Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN một số QUAN điểm cơ bản của hồ CHÍ MINH về văn hóa, vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CON NGƯỜI và văn hóa TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.73 KB, 19 trang )

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ VĂN HOÁ TRONG
TÌNH HÌNH HIỆN NAY

I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
a. Quan điểm về vai trò vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng.
- Văn hóa là động lực của cách mạng.
Theo tinh thần Hồ Chí Minh, vai trò của văn hóa là động lực của cách mạng
trước hết thể hiện ở chỗ nó là nền tảng tinh thần của xã hội tạo ra sức mạnh trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Văn hóa có vị trí ngang hàng
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, thích ứng những nhu cầu và đòi hỏi của sự
sinh tồn. Những thành tố trong cấu trúc văn hóa như chủ nghĩa dân tộc mà hạt nhân
là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập tự cường, tự tôn dân tộc, ý
thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo
lý, v.v.. tạo ra sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, thắng giặc
ngoại xâm và nội xâm. Đó chính là sự thắng lợi của “văn minh đối với bạo tàn”.
Theo tinh thần Hồ Chí Minh, các yếu tố văn hóa như khoa học (bao gồm khoa học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội – nhân văn), giáo dục đạo đức, pháp
luật... giúp dân tộc vượt qua yếu hèn, thúc đẩy kinh tế - xã hội. Theo Người, một
xã hội có lối sống đẹp, cách ứng xử văn hóa, chú trọng thực hành cần, kiẹm,liêm,
chính tạo nên diện mạo mới và tạo nên sự hưng thịnh cho dân tộc. Những điều trái
lại là biểu hiện của sự suy vong.
Là động lực, văn hóa thể hiện ở tính hướng đích, định hướng giá trị và chức
năng giáo dục:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình
cảm là vấn đề chủ yếu nhất cảu đời sống tinh thần; nó có thể đúng đắn,cao đẹp
hoặc ngược lại. Bồi dưỡng tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên và chú ý
đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của con người và
dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn. Đó là lý tưởng vì nước
quên mình; vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng, độc lập, tự cường, tự chủ; không



có gì quý hơn độc lập tự do; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tình cảm lớn là
yêu nước, thương dân, yêu Chân – Thiện – Mỹ; yêu tính trung thực, chân thành,
ghét sự giả dối, lừa lọc. Tư tưởng đúng và tình cảm đẹp có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau: conđường đi tới tư tưởng đúng vừa bằng lý trí vừa bằng tình cảm. Những
lý tưởng và tình cảm cách mạng khi đã đi sâu vào tâm lý quốc dân sẽ biến thành
một sức mạnh vật chất, tạo động lực cho cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí. Dân trí là sự hiểu biết của người dân về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, thực tiễn... Nhưng con
đường đi tới nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết chữ, chống giặc dốt, từng
bước đi tới hiểu biết. Mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Muốn đạt tới những nhận thức đó phải thông qua con đường văn hóa, trước hết là
văn hóa giáo dục.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp, lành mạnh để
không ngừng hoàn thiện bản thân. Văn hóa sẽ góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức để sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống "giặc nội xâm",
hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ. Văn hóa cũng có vai trò bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, phẩm chất chuyên môn, tạo động lực thúc đẩy cách mạng.
Văn hóa soi đường quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ. Tư tưởng Mác – Lênin trong cấu trúc văn hóa đưa con người từ chỗ
bị tha hóa đến chỗ phát triển tự do, toàn diện.
Văn hóa là chất keo tạo sự liên kết, tăng cường mối tương tác, hiểu biết giữa
các dân tộc, điều tiết các mối quan hệ quốc tế.
- Văn hóa là mục tiêu cách mạng
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, mục đích cuối cùng của cách mạng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo là đem lại hạnh phúc, tự do, dân chủ cho nhân dân. Hạnh phúc,
tự do, dân chủ là những giá trị văn hóa. Điều đó thể hiện ở triết lý Hồ Chí Minh về
phát triển xã hội Việt Nam.
Triết lý bphát triển xã hôi Việt Nam của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét ở chỉ
số chất lượng sống bao gồm mức độ giải phóng và phát triển con người; sự phát



