Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ống tủy chữ S

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 11 trang )

phuong thao
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng
Biên dịch:Phương Thảo
/>
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
ỐNG TỦY HÌNH S: LOẠT CA LẤM SÀNG THỰC HIỆN BỞI BỐN
CHUYÊN GIA TRÊN THẾ GIỚI
Ricardo Machado1, Antonis Chaniottis,2 Jorge Vera,3 Carlos Saucedo,4 Luiz
Pascoal Vansan,1và Emmanuel João Nogueira Leal Silva5
1
Trường đại học São paulo, Ribeirão preto, Brazil
2
Thực nghiệm hạn chế nội nha tư nhân, Kalithea, Hy Lạp
3
Trường đại học Tlaxcala, Puebla, Mexico
4
Thực nghiệm hạn chế nội nha tư nhân, Monterrey, Mexico
5
Đại học Grand Rio, Rio de Janero, Brazil
Các tương tác xin gởi về RicarrdoMachado;
Received 18 February 2014; Revised 21 June 2014; Accepted 21 June 2014; Published 16 July 2014
Academic Editor: Juan Jos’e Segura-Egea
Copyright c 2014 Ricardo Machado et al. This is an open access article distributed under the Creative Commons
Attribution License, which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any medium, provided the
original work is properly cited.

Phát hiện được các biến thể về giải phẫu của các răng cần điều trị là một thử
thách thật sự cho các nhà lâm sàng. Hinh thái cong quá mức thường là biến thể
quan trọng hay gặp nhất và dễ dẫn tới sự cố gãy dụng cụ khi thao tác. Trong các
điều kiện lâm sàng, hai độ cong khác nhau có thể ở trên cùng một ống tủy. Loại
hình thể này được gọi là ống tủy dạng S, và đây là một tình huống khá thử thách.


Bài báo này miêu tả các trường hợp lâm sàng và giảng dạy khác nhau khi bốn
chuyên gia trên thế giới đối diện với tình huống này và cách họ tiếp cận để điều trị
các ống tủy dạng S. Lý thuyết nội nha về các trường hợp này khá mờ nhạt và đây
cũng là một thử thách về khoa học cũng như nghệ thuật nha khoa. Kinh nghiệm
lâm sàng và giảng dạy của các tác giả cho thấy các cách tiếp cận khác nhau, và
chúng ta có thể sử dụng chúng để có thể điều trị thành công các răng có ống tủy có
nhiều độ cong khác nhau. Ở đây chúng tôi cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc
tích lũy các kiến thức về hình thái ống tủy cũng như các biến thể của chúng.
1.GIỚI THIỆU
Hệ thống ống tủy thẳng đơn giản là một ngoại lệ và không phải là quy tắc áp
dụng ở bộ răng người. Tự nhiên thường tạo ra các hệ thống ống tủy cong với các
mức độ phức tạp khác nhau và các mức độ cong ở các mặt phẳng khác nhau [1].
Khi gặp phải các hệ thống ống tủy dạng này, việc làm sạch và tạo hình ống tủy
thường gặp khó khăn [1-3]. Nhiều nghiên cứu mới đây nhấn mạnh sự phức tạp của
hệ thống ống tủy [4-6], chúng tạo ra những khó khăn thực sự cho công việc điều trị


phuong thao
nội nha. Ống tủy cong nhiều hướng trong không gian là một ví dụ tiêu biểu cho các

thử thách lâm sàng [1, 7, 8] và sửa soạn “ lý tưởng” cho các răng này thường khá
khó khăn [9, 10].
Mục đích của bài báo này là miêu tả 4 ca ống tủy hình S với các cách tiếp cận khác
nhau qua bàn tay của bốn chuyên gia và trong các điều kiện lâm sàng khác nhau.
2.TƯỜNG THUẬT CA LÂM SÀNG
2.1.Ca 1. Một bệnh nhân nam 40 tuổi đã tới phòng khám của một trong bốn tác giả
(Jorge Vera) với cơn đau nặng mỗi khi có kích thích lạnh ở cung răng hàm trên bên
trái. Bệnh nhân không có tiền sử gì đặc biệt. Tất cả các răng trong vùng liên quan
đáp ứng ở giới hạn bình thường với các thử nghiệm nhiệt trừ răng hàm nhỏ hàm
trên bên trái. Đo túi lợi có kết quả 3mm ở tất cả các răng trong vùng. Phim chụp

