Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Ống tủy chữ C

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.91 KB, 9 trang )

Nguồn :nhasisaigon.com
Biên soạn: Bàn Chải Đánh Răng

Ống tủy hình chữ C
Bài này,lúc đầu tôi post trong topic " Ống tủy hình C" nhưng có nhiều bạn
không tìm ra nên xin post thành một topic riêng.
Như vậy ,vấn đề ống tủy hình C ( C –Shaped CS) vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của các ACE vì vẫn tiếp tục có những thắc mắc về trường hợp này.
Thực ra ,CS không hề hiếm trên lâm sàng vì chỉ trong tuần rồi tôi đã gặp hai ca.Tham
khảo y văn ,thấy tỷ lệ này biến thiên ở các dân tộc khác từ 2,7 đến 8 % dân số ( theo
Weine : J Endodon 1998;24:372-5,Cooke : J Am Dent Assoc 1979;99:836-9,Weine : J
Endodon 1988 ;14:207-13).Nhưng ở các dân tộc Á Châu ,tỷ lệ này từ 4,7 đến 34,6 %
( Yang : Endod Dent Traumatol 1988;4:160-3,Chen : J Dent Res 1992;71:1123,Thong :
J Dent Res 1995 ;74;533).Một nghiên cứu khác của Yang ZP ,Yang SF, Lin : C-Shaped
root canal in mandibular second molar in Chinese population.Endod Dent Traumatol
1988;4;160-3) cũng cho biết tỷ lệ có 31,5% dân số người Hoa có CS trên răng 7 dưới !
và có đến 70 % trong số đó có CS ở cả R7 dưới hai bên.
Có nhiều cách phân loại ,nhưng tôi thấy cách phân loại theo Wen Lin Chai,Yo Len
Thong thuộc đại học Malaysia đăng trên Journal of Endodontic Vol .30.No .7 ,July 2004
là khá đơn giản ,các tác giả này đã phân CS thành 4 loại :

1.Loại hình C hoàn toàn ( Complette ‘C’).


2.Loại hình C không hoàn toàn ,dạng dấu chấm phẩy (;,Incomplete ‘C’ semicolon).

3.Loại hình C không hoàn toàn ,không đặc trưng ( Incomplete ‘C’ other types).

4.Loại có dính hai chân với nhau ,nhưng không có sự dính các ống tủy ( non
C).



Theo một khảo sát trên 20 cases CS ,thì tỷ lệ : loại 1 là 27%,2+3 là 64%,loại 4 là 9%.
Trong đó 95% là Răng 7 hàm dưới .Theo một số báo cáo khác thì CS cũng gặp trên R6
dưới,R4 dưới,R8 dưới,R6 trên,R7 trên.Lưu ý là phân loại này chỉ tính trên lỗ ống tủy
( orifices) tại sàn buồng tủy chứ còn nếu xuống theo từng lát cắt ngang ( cross –
section) thì nó có thể biến từ dạng này sang dạng khác ( khi dính,khi lại tách rời !).

Hầu hết các CS đều dính nhau ở mặt ngoài ,mặt trong là một rãnh sâu chạy từ thân
răng xuống tới chóp . Chính điều này giải thích tại sao trên film cận chóp thường thấy rõ
hai chân răng ,nhưng vùng giữa 2 chân chỉ hơi cản quang một chút ,có ít bè xương vì
sensor luôn được đặt phía mặt trong.
Không phải lỗ ống tủy nào của CS cũng đều có ống tủy riêng,chỉ có 34,2 % lỗ ống tủy
có ống tủy riêng đi tới chóp,còn hầu hết các lỗ ống tủy đều nhập với các ống tủy khác.
Tỷ lệ CS trên người Châu Á khá cao,nên khi nhìn thấy trên film một răng cối nhất là R7
dưới có chân chụm ,ở giữa 2 chân có một vùng cản quang ít thì nên cảnh giác.