triển phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất ; năng suất lao động; các
yếu tố tinh thần, văn hóa, chính trị, pháp quyền, dân chủ... Con đường để đạt được
mục tiêu đó là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niện Hồ Chí Minh vừa là mục tiêu phát triển,
vừa là phương thức (phương pháp và cách thức) thực hiện sự phát triển đó, bao
gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đi tới chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Hồ
Chí Minh là xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, bền vững cả đời sông vật chất,
tinh thần, trong đó chú trọng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đầy tình
thương và lòng nhân ái với những giá trị cao đẹp Chân – Thiện – Mỹ. Mô thức chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh là dựa trên một nền kinh tế
phát triển cao, phải có một nền dân chủ trình độ cao, dân là chủ và dân làm chủ.
Con người không chỉ no cơm, ấm áo, ăn ngon mặc đẹp, mà còn phải sống có lý
tưởng, tình cảm cao đẹp ; có phẩm chất đạo đức trong sạch ; có phong cách lành
mạnh , sống với nhau có lý, có tình nghĩa, có thủy, có chung, có nhân có đức, có
trước có sau, biết trung biết hiếu...
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh lấy chất lượng làm cơ bản lâu dài, vì hạnh
phúc con người. Người quan tâm tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết thất
nghiệp ; giải quyết sự phân hóa giàu – nghèo, sự bất ổn về xã hội, chú trọng quyền
làm chủ của nhân dân ; bảo đảm môi trường sống, xây dựng nền đạo đức mới của
xã hội và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc ; xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực ;
đạt phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao dân trí ; tăng cường bình đẳng nam nữ ;
giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em ; tăng cường sức khỏe bà mẹ ; phòng chống dịch bệnh ;
bảo đảm bền vững môi trường ; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển.
Đó thực chất là cơ sở và định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam theo
quan điểm Hồ Chí Minh.
Nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh tập trung
nhất vai trò động lực, mục tiêu của văn hóa. Bởi vì, như chính người Mỹ
cùng đã phải thừa nhận: "Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất

là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại năng


lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại chinh
phục vũ trụ, thời đại tin học. Dù là kể đến thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và
người Việt Nam đều không có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức mạnh của
con người”.
b. Văn hóa là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ văn hóa
- Quan điểm về mặt trận văn hóa
Trong lịch sử dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu đến các
nhà cách mạng hiện đại đã biết dùng văn hóa đánh giặc. Ra đi tìm đường
cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh tiếp tục khai thác,
phát triển nét đẹp truyền thống đó của dân tộc. Từ những năm hai mươi,
Người dùng ngòi bút để tố cáo tội ác thực dân, thức tỉnh, định hướng nhân
dân đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ những năm ba mươi trở đi,
Người đã dùng sức mạnh văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội mới.
Văn hóa là một mặt trận và được hiểu là một bộ phận của cách mạng,
ngang hàng các mặt trận khác. Nó có mặt trong mọi công tác cách mạng
theo tinh thần “văn hóa hóa kháng chiến”. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu
tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, nói ngắn gọn là cuộc cách mạng tư
tưởng - văn hóa.
Tính chất của cách mạng văn hóa khác cách mạng chính trị ở chỗ, nó không
thể giải quyết tức thì như kiểu giành chính quyền về tay nhân dân, mà phải xác
định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, một cuộc chiến đấu khổng
lồ, quyết liệt trong suốt tiến trình cách mạng từ lúc chưa có chính quyền đến khi
giành được chính quyền, kháng chiến kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Truyền thống lạc hậu, thói hư tật xấu cũng là kẻ địch. Mà thắng nghèo nàn, lạc hậu
còn khó hơn thắng đế quốc và phong kiến.
Nội dung đấu tranh trên mặt trận văn hóa rất phong phú, đa dạng, mà cốt lõi

là khẳng định và nhấn mạnh hệ tư tưởng của nền văn hóa mới, bao gồm tư tưởng
về chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật. Phải làm cho thế giới quan Mác-Lênin


chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Mọi hoạt động văn
hóa phải làm nổi bật “chủ đề” độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Quan điểm về chiến sĩ văn hóa
Khái niệm “mặt trận” và “chiến sĩ” văn hóa luôn luôn đi liền với nhau,
có “mặt trận” thì có “chiến sĩ’. “Chiến sĩ’ ở đây là những người hoạt động
trên mặt trận văn hóa - tư tưởng. Họ có nhiệm vụ nặng nề, sứ mệnh vẻ vang,
vinh dự lớn lao.
Chiến sĩ văn hóa phải có lập trường, tư tưởng vững vàng. Họ phải
dứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nắm chắc tư tưởng MácLênin là một vũ khí không gì có thể so sánh nổi.
Ngòi bút của các chiến sĩ văn hóa là một vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp “phò chính trừ tà”. Họ có nhiệm vụ “phụng sự cách mạng, phụng sự
kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Muốn làm điều dó,
chiến sĩ văn hóa phải gắn bó với đời sống, với thực tiễn, với nhân dân; phải
“từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Cuộc sống thực tiễn sẽ tạo
điều kiện cho họ có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng, thời
đại vẻ vang.
Chiến sĩ văn hóa phải có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức cách mạng, chuyên
môn nghiệp vụ sâu để tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh cách mạng,
chống mọi kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc, kẻ thù là bọn thực dân đế quốc, phong kiến tay sai. Khi xây dựng xà
hội mới thì phải tập trung vào kẻ thù tư tưởng, thói quen truyền thống lạc
hậu, “giặc nội xâm” theo tinh thần “mỗi vần thơ là bom đạn chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu”. Đã là chiến sĩ thì phải đối mặt với mọi kẻ thù,
đứng về phía nhân dân, bênh vực, ca ngợi Chân - Thiện - Mỹ; phanh phui,
loại bỏ cái sai, cái ác, cái xấu, cái giả dối, lừa lọc.
Người chiến sĩ văn hóa phải biết quý trọng, giữ gìn, khai thác, phát

triển những truyền thống tốt đẹp của cha ông, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới


chống các thé lực thù địch và trở lực trên con đường tiến lên thế giới văn
minh, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì con người, vì nhân dân. Người khẳng định
lấy hạnh phúc của dân tộc làm cơ sở; lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn
phép. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân phải được nhìn nhận một cách
toàn diện.
Nhân dân đóng vai trò chủ thể. Họ không chỉ sáng tạo ra của cải vật
chất, mà còn là những người sáng tác rất hay. Ca dao, tục ngữ là những “hòn
ngọc quý”. Nhân dân nuôi dưỡng sáng tác bằng những nguồn nhựa sống. Họ
là những người kiểm nghiệm, đánh giá, phản biện các sản phẩm văn hóa một
cách trung thực, khách quan. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn viết xong một tác
phẩm phải đưa cho quần chúng công nông binh đọc để họ góp ý cho mình.
Với tư cách chủ thể nên quần chúng nhân dân được quyền hưởng thụ các giá
trị văn hóa.
Nhân dân đóng vai trò là đối tượng phản ánh. Họ là nhân vật trung tâm
của sự nghiệp cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các hoạt động văn hóa phải phản ánh quần chúng
nhân dân một cách chân thực, sống động. Muốn vậy, văn nghệ sĩ phải thâm
nhập, hiểu thấu, liên hệ, gắn bó với quần chúng để thể hiện trong sáng tác
của mình tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
Quần chúng nhân dân gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, sống ở nhiều địa
bàn, nghề nghiệp khác nhau, trình độ học vấn và nhận thức khác nhau... Vì
vậy, hoạt động văn hóa phản ánh quần chúng phải phù hợp trình độ, lứa tuổi,
nghề nghiệp, địa bàn. Bao giờ cũng phải tư duy và trả lời được bốn câu hỏi:
Viết cho ai? Viết cái gì? Viết nhằm mục đích gì? Viết như thế nào? Một điều

quan trọng là phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, tránh lối
viết rau muống, dài rỗng tuếch, thích dùng chữ nước ngoài. Phải làm cho
quần chúng hiểu, yêu thích, tạo những chuyển biến tích cực trong tư tưởng,