trước xử trí cho thấy có lỗ sâu mặt xa trên răng hàm nhỏ thứ hai bên trái và ống tủy
dạng S với hai độ cong khác nhau. Sau khi tổng hợp các dữ liệu, tác giả đưa ra
chẩn đoán là viêm tủy không hồi phục (hình 1a).
Sau khi thực hiện gây tê thấm (Articaine 1:100000 epinephrine), tác giả đặt đê và
tạo đường vào với mũi khoan số 2 (KG Sorensen Zenith Dental Aps, AgerskovDenamark), trâm K 08 và 10 (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) được
sử dụng đầu tiên với Gel bôi trơn Slick (SybronEndo, Orange County, CA) để
thăm dò chiều dài làm việc. Đầu tiên các trâm chỉ đi được một khoảng rất ngắn, do
đó tác giả sử dụng phương pháp bước lùi với thao tác quay 360◦ ngược chiều kim
đồng hồ với mỗi trâm sử dụng, tác giả sử dụng các trâm K số 15, 20, 25, 30
(Denstply Maillefer, Ballaigues, Switzerland) với áp lực nhẹ xuống phía chóp. Sau
khi sử dụng các trâm có kích thước lớn, dung dịch 5,25% NaOCl được bơm đầy
trong ống tủy, sau đó với trâm 10K và máy định vị chóp Elements Diagnostic
Apex Locator (SybronEndo, Orange County, CA) và phim chụp, ta xác nhận lại
chiều dài làm việc (Hình 1b). Trâm K số 10 và 15 thao tác ở chiều dài làm việc,
sau đó sử dụng trâm xoắn (twisted files) số 25/10 và 25/8 thao tác ở phần cổ và 1/3
giữa ống tủy với phương pháp bước xuống. 1/3 chóp được sửa soạn với các dụng
cụ TF số 25/6, 30/6, 35/6. Dung dịch NaOCl 5,25% bơm rửa ống tủy sau mỗi dụng
cụ và ta luôn kiểm tra với trâm K số 10 trong suốt quá trình làm sạch và tạo hình
ống tủy. Dụng cụ bơm rửa siêu âm bị động với đầu siêu âm Irrisafe (Satelec,
Merignac, France) được sử dụng với thời gian 1 phút trong ống tủy bơm đầy
NaOCl 5,25%; ống tủy sau đó được bơm rửa bằng EDTA 17%, thấm khô, và trám
bít bằng gutta percha và Kerr Pulp Canal Sealer (Kerr Corporation, Orange, CA)
sử dụng phương pháp lèn sóng liên tục [12] với máy Elements Obturation Device
(SybronEndo, Orange County, CA). Chuyển động về phía dưới được thực hiện để
trám bít 4mm chóp của ống tủy và gutta percha được bơm vào ống tủy với dụng cụ
bơm gutta (Hình 1c).


phuong thao


1.a Phim ban đầu

1.b Phim chiều dài lv

1.c Phim cuối cùng

2.2 Ca 2. Một bệnh nhân nữ 60 tuổi tới phòng khám của một trong các tác giả
(Antonis Chaniottis) để đánh giá và điều trị (nếu được) răng hàm nhỏ thứ hai hàm
trên bên trái. Răng này có phản ứng với sờ và gõ. Thử nhiệm nhiệt và điện âm tính.
Thông qua thăm khám và chụp phim ban đầu, tác giả quan sát thấy tổn thương cận
chóp kết hợp với chóp răng liên quan có giải phẫu dạng S (Hình 2a). Sau khi tổng
hợp các dữ liệu, tác giả chẩn đoán đây là một trường hợp viêm quanh cuống.
Sau khi gây tê thấm (Articaine 1:100000 epinephrine), tác giả đặt đê. Đường vào
răng được thực hiện bằng mũi Endo Acces số 2 Dentsply Maillerfer, Ballaigues,
Switzerland). Sau đó ta tiếp tục sử dụng mũi Endo Z để hoàn thiện xoang
(Dentsply Maillefer, Ballaigues, Switzerland). Loại bỏ các cản trở phía cổ răng của
ống tủy bằng trâm máy Protaper SX (Dentsply Maillefer, Ballaigues, Switzerland).
Chiều dài giải phẫu dạng S được xác định trên phim (hình 2b). Để tiếp cận dạng
ống tủy này, đầu tiên ta sử dụng các trâm cầm tay K số 06, 08 và 10 (Dentsply
Maillerfer, Ballaigues, Switzerland). Chiều dài làm việc được xác định bằng máy
định vị chóp Root ZX apex locator (J.Morita Inc., Kyoto, Japan) và xác nhận lại
bằng phim chụp (Hình 2b). Thăm dò bằng cách đưa chậm các trâm K tới chiều dài
làm việc và thao tác đè nhẹ vào thành ống tủy. Việc này sẽ giúp tạo ra một đường
vào dụng cụ trơn tru dọc theo độ cong chữ S với ít dụng cụ nhất trong quá trình tạo
hình.
Sau khi qua công đoạn với các dụng cụ bằng tay, trâm máy số 1 và số 2 Pathfinder
(Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) được sử dụng tới chiều dài làm việc,
sau đó là các trâm Grace số 10/4 và 10/6 (FKG Dentaire, La Chaux-de-Fonds,
Switzerland) tới chiều dài làm việc. Ta không mở rộng độ cong S của ống tủy.
Dùng NaOCl 6% bơm rửa sau mỗi dụng cụ. Việc tắc ống tủy được dự phòng bằng



