Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nghệ thuật tiểu thuyết của hồ anh thái qua đức phật, nàng savitri và tôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.67 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------***--------------

VŨ MẠNH CƢỜNG

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA
HỒ ANH THÁI QUA
“ ĐỨC PHẬT, NÀNG SAVITRI VÀ TÔI”

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62.22.01.21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.TRỊNH BÁ ĐĨNH

Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: Nghệ thuật tiểu thuyết của
Hồ Anh Thái qua “ Đức Phật , nàng Savitri và tôi” với các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.

Tác giả luận văn

Vũ Mạnh Cường


2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học
trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trường Đại học Sư
Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh,
người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tác giả luận văn

Vũ Mạnh Cường

3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỤC LỤC


Trang
Lời cam đoan …………………………………………………………..

i

Lời cảm ơn ……………………………………………………………..

ii

Mục lục………………………………………………………………….

iii

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài…………………………………………………

1

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………

2

3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu. ………………………

10

4.Đóng góp của luận văn………………………………………………

10


5. Phương pháp nghiên cứu và cấu trúc luận văn………………………

11

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm về tiểu thuyết và quá trình sáng tác của Hồ Anh Thái

12

1.1. Sự thay đổi trong quan điểm tiểu thuyết sau 1986……………….....

12

1.2. Quá trình sáng tác và quan điểm tiểu thuyết của Hồ Anh Thái…….

21

Chương 2: Nhân vật và tư tưởng trong tiểu thuyết “Đức Phật, nàng
Savitri và tôi”

28

2.1. Mấy vấn đề lí luận về nhân vật văn học……………………………

28

2.2. Chất liệu lịch sử và huyền thoại trong xây dựng nhân vật…………

32


2.3. Đối thoại văn hóa…………………………………………………..

41

Chương 3: Kết cấu và ngôn ngữ của tiểu thuyết

58

3.1. Kết cấu của tiểu thuyết Hồ Anh Thái………………………………

58

3.2. Kết cấu liên văn bản, một đặc sắc nghệ thuật của Hồ Anh Thái……

65

3.3. Đặc sắc ngôn ngữ trong “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”…………..

82

4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




C. PHẦN KẾT LUẬN

94


TÀI LIỆU THAM KHẢO

96

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam sau năm 1986 có nhiều đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc
trên cả hai phương diện nội dung cũng như hình thức biểu đạt. Những mạch
nguồn truyền thống đã được thay thế bằng những cảm hứng mới. Những trang
viết về con người cá nhân, về cuộc sống đời thường với tất cả sự phức tạp và
bộn bề đã xuất hiện và thay thế những quy phạm và cảm hứng sử thi truyền
thống trước đó. Trên văn đàn lần lượt xuất hiện những tác giả mới mà những
đóng góp của họ có thể nói đã làm thay đổi nhiều hệ thống tiêu chí thẩm mỹ
cũ, từ đó một loạt các giá trị mới đã được hình thành và xác lập. Có thể kể ra
đây nhiều tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh,vv… trong
đó, tiểu thuyết đóng góp lớn vào sự cách tân văn học, có các quan niệm và lối
viết mới.
Hồ Anh Thái là một nhà văn xuất hiện gần như đồng thời trong giai
đoạn đó. Ông cũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của lớp nhà văn
thời hậu chiến ở Việt Nam.Với một vốn văn hóa dày dặn (là Tiến sĩ văn hóa
phương Đông, tham gia thỉnh giảng ở nhiều trường đại học nổi tiếng ở Mỹ
như: Đại học tổng hợp Washington, Đại học St Mary…) và với ý thức cách

tân nghệ thuật ráo riết, Hồ Anh Thái say mê chiếm lĩnh, miêu tả hiện thực
cuộc sống một cách sâu sắc, nhiều tầng bậc và độc đáo thông qua các tác
phẩm của mình.
Tính chuyên nghiệp và sự nghiêm túc bền bỉ trong sáng tạo nghệ thuật
đã đưa lại cho ông hơn hai mươi đầu sách, trong đó có một số tác phẩm đã
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm của Hồ Anh Thái thể
hiện cái nhìn đa chiều, sự khám phá mới mẻ về con người trong cuộc sống
đương đại, thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi về phương diện nghệ
thuật văn xuôi.
1


Việc lựa chọn đề tài: “ Nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua
Đức Phật, nàng Savitri và tôi” của chúng tôi xuất phát từ hai lí do chính:
Thứ nhất, xét về mặt thể loại tiểu thuyết luôn được xem là thể loại ưu
việt nhất trong cách khám phá hiện thực đời sống ở nhiều mặt và nhiều tầng
bậc. Với tư cách là sản phẩm của loại tư duy nghệ thuật tổng hợp, tiểu thuyết
là nơi mà nhà văn có thể thể nghiệm và biểu đạt đến tột cùng mọi nghĩ suy,
sáng tạo của mình đến với bạn đọc. Trong văn học đương đại, tiểu thuyết có
vai trò quan trọng bậc nhất.
Thứ hai, Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một trong những tiểu thuyết
tiêu biểu của Hồ Anh Thái, thể hiện những cố gắng cách tân nghệ thuật cao
nhất của cây bút này.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn được dư luận quan tâm, trong
đó có giới phê bình văn học. Những đổi mới về nghệ thuật cũng như sự sâu
sắc về nội dung đã được đề cập đến ở nhiều bài viết, lời giới thiệu về tác
phẩm của ông. Nhiều ý kiến đặc biệt chú ý đến những nét độc đáo trong tác
phẩm của Hồ Anh Thái như: Tính chất ngụ ngôn, triết lý nhân sinh, chất hài
hước, chất Kafka, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, cái kì ảo, vấn đề giọng điệu,

tính đa thanh, các loại điểm nhìn trần thuật… Ngoài ra, sáng tác của Hồ Anh
Thái cũng đã trở thành đề tài nghiên cứu của các khóa luận tốt nghiệp đại học,
các luận văn thạc sĩ… Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các ý kiến
đáng chú ý nhất về sáng tác của Hồ Anh Thái. Trước hết, các nhà nghiên cứu
tập trung khẳng định tiểu thuyết Hồ Anh Thái đã vượt qua các cấm kị nghệ
thuật với những thể nghiệm mới mẻ về hình thức nghệ thuật và ngôn ngữ.
2.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Anh Thái
Trong một bài viết, một tác giả nước ngoài, Wayne Karlin nhận định:
“Hồ Anh Thái và những người đương thời Việt Nam đang tiên phong cho nền
văn học của các nước đang phát triển, nền văn học không còn bị định nghĩa
2