Theo GUTMANN,vấn đề rắc rối thường gặp khi sửa soạn ống tủy CS bao gồm những
khó khăn khi lấy sạch mô răng và những vụn tủy hoại tử do cấu trúc bất thường của hệ
thống ống tủy ,chảy máu nhiều hơn bình thường và cảm giác khó chịu của BN trong khi
sửa soạn ÔT.Ông khuyên nên dùng HAFI ( Hedstrom file) và NaClO 5,25% bơm rửa
thật nhiều và thường xuyên tiêm thuốc tê trực tiếp vào mô tủy để giảm đau ,nên dùng
thêm dụng cụ siêu âm để rung lấy các mô tủy hoặc mảnh vụn ở những nơi mà các
dụng cụ nội nha không với tới được


Hedstrom file.
Trước một ca CS,tôi thường dùng một K-Reamer số nhỏ ( 8) dò tìm các ống tủy chính
trước,cần nhớ chỉ có khoảng 1/3 lỗ ống tủy là có một ống riêng đi tới chóp,2/3 còn lại là
nhập vào các ống tủy chính ,sau đó sửa soạn các ống tủy chính đến hết chiều dài làm

việc đến số 25 bằng K-Reamer ,sau đó lại dùng cây K file số 8 bẻ cong đầu ,rà dọc theo
vách các ÔT chính để tìm các ÔT phụ ,các nhánh nối ngang …Việc sửa soạn ÔT chủ
yếu là dụng cụ cầm tay ,dụng cụ quay chỉ nên dùng ở 1/3 trên để dễ OB sau này.Khi
dùng đến cây K file số 25 xong thì chuyển sang HAFI ,chú ý phần nối giữa 2 chân răng
có khi rất mỏng mà trên film cận chóp ta lại không thể biết được bề dầy của nó ,nên cẩn
thận coi chừng thủng.Sau khi sửa soạn ÔT tới số thích hợp ,dùng đầu siêu âm cho nội
nha đưa xuống rung và bơm rửa nhiều lần cho thật sạch .Với CS không nên OB ngay
mà nên đặt Ca( OH)₂ ,khi nào bn hết đau ,dùng cone giấy thấm không còn thấy máu thì
mới OB vì với những răng này ,nội nha lại là việc không tưởng !


Để OB các răng CS ,lý tưởng nhất là dùng Thermafil cùng với Gutta được làm nóng
chảy

Cône Thermafil.

Máy làm mềm cône Thermafil.
Sau đây là một số loại máy để bơm GP lỏng :

OBTURA


MICROSEAL

GUTTA FLOW
Sau đây là hình ảnh một ÔT được OB bằng Thermafil+ GP lỏng ( nguồn :
GUTMANN).




Kém hơn một chút là dùng cône GT trám và lèn chặt 1/3 chóp rồi bơm GP lỏng vào rồi
nhồi xuống,rẻ nhất nhưng cũng khó sử dụng nhất là dùng gutta condensor GC ( dụng
cụ quay này có cấu tạo gần như ngược với Hedstrom file ,khi cắm vào tay khoan khuỷu
,quay với vận tốc 30.000 vòng/phút thì nó sẽ làm GP bị nóng chảy và nén xuống )
nhưng sử dụng nó đòi hỏi phải có kinh nghiệm ,tôi đã từng gặp một ca cây Gutta
condensor khi ob răng 24 đã chạy tọt vào xoang hàm ! và do chạy với vận tốc cao trong
một khối GP dù nóng chảy nhưng vẫn có lực cản rất lớn nên việc bị gãy GC xảy ra như
cơm bữa và hầu như chỉ có những người giàu kinh nghiệm mới dám xài ! Muốn an
toàn,phải bít rồi lèn 1/3 phía chóp ống tủy thật chặt và khi đưa GC xuống thì chỉ đưa
sâu nhất là 1/3 cổ ,vừa quay vừa nén GP xuống.

“Con đường dẫn tới trí tuệ? Nói ra rất đơn giản, phạm sai lầm, phạm sai lầm, lại phạm sai lầm,
nhưng càng ngày càng ít, càng ngày càng ít, càng ngày càng ít.”



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×