phuong thao
cách uốn cong các trâm K 08 đưa vào và thông ống tủy giữa mỗi lần sử dụng trâm
máy.
Bơm rửa tích cực sau khi hoàn thành tạo hình ống tủy bằng trâm K số 15 siêu âm
(Satelec Acteon Group, Meringnac Cedex, France). Sau đó ống tủy được bơm rửa
bằng EDTA 17% trong 2 phút và cuối cùng là bơm rửa bằng nước tiệt trùng. Sau
khi thấm khô bằng côn giấy 20, ống tủy được trám bít bằng Kỹ thuật Lèn sóng liên
tục (Continuos Wave of Condensation Technique)[12].
Hai côn gutta percha nhỏ được đo ở đường kính 20 và nhúng vào AH Plus Sealer
(Dentsply Detrey, Konstanz, Germany) và đưa vào tới chiều dài làm việc. Dùng
mũi siêu nhỏ của Element Obturation Unit (SybronEndo, Orange County, CA)
được thiết lập thông số ở 200◦C 5mm cách chiều dài làm việc. Côn gutta ở chóp
được lèn bằng cây Dovgan plugger số 35 (G.Hartzell&Son, Concord, CA). Trám
lùi bằng cách sử dụng máy Extruder Element Unit (SybronEndo, Orange County,
CA) thông qua mũi 25 để bơm gutta nóng chảy tốc độ cao (hình 2c).

2a. Phim chụp đầu tiên 2b. Phim chụp xác định 2c. Phim chụp ngay lập
cho thấy thấu quang ở chiều dài làm việc
tức sau trám
vùng cận chóp
2.3. Ca 3. Một bệnh nhân nữ 32 tuổi tới phòng khám của một trong các tác giả
(Ricardo Machado) với cơn đau khủng khiếp khi có kích thích lạnh ở cung hàm
trên bàn trái. Tiền sử bệnh nhân không có gì đặc biệt. Tất cả các răng trong vùng
đều đáp ứng trong khoảng bình thường với các thử nghiệm nhiệt và điện trừ răng
hàm nhỏ thứ nhất hàm trên cho thấy một đáp ứng quá mức. Dùng sonde nha chu
cho thấy các răng có túi lợi 3mm. Phim chụp trước xử trí cho thấy có lỗ sâu chung