bằng những thông số của cuộc đấu tranh giữa hai bên tư bản và cộng sản. Đó
là nền văn học của toàn Châu Á” [58]. Với những tiểu thuyết đầu tay Người
và xe chạy dưới ánh trăng, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện
ra, Hồ Anh Thái đã nhận được rất nhiều ý kiến đánh giá cao về những đổi
mới nghệ thuật. Trần Thanh Giao khi nhận xét về Người và xe chạy dưới ánh
trăng trong bài viết Không theo kiểu cũ đã đề cao những đổi mới về lối viết
cũng như tư tưởng chủ đề của tác phẩm: “…cuốn sách mang được tính nhân
bản, nhân ái… phê phán cái trì trệ xấu xa để cuộc sống được mau đổi mới.
Tiểu thuyết còn nhiều chỗ có thể bàn cãi thêm, nhưng tư tưởng thì rõ ràng và
lối viết thì không theo kiểu cũ” [32]. Trần Bảo Hưng, trong bài Một cá tính
sáng tạo độc đáo đã ghi nhận những sáng tạo và nỗ lực tìm tòi của Hồ Anh
Thái. Ông viết: “Có thể nói Người và xe chạy dưới ánh trăng là một hiện thực
đa chiều, và để phản ánh được cái hiện thực phức tạp ấy Hồ Anh Thái sử
dụng nhiều thủ pháp linh hoạt, cả phục hiện và đồng hiện, rồi một cốt truyện
đầy co giãn với những mạch ngang, lối rẽ…” [32]. Hai cuốn tiểu thuyết
Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra cũng nhận được sự quan
tâm với nhiều ý kiến đánh giá cao những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với

Người đàn bà trên đảo, Wayne Karlin trong lời giới thiệu cho bản in cuốn
tiểu thuyết này của nhà xuất bản Washinhton khẳng định: “Tiểu thuyết Người
đàn bà trên đảo đã mở ra cánh cửa vào một nền văn hoá đang phải đấu tranh
để định nghĩa với quá khứ và tương lai của mình… Hồ Anh Thái đã trở thành
một trong những nhà văn Việt Nam đầu tiên thu hút được sự chú ý vào đề tài
cho đến lúc nó vẫn còn cấm kỵ: Cái giá khủng khiếp của những người phụ nữ
cựu binh của cuộc kháng chiến chống Mỹ phải trả” [33]. Tiểu thuyết Trong
sương hồng hiện ra được xem là một hiện tượng lạ trên văn đàn ngay khi vừa
ra đời. Trong bài viết Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái, Diệu Hường đã
viết: “Với tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra, Hồ Anh Thái đã làm được
một sự khác trên mặt bằng văn học đương thời. Trước hết là một cốt truyện
kỳ lạ, đầy chất huyễn tưởng, một thứ của hiếm trong văn xuôi bấy giờ(…).
3


Đưa nhân vật của mình trở lại với hai mươi năm trước, Hồ Anh Thái đã làm
một cuộc mổ xẻ quá khứ và góp lời giải cho những băn khoăn trước tương lai
của những con người thời Đổi mới” [9]. Wayne Karlin, trong Lời giới thiệu
tuyển tập tác phẩm của Hồ Anh Thái (Nxb Curbstone Press - Mỹ, 1998) đã
viết: “Ở cuốn Trong sương hồng hiện ra cũng như các tiểu thuyết và truyện
ngắn khác, trong đó chất hài hước, chất lạ cộng với chất Kafka dường như
gây bất ngờ cho phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam” [33].
Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế được xem là mốc đánh dấu
một bước tiến mới trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Tác
phẩm đã gây nhiều tranh cãi và các luồng dư luận khác nhau. Nguyễn Đăng
Điệp trong bài Hồ Anh Thái người mê chơi cấu trúc nhận xét: “Là cây bút
nhạy bén và tỉnh táo, Hồ Anh Thái đã tạo được cái nhìn riêng về thế giới. Độ
sắc trong những trang viết của Hồ Anh Thái lộ ra ở chỗ anh dám nhìn thẳng
vào những mảnh vỡ, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung
thực táo bạo (…). Đây là cái nhìn “suồng sã” của tư duy nghệ thuật hiện đại”

[10, tr.357]. Cũng cách nhìn ấy, Nguyễn Anh Vũ, trong bài Hơn cả sự thật,
nhận xét: “Cõi người rung chuông tận thế được viết với một giọng điệu một
văn phong rất hiện đại, rất “Tây” gọn, chính xác, lạnh lùng, thậm chí có vẻ
như dữ dằn, tàn nhẫn. Thế nhưng ẩn chứa trong đó là một tư tưởng, một thông
điệp mang đậm bản sắc của tâm linh phương Đông ác giả ác báo, gieo gió gặt
bão” [36]. Có phần cụ thể hơn, Phan Văn Tú, trong bài Cõi người rung
chuông tận thế nhìn từ vài con số thống kê cho rằng: “Cõi người rung chuông
tận thế là một tiểu thuyết minh chứng hùng hồn cho luận điểm của một nhà
văn Nga Lêônid Lêônôv: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm
ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội
dung” [36, tr.320]. Vân Long, trong Cái ảo trên nền thực cũng đánh giá rất
cao tác phẩm này “Cõi người rung chuông tận thế vừa thể hiện được tầm tư
tưởng của tác giả vừa hấp dẫn bởi những chi tiết trong đời sống được tái hiện

