dụ định hƣớng (orientational metaphor) với các từ định hƣớng
không gian
Cụ thể:
+ “Ẩn dụ cấu trúc là loại ẩn dụ khi nghĩa (hoặc giá trị) của một từ
(hay một biểu thức) này được hiểu (được đánh giá) thông qua cấu trúc của
của một từ (hay một biểu thức) khác”. Kiểu ẩn dụ này thƣờng sử dụng kết
quả của quá trình biểu trƣng hoá vật thể và ngôn ngữ).
Chẳng hạn:

Con cáo - biểu trƣng cho sự tinh ranh, khôn ngoan.
Con ong - biểu trƣng cho sự chăm chỉ cần cù.
Đại bàng - biểu trƣng cho lòng kiêu hãnh, dũng cảm.

Với ẩn dụ tri nhận, nghĩa biểu trƣng không đƣợc bộc lộ ra ngoài mà
nó tồn tại dƣới dạng tiềm ẩn. Nếu nhƣ ý nghĩa biểu trƣng này mà bộc lộ hiển

×