Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận tình huống chuyên viên xử lý chất thải gây ô nhiễm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.53 KB, 23 trang )

Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn phát triển hội nhập hiện nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm,
coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và xác định: Học tập
là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức. Việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là một trong những vấn
đề trọng tâm trong chiến lược phát triển nguồn cán bộ chất lượng cao của các
địa phương, đơn vị.
Vì vậy, việc đào tạo kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước và các kiến thức bổ trợ khác nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh
thông về chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng nền hành
chính tiên tiến, hiện đại và phát triển bền vững là hết sức cần thiết.
Với vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức Quản lý nhà nước chương trình chuyên viên cho đội ngũ cán bộ, công
chức của tỉnh năm 2015. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ phối hợp với
Trường Chính trị tỉnh tổ chức Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
chương trình chuyên viên khóa XVI nhằm bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ
năng quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh năm 2015.
Trong thời gian gần 2 tháng, các học viên được học tập 17 chuyên đề với
3 phần nội dung cơ bản gồm: Nhà nước và pháp luật; Hành chính nhà nước và
công nghệ hành chính; Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Giúp cho các
cán bộ, công chức, viên chức cập nhật, bổ sung những thông tin mới hữu ích,
nâng cao nhận thức, sự hiểu biết trong quản lý nhà nước và quản lý trên từng
ngành, từng lĩnh vực; xác định rõ hơn về vai trò, nhiệm vụ, chức năng và tầm
quan trọng của cán bộ, công chức trước yêu cầu đổi mới, phát triển của đất
nước và địa phương.

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI


Trang 1


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Khu công nghiệp (KCN) được hình thành và phát triển gắn liền với công
cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế đất nước, xuất phát từ chủ trương đúng đắn
của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng một mô hình mang tính đột phá trong
thu hút đầu tư, tăng trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đặc biệt, khu công nghiệp, khu chế xuất có đóng góp không nhỏ vào
tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh
tranh của nền kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương
và cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy, các KCN hiện nay đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Khu công nghiệp là nhân tố chủ yếu thúc đẩy
tăng trưởng, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát
triển công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho
người lao động. Quá trình phát triển của các Doanh nghiệp trong KCN đã góp
phần tăng trưởng GDP, thúc đẩy đầu tư và sản xuất công nghiệp xuất khẩu,
phục vụ các ngành kinh tế tiêu dùng trong nước nhằm giảm khoảng cách chênh
lệch giữa các vùng trong tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực,
quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải, nước thải và khí thải
công nghiệp.
Chất thải công nghiệp cũng đang là mối nguy cơ đe dọa tới cuộc sống
của một số địa phương có KCN đóng trên địa bàn. Chất thải công nghiệp chưa
được xử lý kỹ càng, sẽ gây ô nhiễm trầm trọng tới nguồn nước, không khí,
tiếng ồn, …. Về vấn đề này đã có khá nhiều địa phương phải trả giá; đời sống
người dân thật sự bị đe dọa. Nếu chúng ta không đánh giá đúng và không đưa
ra những giải pháp hữu hiệu, tổ chức tốt việc phòng chống ô nhiễm thực tại này

sẽ gây những tác hại khôn lường.
Ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường sinh thái tự nhiên. Đặc biệt, nước thải không qua xử lý của các
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 2


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
khu công nghiệp xả thải trực tiếp vào môi trường gây thiệt hại không nhỏ tới hệ
thống nước mặt, nước ngầm của các khu vực dân cư lân cận.
Hơn nữa, việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây
ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, tạo ra sự phát
triển không đồng bộ giữa trong và ngoài hàng rào Khu công nghiệp, sự phân
hóa rất rõ về mọi mặt giữa trong và ngoài Khu công nghiệp, gây sự tranh chấp
môi trường không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong cùng một Khu công
nghiệp và giữa các Doanh nghiệp với cộng đồng dân cư lân cận; thiếu sự liên
kết giữa Khu công nghiệp với địa phương. Do đó chính các Doanh nghiệp, các
Khu công nghiệp không những không khai thác hết thế mạnh của địa phương,
mà còn làm xáo trộn hoạt động kinh tế - xã hội địa phương.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của
đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất
nước, của dân tộc và nhân loại. Sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ
gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Bảo vệ môi trường là một vấn đề
sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn
liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo.
Ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
toàn nhân loại; bảo vệ môi trường gắn liền với sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, do vậy đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với môi trường.

Quản lý Nhà nước về môi trường nhằm bảo vệ lợi ích cho xã hội và cộng đồng;
bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, bảo đảm cho con người được sống trong môi
trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia nói riêng, góp
phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu nói chung.
Trong quá trình tham gia công tác quản lý bảo vệ môi trường ở Khu công
nghiệp, tôi nhận thấy có những tình huống xử lý về lĩnh vực bảo vệ môi trường
còn chưa được chặt chẽ hoặc chưa thật hiệu quả. Được nghiên cứu, học tập lớp
bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước dành cho chuyên viên, tôi mạnh dạn nêu
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 3


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
lên một tình huống đã và đang xảy ra: “Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi
trường tại Khu công nghiệp” và những suy nghĩ về việc giải quyết tình huống
đó.