4


qua cách nhìn hóm và sắc của nhà văn, trong 241 trang văn bố cục gọn, chặt”
[36, tr.288].
Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm là một thử nghiệm mới trong cách viết
của Hồ Anh Thái. Đây cũng là một tiểu thuyết được đánh giá rất cao bởi chất
hài hước, nghịch dị. Nguyễn Thị Minh Thái đánh giá cao lối viết mới lạ của
tiểu thuyết: “Góc nhìn ở vị thế hắt sáng, từ phía sau, từ bản thể, giọng tiểu
thuyết giễu nhại, thâm sâu” [30]. Hoài Nam, trong bài “Chất hài hước, nghịch
dị trong Mười lẻ một đêm” cũng đã nhận định: “Có thể thấy, giọng văn ở đây
là giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu
nhại(…). Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc
chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng
nghiệm, vậy thôi” [30]. Từ Nữ, trong bài Tiếng cười trên từng trang cũng đã
có những đánh giá rất cao sức hấp dẫn của Mười lẻ một đêm: “Một cuốn tiểu

thuyết hơn 300 trang với cách viết hài hước đầy chi tiết Carnaval, khiến nó trở
thành cuốn sách được yêu thích nhất trong tháng 3/2006. Không ai lạ lẫm gì
lối viết “Thị Màu” của nhà văn Hồ Anh Thái, nhưng người đọc vẫn vấp từ bất
ngờ này sang bất ngờ khác. Một cuốn tiểu thuyết chứa nhiều thông tin xã hội
làm bạn đọc ngộp thở” [30].
2.2. Những cách nhìn về tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi
Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một thành công mới của
Hồ Anh Thái. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã nhận được sự quan tâm
của đông đảo bạn đọc với đủ thành phần xã hội, trong đó có cả giới tăng ni
Phật tử. Dư luận xung quanh cuốn tiểu thuyết này là rất nhiều. Tuy không
thống nhất, có khen có chê, nhưng một sự thật không thể phủ nhận, đây là một
trong những tác phẩm của văn học Việt Nam đương đại được nói đến nhiều
nhất trong thời gian qua. Có rất nhiều bài nghiên cứu và phê bình về tác phẩm
này. Đáng chú ý là những công trình như: Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng của
Phạm Xuân Thạch; Cảm theo cách của Đức Phật, nàng Savitri và tôi của
Nguyễn Tham Thiện Kế; Phật sử và hư cấu văn chương của Hoài Nam; Xin
5


đừng ảo tưởng và định kiến… Trong những năm gần đây đã xuất hiện một số
luận văn thạc sĩ bàn về tiểu thuyết Hồ Anh Thái, ví như Những đặc sắc nghệ
thuật trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Nguyễn Thị Huệ; Cõi người
trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái của Trần Thị Hải Vân;
Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
của Lê Bảo Trung; Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ trong tư duy nghệ thuật Hồ
Anh Thái của Nguyễn Thị Thuý Hoà; Những cách tân trong văn xuôi Hồ Anh
Thái của Hoàng Thị Thuý Hằng; Nghệ thuật kết cấu của tiểu thuyết Hồ Anh
Thái của Nguyễn Thanh Thuỷ; … Với những mục đích nghiên cứu riêng, các
công trình đó mới đề cập đến một số phương diện chung nhất trong thế giới
nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Anh Thái.

Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm thành công
của Hồ Anh Thái viết về đề tài Ấn Độ. Đây là cuốn thiểu thuyết, theo như
nhận xét trong bài “Cảm theo cách của Đức Phật, nàng Savitri và tôi” của
Nguyễn Tham Thiện Kế: “Không tạo sự khác thường hay căng thẳng gây
hứng thú tâm lý vốn có ở các tác phẩm trước đó của Hồ Anh Thái, Đức Phật,
nàng Savitri và tôi với cách kể chuyện thoải mái, đầy cảm giác tạo nên sự
giao tiếp nhu thuận tự nhiên với người đọc. Đức Phật, nàng Savitri và tôi,
không thể là cuốn sách khó đọc. Nhưng đọc nó theo tinh thần và vị thế nào lại
là chuyện khác. Nó là cuốn sách không dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử
liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là
một cách thức không dễ gì vượt qua của các tiểu thuyết gia. Hồ Anh Thái
hoàn toàn tự chủ và thoải mái nhuần nhuyễn ở trạng thái dung hoà giữa hư và
thực” [20]. Khi cuốn tiểu thuyết ra mắt bạn đọc, Hồ Anh Thái phải đối mặt
với rất nhiều ý kiến dư luận trái chiều. Nhiều bạn đọc ủng hộ, yêu thích và
đánh giá rất cao những thành công trong tác phẩm của ông. Hoàng Công
Danh trong bài viết “Tái hiện phật sử, đồng hiện nghệ thuật, tương hợp đạo và
đời” đã có những nhìn nhận rất sâu sắc và đánh giá cao những thành công của
cuốn tiểu thuyết trên mọi phương diện. Ông viết: “Có rất nhiều điều đáng nói
6


về cuốn sách, ở đây tôi chỉ xin góp một vài lời tâm sự với khán giả và bạn
đọc. Những ai đã đọc qua cuốn sách thì hãy cùng ngẫm lại đôi chút, những ai
chưa đọc thì hãy tìm đọc để thấy cái hay cái đẹp khi đạo pháp đi vào đời sống.
Đó không chỉ là Đức Phật, nàng Savitri và tôi mà là tất cả mọi người”[11].
Nguyễn Tham Thiện Kế khẳng định: “Tôi tin và khẳng định, Đức Phật, nàng
Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng
thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy
cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng(…) Nó là cuốn sách không
dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền

cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là một thách thức không dễ gì vượt qua của
các tiểu thuyết gia” [20]. Bên cạnh những ý kiến ủng hộ thì Đức Phật, nàng
Savitri và tôi cũng gặp không ít những ý kiến phản bác và cho rằng nó chưa
phải là một cuốn tiểu thuyết hay. Trong bài viết “Hồ Anh Thái có „sợ‟ giải
thiêng” nhà nghiên cứu Phạm Xuân Thạch đã phủ định những gì mà dư luận
cho rằng đó là thành công của tiểu thuyết. Ông cho rằng Hồ Anh Thái chưa
đủ sâu sắc và tầm hiểu biết để có thể đưa người đọc khám phá được những bí
ẩn sâu xa của nền văn hoá Ấn Độ: “Ông không đủ sự sâu sắc để chạm đến
tính phức tạp bên trong của nền văn hoá Ấn Độ và tư tưởng Phật giáo. Ông lại
không đủ quyết liệt để đi đến tận cùng cái ý tưởng sáng tạo của mình(…) Đức
Phật trở thành một cái gì lơ lửng giữa một nhân vật tâm lý và một nhân vật tư
tưởng, vừa thiếu phần tâm lý người, cảm xúc người, lại vừa giản đơn về tư
tưởng. Và tất nhiên, Đức Phật của ông lại càng không thể trở thành một nhân
vật có tính biểu hiện, kiểu như nhân vật trong tiểu thuyết từ Kafka trở về sau”
[43]. Trong khi đó, Phạm Xuân Thạch lại cho rằng, Đức Phật, nàng Savitri và
tôi chỉ đơn giản là “loại truyện anh hùng chiến sĩ thi đua rất phổ biến thời
chiến tranh, những cuốn sách được viết ra kiểu người thực việc thực, đơn
giản, phục vụ trực tiếp, kịp thời, loại sách mà dạng thức tiêu cực nhất của nó
đã bị Nguyễn Minh Châu đọc lời “ai điếu” trong những năm đầu thời Đổi
mới” [43]. Và theo ông, Hồ Anh Thái đã giải thiêng hình tượng Đức Phật tuy
7


không chịu công nhận: “Ông Thái không công nhận mình “giải thiêng” cuộc
đời Phật (…) Hình như ông Thái sợ cái từ “giải thiêng” nọ. Điều này thể hiện
một nhược điểm cốt tử trong cuốn sách của ông Thái” [43]. Phản biện lại thái
độ thiếu khách quan và những chỉ trích nặng nề của Phạm Xuân Thạch, tác
giả bài viết “Xin đừng ảo tưởng và định kiến” đã viết “đặt tác phẩm Đức
Phật, nàng Savitri và tôi trong diện mạo văn chương Việt Nam đương đại, thử
hỏi có ai đã viết về văn hoá Ấn Độ và một vĩ nhân của nền văn hoá ấy (Đức

Phật) bằng một lối viết vừa dung dị, vừa sinh động và giàu chất trữ tình như
vậy? Dung dị mà không làm mất đi sự thiêng liêng, giàu chất trữ tình mà
không hề bỏ qua tính chất của một cuốn biên niên sử (…) Giải thiêng hay
không giải thiêng đó là cách tiếp cận của từng độc giả. Một tác phẩm hay sẽ
sống nhiều đời công chúng, nhiều đời nhà văn và tất nhiên nó sẽ sống nhiều
đời phê bình. Ta đang đứng trên cái điểm hữu hạn không thời gian, ta biết sao
được mà vội vàng” [29]. Ở một góc nhìn khác, nhà phê bình Nguyễn Thị
Minh Thái đặt vấn đề, “cớ sao lại nâng đỡ tác phẩm của Hồ Anh Thái đến thế
trong tình cảnh xuất bản thê thảm hiện nay” [29]. Nhà báo Yên Ba trong lần
ra mắt tiểu thuyết của Hồ Anh Thái với bạn đọc cả nước đã đặt ra câu hỏi cho
nhà văn “Phải chăng có lúc nhà nghiên cứu Hồ Anh Thái đã át nhà văn Hồ
Anh Thái”. Trả lời câu hỏi này, tác giả đã khẳng định: “Tôi viết với cảm hứng
tiểu thuyết, bút pháp tiểu thuyết, tư liệu đã được chuyển hoá thành hình
tượng”. Cũng trong lần ra mắt này đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho nhà
văn, bày tỏ những trăn trở của bạn đọc xung quanh cuốn tiểu thuyết về một đề
tài mới lạ và một phong cách viết khá táo bạo của ông. Không chút ngần ngại,
Hồ Anh Thái đã trả lời một cách thẳng thắn không né tránh, giúp bạn đọc thấu
hiểu và thông suốt những thắc mắc về Đức Phật và hành trạng của ngài trên
đất Ấn Độ cách đây hai lăm thế kỷ. Ông cũng nói rõ quan niệm của mình khi
bắt đầu cầm bút viết cuốn tiểu thuyết này. Theo ông, “Văn hoá Ấn như một
đại dương mênh mông, và ai can đảm nhảy xuống phải chấp nhận thách thức,
với nhà văn, dường như càng bơi trên đại dương ấy, càng thấy xa bờ” [37].
8


Nhận xét về Hồ Anh Thái và tác phẩm của ông, nhà văn Tô Hoài cho
rằng “trong số ít cây bút đọc được hiện nay thì Hồ Anh Thái là một nhân tố
điển hình. Một người viết văn như Hồ Anh Thái được coi là hiếm có ở thời
này khi tác phẩm phát hành đều không dưới 5000 cuốn” [2]. Có thể nói, Hồ
Anh Thái cùng với một số cây bút thành công và được coi là những hiện

tượng văn học như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Thuận… đã góp phần tạo ra một diện mạo mới cho văn học mang đậm
dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại, có nhiều khác biệt so với văn xuôi 1945 1975. “Thông điệp của Hồ Anh Thái mang đến không hiện ra lộ liễu mà toát
lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy chất ảo. Với một vốn văn hoá dày
dặn, anh đã lao động cật lực trên từng con chữ và luôn tìm cách bứt phá trên
cơ sở kiến tạo những kiến trúc mới mẻ, táo bạo” [17].
Tất cả những nhận định trên đây về nghệ thuật viết văn của Hồ Anh
Thái đã phần nào giúp chúng tôi hình dung được về quá trình vận động tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn trong mạch nguồn và quỹ đạo đổi mới của
văn xuôi Việt Nam những năm gần đây. Mặc dù có sự khác biệt giữa đặc
điểm thể loại nhưng chúng tôi vẫn thấy cả tiểu thuyết lẫn truyện ngắn đều
có sự thống nhất trong tư tưởng nghệ thuật và trong cảm hứng sáng tạo của
tác giả Hồ Anh Thái.
Những nhận xét cơ bản của các nhà nghiên cứu, các nhà văn, các nhà
phê bình văn học trong và ngoài nước về các sáng tác của Hồ Anh Thái đều là
những phát kiến mới mẻ về đóng góp của tác giả ở cả hai phương diện nội
dung và hình thức.
Tuy nhiên, Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một tác phẩm mới ra đời
cách nay không lâu, chưa có nhiều công trình nghiên cứu thật sự chuyên sâu
về tác phẩm này, và với tư cách là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái thì lại càng hiếm hoi hơn.