tình cảm, tâm hồn của mọi người. Muốn vậy, tác phẩm văn nghệ phải vừa
hay vừa chân thực, nội dung phong phú, hình thức trong sáng, vui tươi. Một
tác phẩm, bài nói, bài viết hay, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, không cứ
dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói,
khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được và khi đọc xong độc
giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn
tốt. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú,
có hình thức trong sáng và vui tươi, hấp dẫn. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi
thì có bổ ích.
Văn hóa phục vụ quần chúng thể hiện ở tính hướng đích của văn hóa. Một
mặt, văn hóa phải thể hiện được tính hiện thực, chân thật. Mặt khác, phải hướng
quần chúng loại bỏ cái giả, cái ác, cái sai, cái xấu để vươn tới cái lý tưởng - không
chỉ cho hôm nay, mà còn để giáo dục con cháu mai sau. Mục tiêu, lý tưởng cao đẹp
nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của con người.
Ngoài ra, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân còn thể hiện ở sự phong
phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa. Nhiều thể loại, nhiều tác phẩm, nhiều
món ăn bổ ích khác nhau trên một cái nền sáng tạo không ngừng của văn nghệ sĩ.
Muốn giải quyết tốt những vấn đề nêu trên thì Đảng phải lãnh đạo mọi hoạt
động văn hóa và xây dựng văn hóa trong Đảng, để Đảng “là đạo đức, là văn minh”,
tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc.
d. Quan điểm về giữ gìn và tiếp thu văn hỏa
- Giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc
Cốt cách (bản sắc) là bản chất, tính chất đặc biệt vốn có. Cốt cách văn hóa dân
tộc là bản sắc của dân tộc, bao gồm những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử. Hệ giá trị của cốt

cách văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự cường, tự tôn dân tộc;
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn bó cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa còn được nhìn nhận qua


hình thức biểu hiện đậm tính dân tộc, như tiếng nói, tâm lý, phong tục tập quán, cách
cảm nghĩ của dân tộc, các hình thức nghệ thuật - lễ hội truyền thống...
Cốt cách văn hóa dân tộc đóng vai trò to lởn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Nó tạo nên sức manh chiến thắng mọi kẻ thù hung bao mà theo cách nói
của Giáo sư Trần Văn Giàu, đó chính là sức mạnh của “Linh đơn văn hóa Việt
Nam”. Sức mạnh văn hóa giúp con người khắc phục thiên tai, buộc thiên nhiên
phục vụ con người. Văn hóa Việt Nam thể hiện “cốt cách” con người Việt Nam, nét
“độc đáo”, “đặc trưng”, tính cách riêng của dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam mà
hàng đầu là chủ nghĩa yêu nuớc là ngọn nguồn đi tới văn hóa tiến bộ.
Chúng ta có nhiệm vụ nặng nề nhưng vẻ vang đối với văn hóa dân tộc Trước
hết phải biết trân trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển những vốn cũ quý
báu của cha ông. Còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Đồng thời, phải giới
thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè thế giới, theo tinh thần có “vay” thì phải có
“trả”, góp phần làm phong phú văn hóa nhân loại. Cần nhận thức rằng bản sắc văn
hóa không phải “nhất thành bất biến”, mà nó có sự bổ sung, phát triển. Trong thời
đại mới, có những giá trị cũ không còn phù hợp, nhưng lại có những giá trị mới
được hình thành, phát triển và dần chiếm ưu thế. Vì vậy, giữa quý trọng, giữ gìn,
khai thác, phát huy, phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giữ gìn không
phải là khư khư đóng cửa. Mà khai thác, phát huy, phát triển cũng là một cách giữ
gìn. Trong quá trình đó, phải biết tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
của văn hóa đế quốc. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại cũng là một cách để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tiếp biến (tiếp nhận và biến đổi) văn hóa là một quy luật. Văn hóa Việt Nam

không nằm ngoài quy luật đó. Trong quá trình hình thành và phát triển, văn hóa
Việt Nam đã tiếp nhận và biến đổi những giá trị văn hóa Đông phương và Tây
phương. Nói đến văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng đó là văn hóa Đông
phương và Tây phương chung đúc lại. Người nhắc nhở phải mở rộng kiến thức của
mình về văn hóa thế giới.