I. Mô tả tình huống
Đêm 27 rạng sáng 28-1, hàng trăm người dân xã Hòa Xuân Tp Buôn Ma
Thuột - Đắk Lắk và xã Ea Pô huyện Cư Jút - Đắk Nông đã đổ xô ra sông
Sêrêpốk, đoạn giáp ranh giữa 2 xã này để bắt cá. Anh Lê Tiến Cường xã Ea Pô
huyện Cư Jut, người chèo đò đưa khách qua sông Sêrêpốk cho biết: Lúc đó
khoảng 10 giờ đêm, tôi đi dọc sông thì nghe tiếng cá quậy mạnh. Rọi đèn pin
xuống sông thì thấy cá há hốc miệng, chao đảo trên mặt nước.
Ít phút sau, hàng chục loại cá lớn, nhỏ thoi thóp, ngoi lên mặt nước với
mật độ dày đặc. Ngay sau khi biết tin, hàng trăm người dân đổ xô xuống sông
bắt cá đi bán. “Có gia đình 3 cha con bắt được hơn 1 tạ, còn trung bình mỗi
người được vài chục kg”, anh Cường cho biết. Anh Nguyễn Thanh Tâm xã Hòa
Xuân Tp Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk hồ hởi nói: Tôi đang ngủ thì ngửi có mùi

hôi thối bốc lên từ sông. Trước đây, cứ mỗi lần ngửi có mùi thối là cá chết nên
tôi chạy ra sông. Lúc đó, đã có hàng trăm người chèo thuyền, đi dọc sông vớt
cá. Do không có thuyền, tôi dùng vợt đi dọc sông nên chỉ vớt được vài chục kg,
chủ yếu là cá chép, trê, lăng đuôi đỏ.
Sáng cùng ngày, hàng chục chiếc thuyền vẫn tiếp tục vớt cá trên đoạn
sông dài gần 10 km từ cầu Sêrêpốk về phía hạ nguồn. Theo phản ánh của người
dân, nguyên nhân cá chết là do Khu công nghiệp Tâm Thắng huyện Cư Jút xả
thải làm ô nhiễm nguồn nước. Sáng cùng ngày, tại cống xả của khu công
nghiệp này, một lượng lớn nước có màu đen, bốc mùi hôi thối được thải trực
tiếp ra sông Sêrêpốk.
Phòng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh Đắk Nông đã kiểm tra, phát
hiện Nhà máy mía đường Đắk Nông thuộc Công ty cổ phần mía đường Đắk
Nông đang xả nước thải từ quá trình làm mát thiết bị máy móc, xử lý lò hơi,
súc rửa vệ sinh thiết bị nhà xưởng với lưu lượng 24.000 m3/ngày ra sông
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 4


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Sêrêpốk. Kết quả, các mẫu nước thải của nhà máy đều vượt tiêu chuẩn kỹ thuật
cho phép 5,1 lần. Những tưởng như thế là sông Sêrêpốk có thể “sống yên”. Thế
nhưng, đến tháng 6 năm 2013, Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh Đắk
Nông lại bắt quả tang Nhà máy sản xuất cồn công nghiệp thuộc Công ty TNHH
Đại Việt tự ý xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Sêrêpốk.
3. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Trong tình huống này, từ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
của nhà máy và xử lý không triệt để của UBND xã, huyện và Công ty kinh
doanh hạ tầng KCN Tâm Thắng, Ban Quản lý KCN đã không báo cáo lên cơ
quan cấp trên, chỉ xử lý chủ yếu bằng hình thức nhắc nhở Doanh nghiệp, dẫn

đến Doanh nghiệp không thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc, người dân
bức xúc.
Những vướng mắc không thể thương lượng, thỏa thuận, tự giác của các
chủ thể trong tình huống.
4. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
Việc quy định xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn nhiều
điểm chưa hợp lý, chưa có sự phối hợp giải quyết công việc của cơ quan các
cấp. Hơn nữa việc thực thi các quy định về xử phạt vi phạm trên thực tế trong
một số trường hợp chưa thực sự nghiêm minh, kịp thời gây tâm lý coi thường
pháp luật của Doanh nghiệp, gây bức xúc cho người dân chịu hậu quả trực tiếp.
Công ty kinh doanh hạ tầng KCN Tâm Thắng trực thuộc Ban Quản lý
các KCN tỉnh, là đơn vị hành chính sự nghiệp (chưa có cơ chế tự thu, tự chi)
hưởng lương từ ngân sách, biên chế chỉ có 01 cán bộ quản lý môi trường nên
việc giám sát môi trường KCN ngoài giờ hành chính còn hạn chế. Do đó, Nhà
máy sản xuất cồn công nghiệp thuộc Công ty TNHH Đại Việt và Nhà máy mía
đường Đắk Nông thuộc Công ty cổ phần mía đường Đắk Nông xả trộm nước
thải ngoài giờ hành chính để tránh sự phát hiện của Công ty kinh doanh hạ tầng
Tâm Thắng và Ban Quản lý KCN. Nguồn nước tiếp nhận bị ô nhiễm nhưng
người dân và Ban Quản lý KCN không bắt được quả tang, người dân đã gặp
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 5


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
trực tiếp Doanh nghiệp, UBND xã, huyện để phán ánh nhưng tình trạng vẫn
không được khắc phục. Cho đến khi có sự cố tràn nước thải từ bể chứa nước
thải của Nhà máy ra ngoài hàng rào KCN thì người dân bức xúc lập hàng rào
ngăn cổng KCN. Hơn nữa, nếu không có sự phản ánh của đài truyền hình thì
liệu UBND tỉnh có nắm được thông tin, chỉ đạo kịp thời để xử lý vụ việc hay