9


Với luận văn này chúng tôi mong muốn góp thêm một cái nhìn của
mình vào việc nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết của tác giả Hồ Anh Thái, cả
trên bình diện nội dung lẫn hình thức, qua đó hi vọng sẽ kiến giải được tổng
quát, tầng bậc hơn về tác giả này.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu:

Hồ Anh Thái sáng tác ở cả hai lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết và dù
ở thể loại nào thì sự trải nghiệm cùng những hiểu biết thấu đáo về con người
và cuộc đời kết hợp với một phong cách nghệ thuật đa dạng, linh hoạt trong
tìm tòi, khám phá và thể nghiệm đã đưa lại cho ông những thành công nhất
định.
Trong khuôn khổ yêu cầu của một đề tài luận văn thạc sĩ, không thể
nghiên cứu trên bình diện rộng tất cả các sáng tác ở các thể loại của ông nên
chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi tập trung nghiên cứu và khảo sát ở lĩnh vực
tiểu thuyết và qua một tiểu thuyết tiêu biểu là Đức Phật, nàng Savitri và tôi.
Về văn bản, tôi chọn bản in của nhà xuất bản Đà Nẵng và công ty Văn hóa
Phương Nam, 2007. Đây là tác phẩm đạt giá trị cao về nội dung và hình thức
biểu đạt của tiểu thuyết Hồ Anh Thái, được dư luận trong và ngoài nước đánh
giá tốt. Qua tác phẩm, ta có thể có thêm được cái nhìn mới về nghệ thuật tiểu
thuyết của tác giả.
4. Đóng góp của luận văn
“ Nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái qua “Đức Phật, nàng Savitri
và tôi”” đi sâu tìm hiểu một tác phẩm tiểu thuyết để thấy được những đóng
góp của tác giả Hồ Anh Thái cho nghệ thuật tiểu thuyết đương đại. Chọn
nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích và cũng cố gắng có sự đối
sánh với các tác phẩm khác của Hồ Anh Thái và với các tác giả đương đại với
mong muốn có thể nhận diện và chỉ ra những biểu hiện, những nét cơ bản
nhất của nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Đồng thời phần nào nêu lên

10


những đóng góp mới trong tư duy nghệ thuật của tác giả với lĩnh vực tiểu
thuyết trong văn xuôi đương đại Việt Nam
Chúng tôi không có tham vọng giải quyết thấu đáo tất cả mọi vấn đề về
nghệ thuật tiểu thuyết của các tác giả Việt Nam đương đại mà chỉ mong muốn

góp một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên cứu về một tác giả có
nhiều đóng góp, cách tân nghệ thuật tiểu thuyết mà thôi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và cấu trúc luận văn
- Về phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi cố gắng vận dụng một cách
hợp lý một số lý thuyết mới vào việc nghiên cứu đề tài này như: Thi pháp
học, Tự sự học… Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là một tác phẩm văn xuôi
(tiểu thuyết) nên chúng tôi sử dụng kết hợp các thao tác nghiên cứu của tư
duy khoa học như: Phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh – đối chiếu,
Phương pháp thống kê – phân loại, Phương pháp phân tích – tổng hợp…như
những công cụ căn bản để nắm bắt tất cả những biểu hiện đa dạng, phong phú
trong sáng tạo nghệ thuật cảu tác giả Hồ Anh Thái.
- Về cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Quan niệm về tiểu thuyết và quá trình sáng tác của Hồ Anh
Thái
Chương 2: Nhân vật và tư tưởng trong tiểu thuyết “Đức Phật, nàng
Savitri và tôi”
Chương 3: Kết cấu và ngôn ngữ của tiểu thuyết

11


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT
VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI
1.1. Sự thay đổi trong quan niệm tiểu thuyết sau 1986
1.1.1. Về quan niệm và đặc trƣng của tiểu thuyết
1.1.1.1 Ý kiến của các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu và các tiểu

thuyết gia trên thế giới.
Tiểu thuyết là thể loại chủ công và quan trọng bậc nhất trong văn xuôi
nghệ thuật, vì thế nó là thể loại thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà
văn và bạn đọc. Nói khác đi tiểu thuyết là loại hình nghệ thuật có năng lực
đặc biệt trong việc khám phá chiều sâu và bề rộng của cuộc sống, một nghệ
thuật có sức mạnh lưu giữ bóng hình cuộc sống mà các thể loại khác khó có
thể có được. Mặt khác, trong tiểu thuyết chứa đựng những câu chuyện thế tục
hàng ngày được mọi người thích nghe, dễ đọc, nó là chuyện viết về con
người, về cuộc đời, mang dấu ấn rõ rệt nhất bản sắc của cá nhân người viết và
hiện thực rõ nét của cuộc sống đương thời. Đó là tiếng gọi của tư duy nghệ
thuật tổng hợp, của một trí năng sâu sắc, là nơi nhà văn thể hiện những khát
vọng cao đẹp về cuộc sống và con người.
Vì thể loại tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn, tổng hợp nhiều thể
loại văn học, sử dụng nhiều thủ pháp văn học. Bởi thế, đến nay, có hàng trăm
định nghĩa về tiểu thuyết. Thế nào là tiểu thuyết? Tiểu thuyết được hình thành
ra sao? Đâu là những đặc trưng chủ yếu của nó? Trả lời những câu hỏi đó là
vô vàn quan niệm, vô số công trình nghiên cứu.
Các nhà Mỹ học nổi tiếng đều khẳng định tiểu thuyết là thể loại quy
mô, có khả năng phản ánh hiện thực lớn lao. He-ghel - nhà Mỹ học cổ điển
Đức đã cho rằng:

12


"Tiểu thuyết là sử thi kiểu mới của tầng lớp thị dân, nhằm miêu tả toàn
bộ dạng hình con người và vẽ lên bức tranh đầy đủ về hiện thực". Còn
Biêlinxki - nhà Mỹ học dân chủ Nga quan niệm tiểu thuyết "như là sử thi của
đời tư do chỗ nó miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc
đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của con người”. Nếu ý kiến của Heghel coi tiểu thuyết là sản phẩm của tầng lớp thị dân thì Biêlinxki chú ý đến
một đặc trưng quan trọng của tiểu thuyết: Sử thi đời tư ở đây, “sử thi” là quy

mô thể loại còn “đời tư” được hiểu là cách thức của tiểu thuyết tiếp cận hiện
thực.
Khả năng phản ánh cuộc sống trong tính rộng lớn của tiểu thuyết đã
được Bách khoa toàn thư Compton's - Mỹ khẳng định: "Tiểu thuyết chính là
mảnh đất lưu giữ bóng hình cuộc đời". Theo đó thể loại này có những biểu
hiện và đặc điểm “truyền thống” sau đây:
Nhà tiểu thuyết luôn đặt câu chuyện của mình trên nền tảng đời sống
hiện thực, tức là đã được trực tiếp trải nghiệm hoặc thông qua các sự kiện
quan sát được hoặc sự hiểu biết về cuộc đời của người khác. Tiểu thuyết gia
tuyển chọn và sắp xếp chất liệu lấy từ đời sống thực những biến cố có ý nghĩa
nhất, đồng thời có thể miêu tả những nghịch lý không có thực trong đời sống.
Nghĩa là ở tiểu thuyết, dữ kiện có thể bị bóp méo, nhằm gia tăng, đề cao cốt
truyện, hấp dẫn người đọc. Tuy vậy phải nhớ rằng, tất cả đều phải mang tính
chân lý. Và tất nhiên, chân lý mà tiểu thuyết đạt đến chủ yếu là chân lý về đời
sống là thái độ hướng đến Chân – Thiện – Mỹ của nhà văn. Nói một cách
khác, một tiểu thuyết hay phải chứa đựng những dữ kiện của đời sống thực,
nhưng mang giá trị phổ quát nhất định: Nó phải thu hút được sự chú ý, nuôi
dưỡng được mối hồ nghi của độc giả trong một diễn tiến được trôi dạt thoả
sức vào huyền ảo của trí tưởng tượng.
Quan niệm về tiểu thuyết đáng chú ý nhất là của nhà lí luận văn học
người Nga M. Bakhtin, trong cuốn sách “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết" ông
đã nhận định như sau:
13


“ Việc nghiên cứu tiểu thuyết với tư cách một thể loại vấp phải những
khó khăn đặc biệt. Đó là do tính đặc thù của bản thân khách thể này: Tiểu
thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định
hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng ta:
Thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch

nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta
chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó...” [52].
Từ đó M. Bakhtin cho rằng việc xây dựng lý thuyết tiểu thuyết là việc
cực kỳ khó khăn. Bởi vì, thực ra lý thuyết ấy có một khách thể hoàn toàn khác
với lý thuyết các thể loại kia. Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại
trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi
thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại
ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ được thời đại mới kế thừa ở dạng
đã hoàn tất và chúng chỉ thích nghi – khá hơn hoặc kém hơn với những điều
kiện sinh tồn mới. So với chúng thì tiểu thuyết là một sinh linh thuộc giống
nòi khác. Nó khó sống chung với các thể loại kia. Nó đấu tranh dành lấy vị trí
thống trị trong văn chương, và nơi nào nó ưu thắng, ở đấy những thể loại
khác, thể loại cũ sẽ bị phân hoá. Tiểu thuyết luôn giễu nhại các thể loại khác
(đích thị với tư cách thể loại), lột trần tính ước lệ về hình thức và ngôn ngữ
của chúng, nó lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của
mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng.
Vượt lên trên mọi khó khăn trong việc xác định và nghiên cứu đó M.
Bakhtin đã cố gắng thử tiếp cận tiểu thuyết đích thị như một thể loại luôn luôn
biến chuyển, thể loại đi đầu trong tiến trình phát triển của toàn bộ văn học
thời đại mới.
Trên cơ sở đó tác giả đã tìm ra ba đặc điểm cơ bản, ba đặc trưng tiêu
biểu nhất làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc với tất cả các thể loại
khác:

14


- Tính đa chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với ý
thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết.
- Sự thay đổi cơ bản các toạ độ thời gian của hình tượng văn học trong

tiểu thuyết.
- Khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết chính
là khu vực tiếp xúc tối đa với cái hiện tại (đương đại) ở thì không hoàn thành
của nó.
M. Bakhtin cho rằng cả ba đặc điểm trên của tiểu thuyết đều liên quan
hữu cơ và mật thiết với nhau.
Milan Kundera - Tiểu thuyết gia người Cộng hoà Czech, tác giả của
Nghệ thuật tiểu thuyết và cuốn tiểu thuyết Sự bất tử có những quan điểm mới
về tiểu thuyết hiện đại:
“ Tiểu thuyết được coi như là một tuyệt đỉnh siêu ngôn ngữ, một thiết bị
có khả năng sáp nhập tối đa tất cả mọi diễn từ khác, kể cả triết học”.
Ông cho rằng, tiểu thuyết không phải là một thể loại, mà là một nghệ
thuật có thể tạo ra hiệu quả chân lý, một hiệu quả chân lý không thể đạt được
bằng con đường khác. Tiểu thuyết hiện đại xáo trộn danh giới giữa hư cấu và
tự truyện. Trong tiểu thuyết hiện đại, bố cục truyền thống, trình tự đơn tuyến,
được thay thế bằng tính tự trị tương đối của các chương đoạn và một cấu trúc
phức hợp: Ở đây quan hệ nhân quả là tiếng đồng vọng và các chủ đề được đan
chéo lặp đi, lặp lại qua các chương mục.
1.1.1.2. Ý kiến của các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu và các tiểu
thuyết gia trong nước.
Việc kế thừa và lĩnh hội những tinh hoa tri thức của thế giới về nghiên
cứu trong văn học nói chung và văn xuôi mà cụ thể là tiểu thuyết nói riêng đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm của giới nhà văn và nhà nghiên cứu văn
học ở Việt Nam.