Nội dung tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại theo quan điểm Hồ Chí Minh
là hết sức toàn diện. Trước hết là tiếp thu cả Đông, Tây, kim, cổ, tìm mẫu số chung
của các nền văn hóa trên thế giới. Tính toàn diện còn thể hiện ở chỗ tiếp thu nhiều
mặt: học thuật tư tưởng như Khổng giáo, phật giáo, Thiên chúa giáo, tư tưởng triết
học thời Phục Hưng, Thế kỷ Ánh sáng, tư tưởng Găngđi, Tôn Trung Sơn..., đặc
biệt nhất là tư tưởng Mác-Lênin. Ngoài ra, còn tiếp thu khoa học, văn học
nghệ thuật, kiến trúc hội họa, danh nhân văn hóa.
Mục đích tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là trau dồi cho văn hóa Việt Nam
giàu đẹp hơn, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
Tiêu chí tiếp thu văn hóa nhân loại là tiếp thu cái hay, cái tốt. Văn hóa dân
tộc và văn hóa nhân loại chứa đựng những giá trị văn hóa trường tồn và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng chỉ trên cơ sở biết trân trọng, giữ gìn, phát huy,
phát triển văn hóa dân tộc, tức là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc thì mới có thể
“đi tới được cái nhân loại”.
đ, Quan điểm về văn hóa chính trị
Văn hóa bao trùm tất cả các mặt của đời sống, nên chúng ta có thể nói về
văn hóa theo các mặt riêng biệt của cuộc sống, trong đó, văn hóa chính trị giữ vai
trò quan trọng, thậm chí là lớn nhất trong các lĩnh vực văn hóa cụ thể.
Muốn hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị, trước hết phải hiểu
chính trị là gì? Chính trị không phải là triết học, không phải là quản lý; nhà chính trị
không phải là nhà quản lý. Mà chính trị trước hết là một hình thái ý thức xã hội. Thứ hai
là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, chính trị là một hoạt động đặc biệt để
giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn xã hội trong một quốc gia và

quốc tế (mà vấn đề cơ bản là giành và giữ chính quyền); để tập hợp các tổ chức chính
trị xã hội và của người dân vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Và như vậy, quần
chúng nhân dân như là một phạm trù của văn hóa chính trị.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mọi hoạt động văn hóa đều có tính chính trị, ý
nghĩa chính trị. Mặt khác, chính trị phải thấm sâu vào mọi hoạt động của văn hóa.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh


tế và chính trị. Điều này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi vì, mọi
hoạt động văn hóa đều gắn liền với đời sống thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội.
Không có thứ “văn học vị nghệ thuật", chỉ có “văn học vị nhân sinh”. Chẳng hạn
kế sách diệt giặc dốt, giáo dục nhân dân thực hành cần kiệm liêm chính, tự do
tín ngưỡng, không hút thuốc phiện... vừa là hoạt động văn hóa, vừa có ý
nghĩa chính trị, đều vì hạnh phúc con người.
Chúng ta có thể nhận thức văn hóa chính trị là toàn bộ những thiết
chế, cơ chế và hành động chính trị, được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa tạo
nên những hoạt động chính trị có văn hóa. Văn hóa chính trị không phải là
bản thân chính trị mà là chính trị có văn hóa, tức là chính trị tác động vào
con người và xã hội như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh đó không dựa vào
quyền lực mà là hợp chất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, dựa vào sự cảm
hóa con người, thức tỉnh lương tri, lay động tâm tư, tình cảm con người, từ
thuyết phục đi tới chinh phục và thu phục con người.
Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị chứa đựng nội dung
phong phú. Đó là văn hóa yêu nước, thương dân, tất cả vì độc lập, tự do,
hạnh phúc của con người. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thể hiện bằng con
đường nhân đạo để đạt mục đích chính trị và vì thế, nó chứa đựng những giá
trị nhân văn cao quý. Đó là tính công khai, dân chủ, một nền văn hóa chính
trị “sao cho được lòng dân”. Điều này liên quan tới cả hệ thống chính trị và
từng cán bộ, đảng viên như là điều kiện để xây dựng văn hóa chính trị. ứng
xử rất văn hóa với các đối tượng. Đoàn kết rộng rãi các giai tầng, tôn trọng