không? Và sự việc đó còn kéo dài đến khi nào? Đó là câu hỏi lớn đặt ra trong
tình huống này.
Luật Bảo vệ Môi trường 2005 của Việt Nam xác định: Bảo vệ môi trường
là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân và Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các
trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Đây chính là quan điểm nhất
quán về quyền và trách nhiệm của các chủ thể pháp luật đối với công tác
BVMT ở Việt Nam. Trong Luật BVMT cũng quy định 15 hành vi vi phạm môi
trường cụ thể bị Nhà nước nghiêm cấm.
Tuy nhiên, trên thực tế hàng năm cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường đã kiểm tra và phát hiện hàng chục vụ vi phạm trên toàn tỉnh và phạt
hàng trăm triệu đồng, nhưng không có vụ nào bị xử lý hình sự. Đến nay khái
niệm về tội phạm môi trường (TPMT) vẫn chưa được luật hóa, mà mới chỉ
được định nghĩa trong một số công trình nghiên cứu về pháp luật. Các khái
niệm về TPMT mặc dù đã nêu được bản chất cơ bản của loại hình tội phạm này,
song vẫn chưa thể hiện được đặc trưng và phân biệt của nó với các hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Đây có thể coi là một rào cản lớn
trong việc xác định chính xác TPMT để có thể tiến hành truy tố được loại tội
phạm này.
Các quy định về trách nhiệm xác định, giám định, đền bù thiệt hại còn
chưa rõ ràng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý khi phối hợp giải quyết tình
huống.

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 6


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp

Tình huống diễn biến phức tạp ảnh hưởng nghiêm trọng đối với tình
hình an ninh trật tự, chính trị, cuộc sống của người dân bị đảo lộn do nhiều yếu
tố cấu thành. Theo phóng viên các báo PGS. TS Bảo Huy, Trưởng bộ môn
Quản lý Tài nguyên rừng và Môi trường khoa Nông lâm trường Đại học Tây
Nguyên, ông cho biết: “Hiện sông Sêrêpốk đang mất dần khả năng điều hòa
sinh thái. Bởi thực tế dòng sông chảy qua Đắk Lắk có chiều dài không dài
nhưng lại xây dựng quá nhiều nhà máy và thủy điện. Điều này làm cho từng
đoạn sông thiếu nước, mất cân bằng nước vào mùa khô, mất cân bằng hệ thống
sinh thái trong lưu vực, đồng thời mang lại những hệ lụy vô cùng lớn”.
Giá trị kinh tế mà thủy điện và các nhà máy mang lại là rất lớn. Thế
nhưng, đã đến lúc chúng ta nên có những hành động và giải pháp cụ thể để cứu
lấy dòng sông Sêrêpốk, cứu lấy hệ sinh thái phong phú trước kia đã tạo nên
niềm tự hào của Đắk Lắk - Đăk Nông về thủy sản cũng như du lịch.
Nguyên nhân dẫn đến tình huống:
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế này, trong đó một nguyên
nhân quan trọng là cơ chế, chính sách về KCN tuy đã tương đối hoàn thiện
song vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất, đồng bộ. Việc phân công trách
nhiệm phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước chưa rõ ràng; quyền lợi,
trách nhiệm chưa gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát, chế tài khuyến khích và xử
phạt chưa thực sự chặt chẽ. Những điều đó thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: Nhìn một cách toàn
diện có thể thấy rằng, bên cạnh các ưu điểm, thì hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về môi trường ở nước ta vẫn còn rất nhiều khiếm khuyết, thiếu đồng
bộ và chưa rõ ràng, tính khả thi chưa cao; một số quy định chưa chặt chẽ và
không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; một số văn bản chưa được quy
định chi tiết và hướng dẫn một cách kịp thời.
Thứ hai, ý thức chấp hành pháp luật: Mặc dù vấn đề truyền thông, phổ
biến về BVMT nói chung và pháp luật về BVMT nói riêng đã được quan tâm

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI


Trang 7


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
và triển khai một cách tương đối bài bản. Tuy nhiên, hiệu quả công tác này vẫn
còn hạn chế. Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ về tầm
quan trọng của việc BVMT, một số đối tượng khác mặc dù đã nhận thức đầy đủ
nhưng vì lợi ích cá nhân nên vẫn cố tình vi phạm.
Thứ ba, vấn đề xử lý văn bản pháp luật (viết tắt VPPL): Thực tế cho
thấy, việc xử lý VPPL về môi trường chưa được thực hiện một cách đồng bộ và
thống nhất giữa các Bộ, ngành, địa phương; việc áp dụng các hình thức xử lý
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự nghiêm minh, đặc biệt
khi xử lý đối với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thứ tư, các hình thức chế tài: Mặc dù Nghị định số 117/2009/NĐ-CP
ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý VPPL trong lĩnh vực BVMT đã quy
định khá chi tiết về các hành vi vi phạm cũng như biện pháp xử lý với mức phạt
tăng lên rất nhiều lần so với quy định trước đây. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số
hình thức chế tài quá nhẹ, không đủ sức răn đe. Thực tiễn áp dụng một số quy
định về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự đối với VPPL về BVMT còn
nhiều khó khăn, vướng mắc. Các quy định về trách nhiệm xác định, giám định,
đền bù thiệt hại còn chưa rõ ràng và không khả thi. Vì vậy, trên thực tế có nhiều
doanh nghiệp thay bằng việc đầu tư trang thiết bị xử lý chất thải bằng việc chấp
nhận các hình thức xử lý vi phạm.
Thứ năm, nhu cầu phát triển kinh tế và giải quyết công ăn việc làm
của người lao động đã làm cho việc phát hiện, xử lý các VPPL gặp nhiều khó
khăn. Ở địa phương, do chính sách ưu tiên phát triển kinh tế nên đã kêu gọi đầu
tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định, đánh
giá ảnh hưởng của các dự án đối vói môi trường, đặc biệt là các dự án thuộc
lĩnh vực trọng điểm.