15


Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong bài Tiểu thuyết là gì (Công việc của
người viết tiểu thuyết – Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1969) thể hiện nhiều

trăn trở về thể loại này:
“Tiểu thuyết là gì? Thật khó trả lời quá! Tôi nhớ trong kháng chiến, có
lần Nam Cao vừa cười vừa nói: Tiểu thuyết là truyện bịa y như thật! Câu nói
nghe khôi hài mà cũng đã đúng! Nhưng đó là một cách nói vui mà thôi. Câu
nói ấy mới nêu lên một đặc điểm của tiểu thuyết, chứ vẫn không định nghĩa
được nó là gì. Bởi vì tiểu thuyết tức là truyện (ta cũng thường gọi tiểu thuyết
là truyện dài) ... Nếu định nghĩa tiểu thuyết là truyện (bịa như thật ... ) thì
khác nào nói: Truyện là truyện ... nghĩa là không cắt nghĩa gì cả. Vậy truyện
(hay tiểu thuyết) là gì? Ai cũng biết truyện là gì, nhưng định nghĩa nó thì rất
khó”. Ông khẳng định: “Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu
của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu,
chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau”.
Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại cũng đưa ra
quan niệm của mình:“Tiểu thuyết là gì? thật khó mà trả lời ngay trong một
định nghĩa ngắn gọn chính xác so với các thể loại khác như sử thi cổ đại, bi
kịch ... thì tiểu thuyết là một thể loại hãy còn rất trẻ và đang phát triển”.
Tiếp thu tư tưởng của M.Bakhtin, tác giả viết: “Tự bản chất nó vốn
không có tính quy phạm. Đó chính là hiện thân của sự uyển chuyển. Đó là
một thể loại luôn luôn đi tìm, luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn xét
lại tất cả những hình thức đã thành hình của mình. Một thể loại như vậy chỉ
có thể là một thể loại được xây dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện
thực đang tiến triển”.
Và trong quá trình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết tác giả đã đưa ra
những đặc trưng thẩm mỹ của nó như sau:
- Tiểu thuyết là một thể loại văn học gần gũi nhất với cuộc sống (đây là
đặc trưng thẩm mỹ chủ yếu của thể loại này).

16



- Cuộc sống trong tiểu thuyết bao giờ cũng là một cuộc sống toàn diện,
phong phú và nhiều mặt.
- Trong tiểu thuyết, các tính cách nhân vật có một sự phát triển “ tự
thân” như là trong cuộc sống đời thật.
- Tiểu thuyết gắn liền chặt chẽ với cuộc sống của quần chúng nên nó là
một trong những thể loại dân chủ nhất của văn học.
- Trong tiểu thuyết các màu sắc thẩm mỹ pha trộn, đan chéo nhau và
chuyển hoá lẫn nhau.
- Tiểu thuyết có một dung lượng lớn bảo đảm cho nhà văn một khoảng
không gian mênh mông hơn nhiều thể loại khác.
Tiểu thuyết trình bày đời sống cá nhân và đời sống xã hội như những tố
chất có tính độc lập tương đối, không làm cạn kiệt được nhau, không ngốn
nuốt được nhau, đây là đặc điểm quyết định nội dung thể loại của tiểu thuyết.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Nhà xuất bản Giáo dục - tái bản năm
2004) tiểu thuyết được định nghĩa như sau:
“Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, nó đặc biệt phổ biển trong thời
kỳ cận đại và hiện đại có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới
hạn không gian và thời gian. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần
thuật nên tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng”. Theo chúng tôi, cách hiểu trên đây của các tác
giả khá toàn diện, nêu lên được những nét đặc trưng cơ bản nhất của thể loại.
Từ thực tiễn văn học ta thấy: Tiểu thuyết thường được mùa sau những
chấn động lớn của xã hội, sự bức bối của ngòi bút đòi giải toả và sự xuất hiện
những yếu tố mới lạ trong văn hoá, tình cảm. Vấn đề cốt yếu và căn bản của
tiểu thuyết không phải chỉ là chất liệu mới lạ, mà còn là cách nhìn, cách xem
xét hiện thực. Nhà tiểu thuyết cần có tầm nhìn, tư thế nhân loại mới có thể có
tác phẩm hay. Chúng ta hiểu rằng tiểu thuyết bao giờ cũng là một câu chuyện
17



lớn bao gồm trong nó nhiều câu chuyện nhỏ là bức tranh hoành tráng, thiếu
nó, dân tộc thiếu sử thi, do vậy hiện thực đời sống đương đại luôn là đối
tượng của tiểu thuyết nhà văn không thể trốn khỏi nó được và phải phản ánh
thật sinh động về diện mạo và hơi thở của chính nó.
Trên đây là những quan niệm và những suy ngẫm tìm tòi về thể loại
tiểu thuyết của các nhà lý luận, nhà nghiên cứu, các tiểu thuyết gia nổi
tiếng mà thông qua nghiên cứu và xem xét chúng tôi thấy họ đã đưa ra
những cái nhìn đa diện – nhiều chiều về một thể loại tương đối khó trong
việc nghiên cứu – thể loại tiểu thuyết. Thông qua những quan niệm đó hi
vọng chúng tôi sẽ có được những cách tiếp cận, những kiến giải sâu hơn về
bản chất của thể loại này.
1.1.2. Tiểu thuyết sau 1986 – một giai đoạn mới, một diện mạo mới
Sau 1975, nhất là từ Đổi mới (1986), tiểu thuyết Việt Nam đã có nhiều
bước chuyển đáng kể. Một đội ngũ nhà văn đông đảo thuộc nhiều thế hệ đã
nối tiếp vượt qua những rào cản trói buộc, hướng tới tìm tòi, thể nghiệm mới
mẻ, làm phong phú, đa dạng thể loại tiểu thuyết. Cũng từ sau Đổi mới (1986),
số lượng tiểu thuyết được xuất bản khá lớn. Mỗi tác phẩm tiếp cận hiện thực ở
những góc độ khác nhau, phân tích, kiến giải nó dưới nhãn quan riêng của
người nghệ sĩ, tạo ra đời sống tiểu thuyết sôi động, phong phú. Với xu hướng
dân chủ hoá, nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã chạm vào mọi
ngóc ngách, tầng vỉa của đời sống xã hội với tất cả sự ngổn ngang, bề bộn của
cuộc đời.
Về phương diện nghệ thuật, tiểu thuyết đương đại có sự cách tân mạnh
mẽ. Nhiều cây bút tiểu thuyết, đặc biệt là những cây bút trẻ với bản lĩnh, tài
năng, chấp nhận sự mạo hiểm luôn sáng tạo, thể nghiệm, cách tân trên nhiều
phương diện, từ cốt truyện, giọng điệu, ngôn ngữ, bút pháp… khai thác tối đa
hiệu quả biểu đạt của các yếu tố này. Thoát khỏi mô hình kết cấu tiểu thuyết
truyền thống, các cây bút tiểu thuyết đương đại lựa chọn kiểu cấu trúc lỏng
lẻo, lắp ghép, với cốt truyện giàu tâm trạng, nhiều kết thúc để ngỏ. Tiểu