tôn giáo, tín ngưỡng. Đảng phải có gan thừa nhận khuyết điểm, có tư duy
phê phán sáng tạo, tiếp thu di sản tinh thần của thời đại. Trình độ vận dụng
phép biện chứng duy vật đề giải quyết các vấn đề dân tộc và giai cấp, truyền
thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại...
Điều quan trọng là phải xây dựng văn hóa Đảng cầm quyền, chú trọng
nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, nhưng vận dụng sáng tạo, chứ không rập khuôn, giáo điêu.


Đồng thời, phải chống tư tưởng và hành động phản văn hóa, chống chủ
nghĩa cơ hội, chống những luận điệu thù địch bóp méo và xuyên tạc chủ
nghĩa Mác-Lênin. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh xác định mọi hoạt động
chính trị luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, do dân, vì dân.
e. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới
Nhìn một cách tổng quát, tính chất của nền văn hóa mới theo tư tương
Hồ Chí Minh la nen văn hóa dân chủ mới, kháng chiến và xã hội chủ nghĩa.
Đó phải là nền văn hóa “hợp với khoa học và nguyện vọng c ủ a d â n ”
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền
văn hóa dân tộc với năm điểm lớn:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường,
+ Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng,
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội,
+ Xây dựng chính trị: dân quyền,
+ Xây dựng kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chủ trương xây dựng nền
văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh chú trương xây dựng nền văn hóa mới hết sức

toàn diện, vừa kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo ra những nội dung mới, tiến bộ.
Đó là nền văn hóa dân tộc, khoa học, tiến bộ, nhân văn.
Nền văn hóa đó thể hiện đậm nét trên nhiều lĩnh vực, trong các hoạt
động về giáo dục, văn nghệ, xây dựng đời sống mới trong gia đình, công
xưởng, đơn vị bộ đội, cơ quan, trường học, hợp tác xã. Nền văn hóa mới với
những giá trị về lý tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, quan hệ giữa con
người với con người... thấm vào từng con người Việt Nam trong quá trình


lao động sản xuất, học tập, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó
mà khó khăn về đời sống vật chất, ác liệt, hy sinh trong khói lửa chiến tranh
không làm phai nhạt tình người.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều phong trào văn hóa tiếp
nối nhau mang hơi thở của dân tộc và thời đại, đem lại một xung lực tinh
thần to lớn trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là các phong
trào xây dựng “Đời sống mới” từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, phong
trào "Thi đua yêu nước" từ năm 1948, đến phong trào “Người tốt việc tốt”
năm 1968; phong trào “Hai tốt” (dạy tốt - học tốt). Từ trong các phong trào
đó đã xuất hiện nhiều anh hùng, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt Đó là những
bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Nền văn hỏa Việt Nam, đạo lý dân tộc Việt Nam và những con người Việt
Nam có văn hóa đã đúc thành sức mạnh to lớn làm nên thắng lợi trong Cách mạng
Tháng Tám, huyền thoại trong hai cuộc kháng chiến chống những đế quốc to và
bước đầu tạo nên khuôn mặt mới của nền văn hóa Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ VĂN HOÁ
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

1. Những vấn đề đặt ra với văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ
nguyên toàn cầu hóa

Thế giới toàn cầu hóa là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp
sang nền kinh tế tri thức và kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế.
Đồng thời, sức cạnh tranh của đất nước không chỉ cạnh tranh về kinh tế mà cả văn
hóa. Về mặt văn hóa, dễ dàng nhận thấy sự phát triền của công nghệ thông tin như
“con dao hai lưỡi”, nếu không có những biện pháp ngăn chặn kịp thời thì hiện
tượng “phương Tây hóa” có thể làm suy giảm tính đa dạng, làm nghèo nàn văn hóa
nhân loại, cũng có nghĩa là dẫn tới cái chết của văn hóa”.
Vì vậy, xu thế đầu tư về văn hóa và hình thành thị trường văn hóa toàn cầu
ngày càng phát triển. Cả thế giới, hoặc công khai hoặc ngấm ngầm đang cạnh tranh
nhau về ý thức hệ, lối sống, phim ảnh, âm nhạc, đồ ăn, thức uống...