phuong thao

quanh chụp răng và ống tủy dạng S (Hình 3a). Sau khi tổng hợp các dữ liệu, tác giả
chẩn đoán đây là một viêm tủy không hồi phục.
Sau khi gây tê thấm (Articaine 1:100000 epinephrine), tác giả đặt đê. Đường vào
được mở bằng mũi 1016 HL (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) và
hoàn thiện bằng mũi Endo Z (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland). Loại
bỏ các cản trở bằng trâm máy Protaper SX, S1 và S2 10 (Dentsply Maillerfer,
Ballaigues, Switzerland).
Tiếp cận vùng S bằng trâm K số 10 (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland).
Chiều dài làm việc được xác định bằng máy định vị chóp Elements Diagnostic
Apex Locator (SybronEndo, Orange, CA, EUA). Thăm dò bằng cách đưa chậm các
trâm K tới chiều dài làm việc và thao tác đè nhẹ vào thành ống tủy. Việc này sẽ
giúp tạo ra một đường vào dụng cụ trơn tru dọc theo độ cong chữ S với ít dụng cụ
nhất trong quá trình tạo hình.
Sau đó, dùng kỹ thuật bước xuống [13] với các profile từ số 04 tới 30 (Dentsply
Maillerfer, Ballaigues, Switzerland). Bơm rửa bằng NaOCl 2.5% sau mỗi dụng cụ
được sử dụng. Để trách tắc ống tủy, giữa các mũi file máy sử dụng, ta cân dùng
trâm K 10 (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) để thông ống tủy. Sau đó
ống tủy được bơm rửa bằng EDTA 17% trong 3 phút và thấm khô bằng côn giấy
30 , trám bít bằng Kỹ thuật lai Tagger [14].
Hai côn gutta chính (Profile.04- Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland)
được đặt vào ống tủy rồi chụp phim kiểm soát. Các cây côn được phủ AH Plus
Sealer (Dentsply DeTrey, Konstanz, Germany) và đặt tới chiều dài làm việc với sự
giúp đỡ của cây lèn số 30 (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland). Tiếp đó,
đặt 3 côn phụ. Dùng lây lèn McSpadden 40/0.2 ở 2/3 ống tủy. Răng được trám tạm
bằng Cavit (ESPE, Seefeld Oberb, Germany) và bệnh nhân được đặt hẹn quay lại
để hàn vĩnh viễn (hình 3b và 3c).

3.a. Phim chụp ban đầu


Biên dịch: Phương Thảo

3b. Phim chụp cuối (Nhìn 3c. Phim chụp cuối (Nhìn
thẳng)
phía gần)

Page 5


phuong thao

2.4. Ca 4. Một bệnh nhân nam 37 tuổi tới phòng khám của một trong các tác giả
(Carlos Saucedo) để điều trị nội nha cho răng hàm nhỏ thứ hai hàm trên bên phải.
Điều trị đã được tiến hành bởi một phòng nội nha khác trước đó nhưng chưa hoàn
thành. Do đường vào đã mở nên thử nghiệm nhiệt không có giá trị. Các răng bên
cạnh không có dấu hiệu đáng chú ý nào. Độ sâu túi lợi khoảng 3. Phim chụp ban
đầu cho thấy đường vào ống tủy đã mở và ta có dạng ống tủy chữ S (hình 4a).
Sau khi gây tê thấm (Articain 1: 100000 epinephrine), tác giả đặt đê. Tháo trám
tạm bằng mũi 1016 HL (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) và hoàn
thiện xoang bằng mũi Endo Z (Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland). Do
chỉ một ống tủy được tìm thấy ở phía ngoài, ta mở rộng đường vào về phía khẩu
cái để tìm ống tủy trong. Đầu tiên tác giả tiếp cận ống tủy với trâm K C+ số 06
(Dentsply Maillerfer, Ballaigues, Switzerland) 3-4mm cách chóp. Bơm rửa bằng
EDTA 17% và loại bỏ cản trở 2/3 trên bằng Hệ thống TF (SybronEndo,
Orange,CA, EUA) bắt đầu bằng cây 25/10 tới 3-4mm cách lỗ tủy và sau đó là cây
25/08 đi 5-7mm độ sâu. Tiếp đó, dùng máy định vị chóp Mini Apex Locator
(SybronEndo, Orange, CA, EUA) để tiếp cận chiều dài làm việc và xác nhận lại
bằng phim chụp (hình 4b).
Sau khi đạt tới chiều dài làm việc với trâm K C+ 10 (Dentsply Maillerfer,

Ballaigues, Switzerland) tác giả sử dụng hệ thống Hyflex CM (ColteneWhalendent, Allstetten, Switzerland) kết thúc với dụng cụ 30/04. Luôn luôn tránh
tắc ống tủy bằng cách thông nhiều lần bằng cây trâm K số 10 (Dentsply Maillerfer,
Ballaigues, Switzerland) sau mỗi dụng cụ quay kết hợp với NaOCl 5% bơm rửa
với hệ thống Endovac (SybronEndo,Orange, CA, EUA). Ống tủy được bơm đầy
dung dich EDTA 17% trong 2 phút và thấm khô bằng côn giấy 20, sau đó trám bít
bằng kỹ thuật lèn sóng liên tục [12]. Dùng côn chính Hyflex 30/04 (Colten
Whaledent, Allstetten,Switzerland) tới chiều dài làm việc (hình 4c). Dùng cây
plugger 25/06 của máy System B (SybronEndo, Orange, CA, EUA) cách chiều dài
làm việc 5mm. Côn được phủ bằng Pulp Canal Sealer EEWT (SybronEndo,
Orange, CA, EUA) và gutta được lèn nóng bằng cây Plugger Buchanan số 2
(SybronEndo, Orange, CA, EUA) tại 200◦C. Hệ thống ống tủy còn lại được trám
bằng máy System B Cordless. Xi măng thủy tinh (Fuji X GC Asia Dental Ptv Ltd,
City Madhapur, Hyderabad, India) được dùng để trám kín thân răng và bệnh nhân
được hẹn để trám vĩnh viễn (hình 4d).