18


thuyết đương đại dung nạp mọi sắc thái ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ đời thường
trần trụi, góc cạnh. Nhiều tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật được cá tính hoá cao
độ, giọng điệu tiểu thuyết đa thanh với nhiều sắc thái khác nhau, có hài hước,
trữ tình, có cật vấn, hoài nghi, triết lí. Cũng không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Huy Thiệp gọi đây là “thời của tiểu thuyết”.
Cho đến nay, quá trình đổi mới văn học đã đi được một chặng đường
dài hơn 20 năm và vẫn đang tiếp diễn. Văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói
riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu. Thành tựu nổi bật
làm thay đổi diện mạo tiểu thuyết đương đại chính là sự đổi mới tư duy văn
học. Văn học Việt Nam 1945 - 1975, do sự quy định của điều kiện lịch sử - xã
hội là nền văn học phát triển theo khuynh hướng sử thi, đối tượng nhận thức
và phản ánh của văn học tương đối hạn hẹp. Từ đầu thập kỉ 80, nhiều nhà văn
mẫn cảm đã nhận thấy sư lệch pha giữa đời sống và văn học và họ bắt đầu
thấy cần cảm nhận hiện thực theo cách mới. Văn học chuyển sang kiểu tư duy
mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương đại đang diễn ra; từ mục
tiêu hướng về cuộc chiến đấu cho quyền sống dân tộc, văn học tham gia vào
cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng cá nhân. Không có lãnh địa nào là
“vùng cấm” đối với nhà văn thời Đổi mới. Tiểu thuyết thời kì này không ngần
ngại miêu tả tính dục, tình yêu, nhục thể - là lĩnh vực rất riêng của mỗi cá
nhân, khai thác các yếu tố tích cực của con người tự nhiên là khía cạnh nhân
bản của văn học. Thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, vùng mờ của ý thức
cũng là phạm vi chiếm lĩnh của tiểu thuyết.
Ở thời đại nào, đối tượng trung tâm của sự nhận thức, phản ánh văn học
cũng là con người. Giai đoạn văn học trước, trung tâm của sự phản ánh là con
người công dân, con người cộng đồng. Trong thời kì Đổi mới, con người
được nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Các cây bút viết tiểu thuyết
đã không ngần ngại đi vào số phận, những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân

sinh, bi kịch giữa khát vọng và hiện thực, thanh lọc và tha hóa, nhân bản và
phi nhân bản. Số phận cá nhân được nhìn nhận trong mối quan hệ mật thiết
19


với cộng đồng. Đằng sau mỗi số phận, mỗi cá thể là những vấn đề mang ý
nghĩa nhân sinh của thời đại, có sự giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể
và con người nhân loại. Chính những tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu, Bảo
Ninh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… rồi các nhà văn trẻ thế hệ sau: Nguyễn Bình
Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… đã mang lại cho tiểu thuyết một
gương mặt mới.
Cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, cấu trúc tiểu thuyết.
Từ sau 1975, do sự đổi mới tư duy văn học, đề tài thế sự, đời tư phát triển
mạnh mẽ đã xuất hiện những cốt truyện về cái bình thường, nhỏ nhặt của cuộc
sống hằng ngày. Sự xuất hiện của các dòng ý thức, những hồi ức, giấc mơ…
là những yếu tố làm nên cốt truyện tâm trạng. Kĩ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc
thoại nội tâm, dòng ý thức, sử dụng các yếu tố kì ảo khiến cốt truyện trở nên
lỏng lẻo, mơ hồ, co dãn, biến hóa, khó tóm tắt và có thể nói đến một hiện
tượng: sự tan rã của cốt truyện trong các tự sự truyền thống. Về đoạn kết của
tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết trọn vẹn,
có tác phẩm với kết thúc lỏng lẻo, không hoàn tất. Sự đổi mới về nghệ thuật
tổ chức, cấu trúc tiểu thuyết cho thấy một cách nhìn, cách tiếp cận mới về
cuộc sống và con người.
Tiểu thuyết đương đại có sự phối hợp, đa thanh trong giọng điệu, khó
có thể có sự phân chia rạch ròi giọng tác giả, giọng nhân vật. Giọng kể cũng
không mang tính chất răn dạy mà chỉ đơn giản là kể lại, thuật lại, có khi
“không nghiêm túc”, “nửa đùa nửa thật”. Giọng suy tư, triết lí là một nét độc
đáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Trong một tác phẩm có nhiều cuộc
đối thoại, tranh biện, những lời nói đầy triết lí về con người, cuộc đời, nhân
sinh thế sự. Mỗi nhà văn góp vào dòng chảy văn học một tiếng nói mới, một

giọng điệu mới, một tư tưởng mới, góp phần làm phong phú, đa dạng, sinh
động cho cả nền văn học giai đoạn này. Hơn 30 năm tồn tại, vận động và phát
triển, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có nhiều biến chuyển. Tiểu thuyết
phong phú về đề tài, có nhiều tìm tòi về thủ pháp nghệ thuật, đa dạng về
20


×