Cụ thể là:
Sự phối hợp của các cơ quan chức năng chưa đồng bộ, Công ty kinh
doanh hạ tầng KCN Tâm Thắng, Ban Quản lý KCN, UBND xã, huyện, Sở Tài

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 8


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
nguyên môi trường tỉnh thiếu sự phối hợp với nhau trong việc kiểm tra, kiểm
soát dẫn đến thông tin không được trao đổi kịp thời để xử lý.
Công tác giáo dục, tuyên truyền công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế
dẫn đến ý thức tự giác tuân thủ, sự hiểu biết pháp luật của Doanh nghiệp còn
thấp.
Cán bộ quản lý môi trường chưa thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở trong
việc vi phạm để sự việc kéo dài từ đầu năm 2009 đến nay.
Các văn bản pháp luật còn một số hạn chế gây khó khăn, vướng mắc cho
các cơ quan quản lý khi tiến hành giải quyết.
Sự giải quyết của UBND xã, huyện chưa triệt để, chưa có sự giám sát
nhắc nhở, chưa có biện pháp hoàn chỉnh trong việc tổ chức thực hiện Luật bảo
vệ môi trường đối với Doanh nghiệp. Do Doanh nghiệp này là đơn vị sản xuất
có quy mô lớn nhất trên địa bàn tỉnh, giải quyết vấn đề việc làm cho số lượng
lớn lao động trên địa bàn (khoảng 1.500 lao động), là nơi tiêu thụ đầu ra sản
phẩm nông nghiệp tại địa phương.
Hậu quả của tình huống:
Trong tình huống này, từ việc xả nước thải của Nhà máy và xử lý tình
huống chưa triệt để của cơ quan quản lý các cấp từ cấp xã, huyện, tỉnh dẫn đến
việc Doanh nghiệp không tuân thủ, coi thường pháp luật gây ô nhiễm môi
trường nước trong thời gian dài đã làm cho người dân bức xúc tập trung làm

rào chắn công khu công nghiệp gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của
các Doanh nghiệp trong KCN, gây mất an ninh, trật tự trong khu vực.
Làm mất thời gian, công sức, tiền của cho việc tổ chức kiểm tra, xử lý
các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường.
Thực tế việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn thường phát
sinh trong quá trình sản xuất của các nhà máy nhưng nếu giải quyết không triệt
để, thỏa đáng gây ô nhiễm môi trường kéo dài dẫn đến thiệt hại về kinh tế, sức
khỏe của người dân sinh sống trong khu vực chịu ảnh hưởng dẫn đến khiếu

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI

Trang 9


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
kiện nhiều lần và hậu quả là gây mất an ninh, trật tự và người dân sẽ mất lòng
tin vào sự quản lý của Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu chất lượng cuộc sống, ý thức người
dân ngày càng được nâng cao. Người dân có quyền đòi hỏi một môi trường
sống trong sạch, lành mạnh. Hệ thống văn bản pháp quy từng bước được quy
định chặt chẽ. Do đó, nếu Doanh nghiệp muốn hoạt động lâu dài phải xác định
uy tín, chất lượng, hiệu quả là vấn đề cần quan tâm thì không thể thiếu sự tuân
thủ pháp luật nghiêm minh. Vì hậu quả khi Doanh nghiệp vi phạm nhiều lần,
mức độ nghiêm trọng thì có thể buộc phải đóng cửa Nhà máy và hậu quả tiềm
ẩn là phá sản.
Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật, các cơ quan quản lý nhà
nước ban hành các văn bản dưới luật và thi hành luật nhằm đảm bảo cho pháp
luật của Nhà nước được thực hiện triệt để. Nếu chúng ta không xử lý nghiêm
minh một trường hợp thì sẽ dẫn đến tình trạng cố tình vi phạm pháp luật, coi
thường pháp luật, làm cho các Doanh nghiệp khác làm theo gây giảm sút uy tín

của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
5. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Mục tiêu xử lý tình huống là dựa trên cơ sở chủ trương của Đảng và pháp
lý của Nhà nước về việc quản lý môi trường theo nguyên tắc đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng của nhân dân, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp thời để răn đe
các hành vi vi phạm pháp luật nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho các
Doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích xã hội về vấn
đề giải quyết lao động và trách nhiệm của Doanh nghiệp đối với công tác bảo
vệ môi trường .
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa bên gây ô nhiễm môi trường và bên chịu
ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường tạo ra được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật.

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
10

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Việc xả thải của Nhà máy đã vi phạm khoản 2, khoản 5 điều 8; khoản 4
điều 10 của Nghị định 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ về “Xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” với các hình thức:
- Phạt chính:
+ Cảnh cáo;
+ Tổng mức phạt tiền từ 240.000.000 đồng đến 335.000.000 đồng.
- Phạt bổ sung:
+ Tước quyền sử dụng đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề có nội
dung liên quan về bảo vệ môi trường.
- Buộc khắc phục hậu quả:

+ Buộc xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường;
+ Buộc phục hồi môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm;
+ Buộc thực hiện đúng, đầy đủ nội dung trong báo cáo đánh giá tác động
môi trường;
+ Buộc vận hành đúng quy trình đối với công trình xử lý nước thải;
+ Buộc chấm dứt hoạt động trái phép xả nước thải vượt quy chuẩn cho
phép;
- Hình thức xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường:
+ Tạm thời đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong các biện pháp
bảo vệ môi trường cần thiết;
+ Cấm hoạt động;
+ Bị công khai thông tin về tình hình ô nhiễm và vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường trên phương tiện thông tin đại chúng.
Về mặt quản lý, sau khi có thông báo Kết luận thanh tra của Sở Tài
nguyên môi trường tôi đề xuất 02 phương án sau:
a. Phương án 1:
Đây là lần đầu Sở Tài nguyên môi trường tiến hành kiểm tra nên Sở Tài
nguyên môi trường mời Chủ Doanh nghiệp lên làm việc, trên cơ sở hướng dẫn,
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
11

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
giải thích cho Chủ Doanh nghiệp thấy hành vi của mình là trái pháp luật, ảnh
hưởng đến môi trường nước trên địa bàn xung quanh KCN từ đó Chủ Doanh
nghiệp sẽ tự giác thực hiện đúng nội dung báo cáo đánh giá tác động môi
trường, khắc phục hậu quả ô nhiễm nguồn nước. Đồng thời áp dụng hình phạt
chính là cảnh cáo.