/>
Biên dịch: Phương Thảo

Page 6


phuong thao

4a. Phim ban đầu cho thấy đã mở đường 4b. Xác định chiều dài làm việc
vào buồng tủy.

4c. Phim chụp với côn chính trong ống
tủy
Biên dịch: Phương Thảo


4d. Phim chụp cuối cùng
Page 7


phuong thao

3.BÀN LUẬN
Sự phức tạp giải phẫu và ống tủy cong hai lần đã được đề cập trong nhiều nghiên
cứu [15-17]. Các hệ thống ống tủy phức tạp không được làm sạch và trám bít một
cách phù hợp là nguồn gốc của các cơn đau kéo dài, không bảo đảm thành công dài
hạn cho điều trị [18,19].
Việc chẩn đoán và quản lý các dạng cong đôi, hay ống tủy hình S, là một thử thách
nội nha. Thăm khám cẩn thận và phân tích phim chụp ban đầu giúp ích rất nhiều
cho tình huống lâm sàng này [20-22]. Dựa trên các tài liệu nha khoa và các mô tả
nhiều ca lâm sàng như trên, ta có thể thấy rằng việc hiểu rõ giải phẫu chân răng là
không thể thiếu để điều trị nội nha thành công. Các nhà lâm sàng khác nhau trong
bài viết này cho thấy các quy trình lâm sàng khác nhau và hữu ích có thể trở thành
các hướng dẫn cho mọi pha điều trị nội nha. Quy trình điều trị nội nha đòi hỏi phải
chú ý rất kỹ độ phức tạp của giải phẫu ống tủy và các biến thể giải phẫu này có thể
tìm thấy ở mọi phần của chân răng người chứ không chỉ phần chóp răng [23, 24].
Cẩn thận, kỹ lưỡng và tính toán phương pháp để tránh việc sửa soạn ống tủy thiếu
và thất bại.
Có một vấn đề trong y văn rằng các dụng cụ trong các ống tủy có độ cong cao dễ
có nguy cơ gãy vỡ [25-27]. Bốn ca lâm sàng có ống tủy cực cong trên đây cho thấy
cách ta tính toán và lên kế hoạch sử dụng dụng cụ thế này để đạt được kết quả
mong muốn. Các tác giả của bài báo này mô tả các cách làm sạch và tạo hình khác
nhau cũng như các kỹ thuật trám bít bằng gutta percha nóng khác nhau.
Nhìn chung, nội nha là một lĩnh vực khá phức tạp và là một môn học khó. Các
nghiên cứu đã chỉ ra nhiều điều trị nội nha không đạt được thực hiện bởi các sinh
viên cao học [28-31]. Bài báo này cung cấp các gợi ý lâm sàng hữu ích bởi bốn nhà

lâm sàng có kinh nghiệm ở những nơi có văn hóa và địa lý khác nhau trong việc
thực hành điều trị nội nha. Kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng của họ sẽ giúp cho
các bác sĩ có thể thành công hơn trong điều trị các ca nội nha khó.
4.KẾT LUẬN
Điều trị nội nha là một thách thức về khoa học và nghệ thuật. Kinh nghiệm lâm
sàng và giảng dạy của các tác giả cho thấy các cách tiếp cận khác nhau mà ta có
thể sử dụng để điều trị các chân răng cong nhiều độ. Nguyên tắc kỹ thuật của điều
trị nội nha đòi hỏi sự tiếp cận, ôn tập và quyết định chắc chắn.
5.MÂU THUẪN LỢI ÍCH
Jorge Vera, trong quá khứ đã nhận được phần thưởng vinh danh của SybroEndo.
Các tác giả khác thông báo không có bất kỳ mâu thuẫn lợi ích nào liên quan tới các
quảng cáo trong bài viết này.