Tuy nhiên một mặt khác, xu thế đối thoại giữa các nền văn hóa cũng ngày
càng gia tăng. Đây là quá trình khẳng định giá trị văn hóa mỗi dân tộc và tìm kiếm
giá trị văn hóa của các dân tộc khác.
Có thể thấy, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, văn hóa đang ngày càng trở
thành “sức mạnh mềm” (Soft power).
2. Thực trạng văn hóa và con người Việt Nam
- Thành tựu
Đại hội X chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư
nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở
bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí được nâng lên.
Khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối,
chính sách, điều tra đánh giá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học,
nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc
phòng, an ninh”1.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản góp phần tích cực động
viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất
lượng cuộc sống. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, Bà mẹ Việt Nam anh

hùng, thương binh, gia đình liệt sĩ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện... thu hút sự
tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận
dụng sáng tạo và phát triển ngày càng tỏ rõ giá trị bền vững của một học thuyết cách
mạng và khoa học, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và
của cách mạng nước ta. Từ đó tạo ra sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã
hội phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiều nét mới có giá trị văn hóa đạo đức được hình thành và từng bước phát
triển: tính năng động trong hoạt động kinh tế - xã hội, tính tích cực công dân được
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ X Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2006, tr.57-

58.


khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại. Thế hệ trẻ có ý chí vươn lên
lập thân, lập nghiệp. Mặt bằng dân trí được nâng cao; năng lực, sở trường cá nhân
được khuyến khích; không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên; phong trào
hướng về cội nguồn, tưởng nhớ anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa ngày càng
phát huy hiệu quả. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở gia đình, khu dân cư
được nhân dân hoan nghênh, hưởng ứng...
- Hạn chế
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay, một số giá trị văn hóa
và đạo đức suy giảm; sự suy thoái, sa đọa về tư tưởng và đạo đức lối sống
trong bộ phận không ít cán bộ có chức có quyền. Họ cơ hội luồn lách, dối
trá, nịnh bợ, bè cánh, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, mắc các tội lỗi tham
ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Nhiều tệ nạn xã hội phát triển: buôn lậu, ma túy, mại dâm, mê tín dị
đoan, nhiều hủ tục cũ, mới lan tràn. Một bộ phận thanh niên đang tụt dốc về

văn hóa. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Mục tiêu nội
dung, chương trình, phương pháp dạy và học, sách giáo khoa, thi cử trình độ
quản lý... có nhiều thiếu sót; trong giáo dục và đào tạo có nhiều hiện tượng
tiêu cực đáng lo ngại.
Với tâm lý sùng ngoại, nhiều người chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân ích kỷ. Họ coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, phủ nhận thành
quả cách mạng.
Đời sống văn hóa nghệ thuật còn nhiều bất cập; có xu hướng thương
mại hóa, tách văn nghệ khỏi chính trị, chạy theo thị hiếu không lành mạnh.
- Nguyên nhân của thực trạng yếu kém
Thực trạng yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc
biệt là nguyên nhân chủ quan, trong đó có vấn đề xác định chiến lược văn hóa chưa
ngang tầm vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống. Trong việc nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh, chưa nhận thức đầy đủ và khai thác hết giá trị văn hóa Hồ Chí