• Ưu điểm: Thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước là dùng
biện pháp giáo dục, hướng dẫn tác động vào lương tâm của con người và tạo
điều kiện cho con người tự sửa chữa, tác hại của hành vi mình gây ra.
Phương án này nhằm tạo điều kiện cho Nhà máy tiếp tục hoạt động để
không ảnh hưởng đến vấn đề lao động việc làm của khoảng 1.500 lao động địa
phương đang làm việc trong nhà máy.
• Nhược điểm:
Nhà máy đã vi phạm xả trộm nước thải nhiều lần và đã bị dân khiếu nại
nhiều lần, UBND huyện đã có buổi làm việc yêu cầu Nhà máy khắc phục tình
trạng ô nhiễm. Kết quả phân tích mẫu nước cho thấy Nhà máy đã gây ô nhiễm
tương đối cao nếu không phạt tiền thì sẽ trái với Nghị định 117/2009/NĐ-CP
của Chính phủ về “Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường”.
Việc Sở lặp lại phương án xử lý giống UBND huyện thì điều này làm
giảm sút uy tín của cơ quan nhà nước, việc xử lý tình huống này có thể bị trì
trệ, không đưa ra được hình thức xử lý cụ thể.
b. Phương án 2:
Sở Tài nguyên môi trường mời Chủ Doanh nghiệp lên làm việc, trên cơ
sở hướng dẫn, giải thích cho Chủ Doanh nghiệp thấy hành vi của mình là trái
pháp luật, ảnh hưởng đến môi trường nước trên địa bàn xung quanh KCN để từ
đó Chủ Doanh nghiệp sẽ tự giác thực hiện đúng nội dung báo cáo đánh giá tác
động môi trường, khắc phục hậu quả ô nhiễm nguồn nước. Áp dụng các hình
thức:
- Phạt chính:
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
12

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp

+ Tổng mức phạt tiền ở mức thấp nhất là: 240.000.000 đồng.
- Buộc khắc phục hậu quả:
+ Buộc xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường;
+ Buộc phục hồi môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong thời
gian 03 tháng kể từ ngày Sở thông báo kết luận;
+ Buộc thực hiện đúng, đầy đủ nội dung trong báo cáo đánh giá tác động
môi trường;
+ Buộc vận hành đúng quy trình đối với công trình xử lý nước thải;
+ Buộc chấm dứt hoạt động trái phép xả nước thải vượt quy chuẩn cho
phép;
• Ưu điểm:
Thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước là dùng biện pháp giáo
dục, hướng dẫn tác động vào lương tâm của con người và tạo điều kiện cho con
người tự sửa chữa, tác hại của hành vi mình gây ra.
Phương án này nhằm tạo điều kiện cho Nhà máy tiếp tục hoạt động để
không ảnh hưởng đến vấn đề lao động việc làm của khoảng 1.500 lao động địa
phương đang làm việc trong nhà máy.
Thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, thực hiện theo đúng Nghị
định 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ về “Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường”. Củng cố lòng tin của người dân sống khu vực hạ lưu
sông Sêrêpôk với cơ quan nhà nước vì giải tỏa được bức xúc bấy lâu nay của
người dân.
Là cơ sở để răn đe cho các trường hợp khác có tư tưởng tương tự.
• Nhược điểm:
Doanh nghiệp đã vận hành chạy thử trong thời gian dài và mới chính
thức đi vào hoạt động, lợi nhuận chưa cao, chưa tiếp cận được nguồn vốn vay
Quỹ Bảo vệ môi trường nên khó khăn cho việc chấp hành khắc phục hậu quả
theo kết luận của Sở.
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
13


Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Lựa chọn phương án:
Trong hai phương án giải quyết ở phần trên thì phương án 2 là phương
án tối ưu nhất, phương án 1 không có tính dung hòa giữa các lợi ích: phương án
1 quá thiên về lợi ích của Doanh nghiệp, không làm theo đúng quy định của
pháp luật.
Do đó, tôi lựa chọn phương án 2, vừa dung hòa được quyền lợi chính
đáng của người dân sống khu vực hạ lưu sông Sêrêpôk với lợi ích của Doanh
nghiệp, không những thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật mà còn thể hiện
tính nhân văn trong việc ổn định việc làm cho người lao động tại địa phương.
Mặc dù vẫn có nhược điểm nhưng vẫn có thể khắc phục được dễ dàng bằng
cách giúp Doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay Quỹ BVMT.
Tóm lại, phương án 2 là phù hợp nhất vì những lý do sau:
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của Doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ
môi trường.
Đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho người dân địa phương.
Chủ Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, nhân dân về
hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra.
Là cơ sở để răn đe cho các trường hợp khác có tư tưởng tương tự.
6. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã được lựa chọn
Tình huống xảy ra cụ thể tại KCN, do đó Ban Quản lý KCN là đơn vị
chịu trách nhiệm chính trong vấn đề này. Mặc dù Nhà máy có trước khi KCN
được thành lập nên Công ty Kinh doanh hạ tầng và Ban Quản lý KCN không
kiểm soát được công tác BVMT của Doanh nghiệp ngay từ bước đầu khi Nhà
máy xây dựng cơ bản và tiến hành chạy thử nhưng việc xả thải của Nhà máy
kéo dài trong thời gian KCN được thành lập đến nay mà Công ty Kinh doanh

hạ tầng không có văn bản chính thức báo cáo cơ quan cấp trên. Do đó, cần
nghiêm túc kiểm điểm và rút kinh nghiệm.