Biên dịch: Phương Thảo

Page 8


phuong thao

6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. J. Cunningham and E. S. Senia, “A three-

Oral Pathology, Oral Radiology, and Endodontics, vol.

dimensional study of canal curvatures in the mesial

95, no. 2, pp. 228–233, 2003.

roots of mandibular molars,” Journal of Endodontics,


[10] E. Sch‥afer and H. Florek, “Efficiency of rotary

vol. 18, no. 6, pp. 294–300, 1992.

nickel-titanium

[2] L. Tronstad, Clinical Endodontics: A Textbook,
Trieme Medical Publishers, New York, NY, USA, 2nd
edition, 2003.

K3 instruments compared with stainless steel hand K-

[3] J. K. Lee, B. H. Ha, J. H. Choi, S. M. Heo, and H.
Perinpanayagam, “Quantitative three-dimensional
analysis of root canal curvature in maxillary firstmolars
using micro-computed tomography ,” Journal of
Endodontics, vol. 32, no. 10, pp. 941–945, 2006.
[4] M. Yamada, Y. Ide, S. Matsunaga, H. Kato, and K.
Nakagawa,
“Three-dimensional
analysis
of
mesiobuccal root canal of Japanese maxillary first
molar usingMicro-CT.,” The Bulletin of Tokyo Dental
College, vol. 52, no. 2, pp. 77–84, 2011.
[5] L. Meder-Cowherd, A. E. Williamson, W. T.
Johnson, D.Vasilescu, R. Walton, and F. Qian, “Apical
morphology of the palatal roots of maxillary molars by
using micro-computed tomography,” Journal of

Endodontics, vol. 37,no. 8, pp. 1162–1165, 2011.
[6] M. H. Villas-Bˆoas, N. Bernardineli, B. C.
Cavenago et al., “Micro-computed tomography study
of the internal anatomy of mesial root canals of
mandibular molars,” Journal of Endodontics, vol. 37,
no. 12, pp. 1682–1686, 2011.
[7] W. Hess, “Formation of root canals in human
teeth,” Journal of Netherlands Dental Association, vol.
3, pp. 704–725, 1921.
[8] N. Kartal, “The degrees and configurations of
mesial canal curvatures of mandibular first molars,”
Journal of Endodontics, vol. 23, no. 6, pp. 358–362,
1997.
[9] H. Yun and S. K. Kim, “A comparison of the
shaping abilities of 4 nickel-titanium rotary instruments
in simulated root canals,” Oral Surgery,OralMedicine,

Flexofile.
Part 1. Shaping ability in simulated curved canals,”
International
Endodontic Journal, vol. 36, no. 3, pp. 199–207, 2003.
[11] J. B. Roane, C. L. Sabala, and M. G. Duncanson
Jr., “The
“balanced force” concept for instrumentation of curved
canals,”
Journal of Endodontics, vol. 11, no. 5, pp. 203–211,
1985.
[12] L. S. Buchanan,
condensation technique,”


“Continuous

wave

of

Endodontic Practice, vol. 1, no. 4, pp. 7–18, 1998. [13]
L. F. Morgan and S.Montgomery, “An evaluation of
the crowndown
pressureless technique,” Journal of Endodontics, vol.
10,
no. 10, pp. 491–498, 1984.
[14] M. Tagger, A. Tamse, A. Katz, and B. H. Korzen,
“Evaluation of
the apical seal produced by a hybrid root canal filling
method,
combining

lateral

condensation

and

thermatic

compaction,”
Journal of Endodontics, vol. 10, no. 7, pp. 299–303,
1984.
[15] B. Willershausen, H. Tekyatan, A. Kasaj, and B.