Minh. Còn bộc lộ những hạn chế trong việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục.
đặc biệt là làm theo tấm gương Hồ Chí Minh.
3. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
a. Những đặc tính của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân cách của con người
Việt Nam với một nội dung toàn diện, phù hợp với mặt bằng và đỉnh cao dân
trí của xã hội. Con người Việt Nam phải mang sắc thái dân tộc Việt Nam
nhưng cũng phải có tố chất của công dân toàn cầu, vừa giữ tinh hoa truyền
thống của dân tộc, vừa tiếp nhận trí tuệ của thời đại trong kỷ nguyên toàn
cầu hóa; vừa đặt mình trong sức mạnh cộng đồng, vừa phải có bản lĩnh phát
huy tố chất cá nhân. Vì vậy, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
cần có những đặc tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn

lạc hậu, đoàn kêt với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực.
b. Biện pháp xây dựng con người mới
Xây dựng con người mới là một công trình khoa học lớn, đòi hỏi sự
đồng bộ của cả một hệ giải pháp.
- Trước hết, mỗi người phải tự tu dưỡng. Tu dưỡng hằng ngày, bền bỉ suốt
đời, gắn với thực tiễn cách mạng. Trong khi xây dựng những đức tính tốt, phải có


bản lĩnh chống lại mọi thói hư tật xấu như lối sống bàng quan, vị kỷ cá nhân, thiếu
tinh thần trách nhiệm. Chống tham nhũng, xa hoa, lãng phí,v.v..
- Phải dựa vào sức mạnh tổ chức của cả hệ thống chính trị. Đó là vai
trò của chi bộ Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội như công đoàn, đoàn
thanh niên, hội phụ nữ, hội thanh niên, sinh viên Việt Nam...
- Phải thông qua các phong trào cách mạng như: Thi đua yêu nước,
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa, trong các phong trào như:
Người tốt việc tốt, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng gia đình vàn hóa, làng, xã, phường văn hóa.
4. Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương hướng
Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ

nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao
đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiêp hóa, hiện đai hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
- Những quan điểm chỉ đạo cơ bản
Thứ nhất văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Không
gắn kết giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự
phát triển bền vững.


Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa không chỉ là kết quả của kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Văn hóa theo nghĩa rộng chính là nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất của sự phát triển.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hỏa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người.
Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý...

Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo như cách cảm, cách nghĩ của dân tộc, phong tục tập quán, lễ hội...
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc anh em có những sắc thái văn hóa riêng, có sự bình
đẳng và phát huy tính đa dạng, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam, củng
cố sự thống nhất dân tộc.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Cách mạng Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam là sự nghiệp
của mọi người Việt Nam. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa. Đội ngũ trí thức với vai trò, chức năng của mình giữ vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đỏi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.


Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng
tạo những giá trị văn hóa mới, làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc
dân, tạo dựng một xã hội văn hóa, không thể một sớm một chiều mà là một
quá trình cách mạng lâu dài, nhiều khó khăn, gian khổ.
Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa phải thể hiện tính chiến đấu, găn
bó chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; lấy “xây” là chính. Xây dựng, biểu
dương những cái tốt, chống lại mọi thói hư, tật xấu, giặc nội xâm.
Trên cơ sở phương hướng chung, 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản và 10
nhiệm vụ cụ thể được nêu lên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998), Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X (4-2006) có một số điểm mới, xác định: “Phát triển văn hóa - nền tảng
tinh thần của xã hội” Nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được đặt trong chiến

lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 với tinh thần chung là “tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Cụ thể là:
- “Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng
người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị
truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức
đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”2.
- Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
- Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong
kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên- chống những
hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
- Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn
hóa lành mạnh.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện, Đại hội Đại biểu loàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, H 2006, tr.213.


- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí,
phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách.
- Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới.
Tóm lại, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng con
người mới cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa sâu xa trong đoạn viết sau đây của Phạm
Văn Đồng: “Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một
kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là
di sản văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu”. Chúng ta cũng cần khắc
sâu lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư

tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại”. Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu một di sản văn hóa không phải chỉ của quá khứ
và hiện tại mà là một nền văn hóa của tương lai. Hồ Chí Minh là “con người kỳ diệu
cho mọi thời đại”, là “nhân vật trở nên huyền thoại ngay khi còn sống”, là “Người
chiếu sáng”, v.v... Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại một tầm vóc, trí tuệ,
bản lĩnh và minh triết về văn hóa theo tinh thần của UNESCO: “Xét đến cùng, sự
thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển”.



×