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
14

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Giao cho Công ty kinh doanh hạ tầng kiểm tra, giám sát Nhà máy trong
việc thực hiện kết luận thanh tra của Sở Tài nguyên môi trường. Báo cáo cho
Sở, Ban Quản lý KCN khi hết thời gian quy định mà Doanh nghiệp không thực
hiện.
Khiển trách Cơ quan công an về phòng chống tội phạm môi trường tỉnh,
Sở Tài nguyên và Môi trường vì chưa kịp thời phát hiện hành vi vi phạm của
Doanh nghiệp.
Giao cho Sở Tài nguyên môi trường chủ trì, đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh
xử lý vi phạm hành chính đối với các vi phạm của Nhà máy sản xuất cồn công
nghiệp thuộc Công ty TNHH Đại Việt và Nhà máy đường thuộc Công ty mía
đường Đăk Nông theo thẩm quyền.
UBND tỉnh có thể chủ trì hoặc ủy quyền cho Sở Tài nguyên môi trường
giải quyết như sau:
Hỗ trợ Doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn của Quỹ Bảo vệ môi trường.
Yêu cầu Doanh nghiệp triển khai để Nhà máy thực hiện nghiêm túc kết
luận của Sở Tài nguyên môi trường. Báo cáo cho Sở về kết quả thực hiện khi
hết thời gian quy định tại kết luận của Sở.
Về phía UBND huyện có văn bản yêu cầu Nhà máy sản xuất cồn công
nghiệp thuộc Công ty TNHH Đại Việt và Nhà máy đường thuộc Công ty mía
đường Đăk Nông cần khẩn trương khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường

khu vực xung quanh nhà máy, có biện pháp khắc phục, hỗ trợ kinh phí mua
nước sinh hoạt cho một số hộ dân bị ảnh hưởng trực tiếp.
Tổ chức họp dân để báo cáo kết quả xử lý.
Nhanh chóng ban hành quy chế phối hợp công tác BVMT giữa các cơ
quan: Sở Tài nguyên môi trường, phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi
trường, Ban Quản lý các KCN, Công ty kinh doanh hạ tầng, UBND xã, huyện.
Để công tác BVMT KCN được tốt hơn, Ban Quản lý KCN cần quan tâm
chỉ đạo thực hiện một số nội dung sau:
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
15

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
- Chú trọng công tác phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng các nhà máy
gắn kết với công tác bảo vệ môi trường, trên nguyên tắc tăng diện tích cây
xanh, bố trí phù hợp vị trí các công trình xử lý chất thải, quy hoạch thoát nước
thải và nước mưa riêng.
- Phổ biến các quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường đến các
doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra về bảo vệ môi trường đối với các doanh
nghiệp. Đẩy mạnh thanh tra công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp,
kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.
- Chỉ đạo Công ty Kinh doanh hạ tầng KCN đẩy mạnh công tác đấu nối
nước thải tại Khu công nghiệp. Đồng thời tham mưu UBND tỉnh ban hành đơn
giá xử lý nước thải tại KCN phù hợp trên nguyên tắc vừa đảm bảo chi phí cho
hoạt động cho Hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng phù hợp với mặt bằng
xử lý chung của khu vực, nhằm khuyến khích việc đấu nối nước thải của các
Doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, UBND tỉnh Đăk Nông đã ra Quyết định xử phạt hành
chính Nhà máy Mía đường Đăk Nông với số tiền là 225 triệu đồng, sang năm
2013 UBND tỉnh Đăk Nông cũng tiếp tục xử phạt đối với Nhà máy cồn công
nghiệp thuộc Công ty TNHH Đại Việt với số tiền là 115 triệu đồng và yêu cầu
nhà máy Cồn Đại Việt phải xử lý dứt điểm tình trạng ô nhiễm gây ra, đồng thời
chỉ được hoạt động khi có văn bản cho phép của UBND tỉnh. Đây là mức phạt
nặng nhất được áp dụng đối với nhà máy này từ trước đến nay. Và sau quyết
định này của tỉnh Đắk Nông, Nhà máy cồn Đại Việt đã có những động thái tích
cực đầu tiên trong việc xử lý chất thải. Để chấm dứt hẳn hoạt động xả thải trái
phép cần giám sát chặt hơn và xử lý quyết liệt hơn nếu vi phạm tái diễn: "Chế
tài xử lý phải mạnh tay hơn nữa, đây là biện pháp răn đe, phòng ngừa đối với
doanh nghiệp có vi phạm trong lĩnh vực này. Việc chỉ đạo của UBND tỉnh cũng

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
16

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
như là sự phối hợp của cơ quan chức năng phải chặt chẽ hơn nữa, thường
xuyên hơn thì tình trạng gây ô nhiễm môi trường sẽ giảm đi rất nhiều.
Ông Nguyễn Dưỡng - phó trưởng Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh
Đắk Nông - cho biết theo quy hoạch, Khu công nghiệp Tâm Thắng không có
nhà máy xử lý nước thải tập trung. Các nhà máy khi đi vào hoạt động đều cam
kết xây dựng hệ thống thu gom nước thải khép kín hoặc thuê đơn vị khác thu
gom xử lý chất thải, việc một số nhà máy xả ra sông Sêrêpốk là vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường.
Ông Phạm Ngọc Phòng - giám đốc Công ty Phát triển hạ tầng Khu công
nghiệp Tâm Thắng - cho biết trước việc nguồn chất thải ngày càng nhiều, công