B. Marroqu’ın,
“Roentgenographic in vitro investigation of frequency
and
location of curvatures in human maxillary premolars,”
Journal

Biên dịch: Phương Thảo

Page 9


of Endodontics, vol. 32, no. 4, pp. 307–311, 2006.
[16] L. Awawdeh, H. Abdullah, and A. Al-Qudah,
“Root form and canal morphology of jordanian
maxillary first premolars,” Journal of Endodontics, vol.
34, no. 8, pp. 956–961, 2008.
[17] Y.-. Tian, B. Guo, R. Zhang et al., “Root and
canal morphology of maxillary first premolars in a
Chinese subpopulation evaluated using cone-beam
computed tomography,” International Endodontic
Journal, vol. 45, no. 11, pp. 996–1003, 2012.
[18] M. M. Hoen and F. E. Pink, “Contemporary
endodontic retreatments: an analysis based on clinical
treatment findings,” Journal of Endodontics, vol. 28,
no. 12, pp. 834–836, 2002.
[19] F. Paqu’e, D. Ganahl, and O. A. Peters, “Effects
of root canal preparation on apical geometry
assessed by micro-computed tomography,” Journal of
Endodontics, vol. 35, no. 7, pp. 1056– 1059, 2009.
[20] E. C. Sponchiado Jr., H. A. A. Qader Ismail, M.

R. Lima Braga, F. K. de Carvalho, and C. A. C. Garcia
Sim˜oes, “Maxillary central incisor with two root
canals: a case report,” Journal of Endodontics, vol.
32, no. 10, pp. 1002–1004, 2006.
[21] G. S. Sachdeva, S. Ballal, V. Gopikrishna, and D.
Kandaswamy, “Endodontic management of a
mandibular second premolar with four roots and four
root canals with aid of spiral computed tomography: a
case report,” Journal of Endodontics, vol. 34, no.
1, pp. 104–107, 2008.
[22] R. P. Matherne, C. Angelopoulos, J. C. Kulild,
and D. Tira, “Use of cone-beamcomputed tomography
to identify root canal systems in vitro,” Journal of
Endodontics, vol. 34,no. 1, pp. 87–89, 2008.
[23] R.Mˇargˇarit, O. C. Andrei, andV.Mercut﹐,
“Anatomical variation of mandibular second molar and
its implications in endodontic treatment,” Romanian
Journal of Morphology and Embryology, vol. 53, no. 2,
pp. 413–416, 2012.

endodontic considerations,” Australian Dental Journal,
vol. 57, no. 2, pp. 123–131, 2012.
[25] T.Bartha,M. Kalwitzki, C. L‥ost, andR.Weiger,
“Extended apical enlargement with hand files versus
rotary NiTi files. Part II,” Oral Surgery, OralMedicine,
Oral Pathology, Oral Radiology and Endodontology,
vol. 102, no. 5, pp. 692–697, 2006.
[26] F. U. L’opez, E. V. Fachin, V. R. Camargo
Fontanella, F. B. Barletta, M. V. R. S’o, and F. S.
Grecca, “Apical transportation: a comparative

evaluation of three root canal instrumentation
techniques with three different apical diameters,”
Journal of Endodontics, vol. 34, no. 12, pp. 1545–
1548, 2008.
[27] F. C. Setzer, T. Kwon, and B. Karabucak,
“Comparison of apical transportation between two
rotary file systems and two hybrid rotary
instrumentation sequences,” Journal of Endodontics,
vol.36, no. 7, pp. 1226–1229, 2010.
[28] M. T. Pettiette, Z.Metzger, C. Phillips, andM.
Trope, “Endodontic complications of root canal
therapy performed by dental students with stainlesssteel K-files and nickel-titanium hand files,” Journal of
Endodontics, vol. 25, no. 4, pp. 230–234, 1999.
[29] M. T. Pettiette, E. O. Delano, and M. Trope,
“Evaluation of success rate of endodontic treatment
performed by students with stainless-steel k-files and
nickel-titanium hand files,” Journal of Endodontics,
vol. 27, no. 2, pp. 124–127, 2001.
[30] H. Balto, S. Al Khalifah, S. AlMugairin, M. Al
Deeb, and E. Al- Madi, “Technical quality of root
fillings performed by undergraduate students in Saudi
Arabia,” International Endodontic
Journal, vol. 43, no. 4, pp. 292–300, 2010.
[31] M. G. Khabbaz, E. Protogerou, and E. Douka,
“Radiographic quality of root fillings performed by
undergraduate students,”

[24] H. M. A. Ahmed and P. V. Abbott, “Accessory

International Endodontic Journal, vol. 43, no. 6, pp.


roots in maxillary molar teeth: a review and

499–508,2010.

Tài liệu đã được sự đồng ý của người biên dịchđể đăng lên nhóm Thư Viện Răng Hàm
Mặt.Xin chân thành cám ơn

/>Biên dịch: Phương Thảo

Page 10


Biên dịch: Phương Thảo

Page 10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×