ty đã xin chủ trương đầu tư hệ thống thu gom nước thải tập trung, hiện dự án
đang trong giai đoạn triển khai. "Nước thải chảy ra gây ô nhiễm sông chủ yếu
là từ Công ty cổ phần Mía đường Đắk Nông và Nhà máy sản xuất cồn Đại Việt.
Hai đơn vị này đã từng vi phạm về quy trình xả thải và bị xử phạt" - ông Phòng
nói. Cũng theo ông Phòng, Công ty cổ phần Mía đường Đắk Nông đã có biện
pháp khắc phục việc xả thải ô nhiễm. Ngày 1-3 ngành môi trường tỉnh Đắk
Nông đã ra quyết định xử phạt Nhà máy cồn Đại Việt vì xả chất thải vượt tiêu
chuẩn từ 0,8-4,9 lần (thời điểm lấy mẫu nước xả thải trực tiếp của Đại Việt
ngày 28-1). Mới đây UBND tỉnh Đắk Nông cũng có văn bản yêu cầu đơn vị
này ngưng việc xả thải và nhanh chóng có biện pháp xử lý để tránh ô nhiễm ra
sông Sêrêpốk.
7. Kết luận và kiến nghị
- Kết luận:
Quá trình hình thành và phát triển KCN là một xu thế tất yếu trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, từ những bất cập nảy sinh trong thực
tế, chúng ta cần phải có tầm nhìn chiến lược trong sự phát triển của Khu công
nghiệp. Có như vậy, mới đảm bảo được tính bền vững của các mô hình này.
Tính bền vững của các Khu công nghiệp, sẽ tạo điều kiện phát huy những ảnh
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
17

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
hưởng tốt và giảm thiểu tác động xấu, góp phần phát triển kinh tế đất nước theo
hướng Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương, biện pháp giải quyết các
vấn đề môi trường. Hoạt động bảo vệ môi trường của nước ta đã đạt được
những kết quả bước đầu rất khả thi, đã xuất hiện những gương người tốt việc

tốt về bảo vệ môi trường. Với sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, nhiều tỉnh và thành phố đã trở thành các
trung tâm công nghiệp cùng với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các
KCN. Do tính đa dạng của các ngành công nghiệp, cơ sở sản xuất trong các
tỉnh nên thành phần chất thải cũng rất phức tạp vì vậy môi trường là một vấn đề
đã được các cấp lãnh đạo của các tỉnh rất quan tâm.
Từ khi có Luật Bảo vệ môi trường đến nay, công tác bảo vệ môi trường
trong toàn quốc nói chung và ở các tỉnh nói riêng ngày càng được coi trọng; Hệ
thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã dần được hoàn thiện và được
triển khai áp dụng vào thực tế; Các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực bảo vệ môi trường được
chú trọng; Nhà nước đã quan tâm định hướng chỉ đạo trong việc hoạch định các
chính sách, chiến lược, các giải pháp nhằm cải thiện môi trường.
Nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các ngành, các đơn vị và người dân
đã được nâng lên. Một số đơn vị cơ sở đã chú trọng đầu tư trang thiết bị xử lý
nguồn thải. Chú trọng tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra phát
hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về bảo vệ môi trường, giải quyết dứt điểm
những đơn thư khiếu nại về môi trường.
Tuy nhiên, việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng yêu
cầu của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới; bên cạnh những
kết quả đã đạt được công tác bảo vệ môi trường vẫn còn những tồn tại. Tuy
nhận thức của tổ chức, cá nhân về bảo vệ môi trường đã được nâng lên song
vẫn còn hạn chế. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn xảy
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
18

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp

ra ở nhiều nơi, đặc biệt nhiều cơ sở sản xuất chưa chấp hành nghiêm việc thực
hiện các biện pháp giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến gây
ô nhiễm môi trường xung quanh.
Nhằm bảo đảm cho công tác bảo vệ môi trường tại các nhà máy trong
KCN trong thời gian đến ngày càng tốt hơn thì trên hết vẫn là tinh thần hợp tác,
chung tay góp sức bảo vệ môi trường của từng doanh nghiệp, giúp cho hoạt
động của các nhà máy trong các khu công nghiệp ngày càng thân thiện với môi
trường, góp phần đưa ngành công nghiệp phát triển theo hướng bền vững.
Để khắc phục những mặt còn tồn tại trong công tác bảo vệ môi trường,
mỗi cán bộ, công chức phải không ngừng nâng cao nhận thức về bảo vệ môi
trường và gương mẫu, tích cực tham gia mọi hoạt động bảo vệ môi trường, cán
bộ, cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường phải luôn đề ra và thực hiện được các
biện pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Kiến nghị:
Hiện nay, thủ tục khi tiến hành thanh tra quá phức tạp, rườm rà (với 33
văn bản). Các đoàn thanh tra, kiểm tra định kỳ khi tiến hành làm việc phải
thông báo cho đối tượng bị thanh, kiểm tra biết trước 3 ngày, gây khó khăn
trong việc phát hiện hành vi vi phạm. Những đối tượng này sẽ có thời gian,
điều kiện đối phó như: tạm ngừng hoạt động sản xuất; vận hành công trình xử
lý chất thải tại thời điểm kiểm tra, vận chuyển toàn bộ chất thải đang lưu giữ,
xả chất thải vào ban đêm, ngoài giờ hành chính. Một số hành vi vi phạm về môi
trường thường diễn ra có tính thời điểm, không để lại dấu vết nên khó khăn
trong phát hiện và xử lý.
Do đó, cần ban hành quy định, trình tự thủ tục thanh, kiểm tra môi
trường theo hướng nhanh gọn và đảm bảo tính bất ngờ. Đối với thanh tra, kiểm
tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường không thông báo cho đối tượng biết dài
ngày, có thể thông báo trước 1-2 ngày, tăng cường kiểm tra đột xuất.
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
19


Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
Trên thực tế, việc vi phạm hành vi không có "Hồ sơ môi trường" vẫn tiếp
diễn, khó có khả năng chấm dứt, do đó cần phải có quy định cụ thể và xuyên
suốt về việc lập Đề án bảo vệ môi trường và không nên quy định về thời hiệu
và thời hạn cho việc lập, trình Đề án bảo vệ môi trường. Ngoài ra, các văn bản
hướng dẫn dưới luật phải được cập nhật, bổ sung kịp thời để từ đó địa phương
có đủ cơ sở pháp lý phục vụ cho công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra công tác
bảo vệ môi trường được thuận lợi.
Khung hình phạt cao sẽ có tính răn đe đối với đối tượng thanh, kiểm tra.
Tuy nhiên, đối với các cơ sở nhỏ, hộ kinh doanh cá thể nếu làm nghiêm thì họ
phá sản, thậm chí chây ỳ không chịu chấp hành nộp phạt. Vì thế, cần phải bổ
sung khung hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi vi
phạm, như vậy mới dễ thi hành, áp dụng trong thực tế.
Nhiều vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được xử lý triệt
để vì những quy định chung chung. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định 117/2009/NĐ - CĐ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, để nó thực sự trở thành công cụ hữu hiệu, đủ sức răn đe, xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường, chúng ta cần nhanh
chóng cụ thể hóa những quy định còn mang tính chung chung.
Ngoài ra, quy định cưỡng chế thi hành khó thực hiện do hệ thống văn
bản chồng chéo, chưa đồng bộ dẫn đến quyết định xử phạt không đảm bảo tính
nghiêm minh như: thu hồi đăng ký kinh doanh nhưng Luật Doanh nghiệp
không cho phép thu hồi với trường hợp gây ô nhiễm môi trường.
Mục đích chính của doanh nghiệp là lợi nhuận nên muốn doanh nghiệp
có ý thức hơn về bảo vệ môi trường, điều cần thiết là phải làm sao để doanh
nghiệp nhận thấy rằng, nếu thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, bản

thân doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi. Đây cũng là cách tiếp cận về quản lý môi
trường của các nước tiên tiến trên thế giới. Vì vậy, bên cạnh các biện pháp hành
chính, các chế tài tài chính thông qua hình thức phí bảo vệ môi trường, xử lý vi
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
20

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
phạm, hỗ trợ xử lý môi trường,… cần được nghiên cứu để có thể áp dụng một
cách hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực quản lý môi
trường cho các doanh nghiệp, những người sẽ trực tiếp thực hiện công tác quản
lý và bảo vệ môi trường cấp cơ sở cần được chú trọng trong thời gian đến.
Để bảo đảm phát triển bền vững kinh tế - xã hội và cuộc sống, an sinh
của nhân dân, công tác BVMT cần tập trung thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.
Đó là:
(1) Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội với
BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH); xây dựng năng lực nội sinh của
Doanh nghiệp nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên,
nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh.
(2) Cần đẩy mạnh cơ chế kinh tế hóa trong quản lý tài nguyên và BVMT,
khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng
lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch; hạn chế đầu tư vào
các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng;
không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường;
đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT và phát triển các dịch vụ môi trường.
(3) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, hình thành hệ thống
văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công
bằng, hiện đại và hội nhập. Cần bổ sung, hoàn thiện các quy định và cơ chế

quản lý về BVMT khu - cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
(4) Nâng cao nhận thức cho các cá nhân, tổ chức về nguy cơ ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với sự phát triển bền vững,
thể hiện rõ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng vùng lãnh thổ, từng
ngành, địa phương trong từng dự án, với tầm nhìn dài hạn; tăng cường hợp tác
quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này.
(5) Tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
theo hướng hiện đại, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ ngày càng phức tạp, nặng
Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
21

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
nề, đáp ứng yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó, tạo cơ chế phối hợp, hợp tác để huy
động mọi thành phần kinh tế và tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế cho công tác
bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(6) Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về
bảo vệ môi trường; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, trong đó, đặt trọng tâm đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường và việc thực hiện nội dung báo cáo đánh giá
tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ.
(7) Có cơ chế ưu đãi và tạo cơ chế cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội, các địa phương tự đề ra giải pháp xử lý ô nhiễm ở đơn vị,
doanh nghiệp, địa phương mình
(8) Xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường, đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, xây dựng các chuẩn mực, hình
thành ý thức, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường. Môi

trường phải trở thành tiêu chí cơ bản trong các hoạt động bình chọn, xét thi đua,
khen thưởng, ....
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005.
2. Thông tư 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 Quy định quản lý và
bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và
cụm công nghiệp.
3. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính phủ
quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
22

Trang


Tiểu luận: Xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp
4. Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo
vệ môi trường.
5. Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8
năm 2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Bảo vệ môi trường.
KẾT QUẢ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM TIỂU LUẬN

STT

Nội dung


01
02
03

Lời nói đầu
Mô tả tình huống
Xác định mục tiêu xử lý

04

tình huống
Phân tích nguyên nhân và

05

hậu quả
Xây dựng, phân tích và lựa

Lời phê

Điểm

Điểm

tối đa

thực tế

chọn phương án giải quyết
06


tình huống
Lập kế hoạch tổ chức thực
hiện phương án đã lựa

07
08

chọn.
Kết luận và kiến nghị
Tổng cộng

Người thực hiện: Nguyễn Minh Hoàng – Chuyên viên Khóa XVI
23

Trang



×