VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH
ĐỊA DANH TỈNH VĨNH LONG
QUA GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN GIAN
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 62220130
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2017
Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Trung Hoa
Phản biện 1: PGS.TS. Trần Thị An
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Xuân Đức
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học Viện Khoa học xã hội, số 477, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bên cạnh chức năng định danh, địa danh là trang sử sống động ghi
chép lại nhiều biến cố lịch sử, xã hội… Chính vì vậy, để góp phần nghiên
cứu văn hóa, các nhà khoa học thường chọn địa danh làm khách thể
nghiên cứu. Thực tế, trong thời gian qua, việc nghiên cứu địa danh dưới
góc độ ngôn ngữ đã mang lại những thành quả đáng ghi nhận nhưng vẫn
chưa lý giải một cách thấu đáo về bức tranh toàn cảnh của đời sống sinh
hoạt, tâm thức của người dân bản địa. Vì vậy, việc lý giải địa danh đòi
hỏi phải có nhiều góc nhìn - trong đó có góc nhìn văn hóa học. Ngoài
tính cấp thiết về mặt lý luận, chúng tôi chọn địa bàn nghiên cứu thuộc
tỉnh Vĩnh Long bởi vùng đất này từng là một trong những trung tâm hành
chính đóng vai trò “kinh đô” của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) - cái nôi văn hóa đầu tiên, có ảnh hưởng đến sự hình thành văn
hóa của khu vực. Trong giai đoạn hiện nay, vùng văn hóa Tây Nam Bộ
(TNB) được Chính phủ quan tâm trong Chương trình nghiên cứu khoa
học trọng điểm Tây Nam Bộ, vì thế, văn hóa tỉnh Vĩnh Long là một đề tài
mang tính cấp thiết của khu vực. Hơn nữa, việc tạo cơ sở khoa học nhằm
đáp ứng nhu cầu đặt, đổi tên địa danh sau khi thiết lập nhiều tuyến
đường, điều chỉnh địa giới hành chính... trong quá trình mở rộng đô thị,
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long hiện nay là vấn đề
cần giải quyết. Chính vì ba nhóm lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên
cứu “Địa danh tỉnh Vĩnh Long qua góc nhìn văn hóa dân gian” làm vấn
đề nghiên cứu của luận án Tiến sỹ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
2.1.1. Về mặt lý luận: Luận án làm cơ sở dữ liệu nghiên cứu về địa
danh tỉnh Vĩnh Long và vùng TNB; Nghiên cứu cơ sở lý thuyết giải mã
địa danh dưới góc nhìn văn hóa dân gian (VHDG); Khẳng định địa danh
là một loại hình di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia và nhân loại, làm
cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong địa danh trước bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.2. Về mặt thực tiễn: Luận án tìm ra được luận cứ nhằm củng cố
minh chứng về quá trình khẩn hoang vùng đất TNB của người Việt trong
1
lịch sử, nêu những nét tương đồng và khác biệt của tiểu vùng văn hóa
tỉnh Vĩnh Long trong mối quan hệ vùng văn hóa TNB; Thực hiện việc
đặt địa danh trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới; Đóng góp cho
Chương trình bảo tồn và phát huy di sản văn hóa và nếu có thể được,
luận án là cơ sở để tỉnh Vĩnh Long nói riêng, vùng TNB nói chung xây
dựng hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân
loại...
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thống kê, phân loại địa danh tỉnh Vĩnh Long;
- Khái quát về cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu địa danh; đề xuất
được phương pháp nghiên cứu địa danh qua góc nhìn VHDG; đề xuất
được nội hàm các thuật ngữ nghiên cứu địa danh qua góc nhìn VHDG.
- Giải mã được đời sống VHDG tỉnh Vĩnh Long qua địa danh và
ngược lại.
- Tìm ra các giá trị văn hóa truyền thống qua địa danh tỉnh
Vĩnh
Long.
- Nhận diện được các quy luật hình thành VHDG qua địa danh trong
mối quan hệ vùng văn hóa TNB.
- Đề xuất, khuyến nghị công tác bảo tồn và phát huy di sản VHDG
qua địa danh.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các thành tố VHDG tỉnh Vĩnh Long, cụ
thể là sự vận động của đời sống VHDG hình thành nên địa danh.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Sở dĩ, địa danh tỉnh Vĩnh Long được
chọn làm khách thể nghiên cứu là bởi vì chúng lưu giữ các yếu tố dân
tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, đặc điểm tự nhiên… và ghi dấu cả sự
biến động của lịch sử. Vì vậy, chúng sẽ góp phần rất lớn làm sáng tỏ đối
tượng nghiên cứu VHDG tỉnh Vĩnh Long.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Về không gian: Địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Để có một cái nhìn
sâu và tổng quát hơn về quá trình hình thành và lưu truyền vốn VHDG
của tỉnh nhà, không gian nghiên cứu sẽ được mở rộng sang các địa danh
có ảnh hưởng về văn hóa đối với người dân trong từng thời kỳ lịch sử, đó
2
là một số địa danh thuộc về tỉnh Vĩnh Long xưa nay vẫn thuộc địa giới
tỉnh nhà.
3.3.2. Về thời gian: Chúng tôi tiến hành khảo sát từ giai đoạn hình
thành Vương quốc Phù Nam, thời điểm các Chúa Nguyễn thành lập Long
Hồ Dinh (năm 1732) cho đến nay.
3.3.3. Về quy mô: Luận án khảo sát qua các tài liệu thành văn, tư liệu
điều tra điền dã; khảo sát địa danh hiện có và địa danh nay đã mất đi
nhưng vẫn ẩn chứa nhiều mã VHDG quý báu; nghiên cứu địa danh hành
chính (bao gồm địa danh có nguồn gốc dân gian) và địa danh dân gian.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận: Xuất phát từ phương pháp luận xem văn hóa
là nhân tố bên trong, là nền tảng chi phối mọi hoạt động của xã hội. Đây
cũng chính là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta xác định trong các
Văn kiện Đại hội Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: thống kê và phân loại, phân tích tổng
hợp, nghiên cứu lịch sử, so sánh, bản đồ; điều tra điền dã, phỏng vấn sâu;
nghiên cứu toán học. Ngoài các phương pháp chung được dùng để
nghiên cứu toàn luận án, chúng tôi còn mạnh dạn đề xuất hệ phương
pháp mới sử dụng cho việc giải mã địa danh dưới góc nhìn văn hóa nói
chung, VHDG nói riêng, bao gồm năm phương pháp: xác định thành tố
văn hóa, soi gương, tằm ăn lá, mã hóa địa danh, kiểm chứng dữ liệu địa
danh.
5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Đóng góp mới về mặt khoa học: Luận án đề xuất được cơ sở lý
luận nghiên cứu VHDG qua địa danh, cụ thể là việc dùng các thành tố
văn hóa và năm phương pháp mới truy tìm dữ liệu để nghiên cứu, giải
mã địa danh của một vùng đất dưới góc nhìn văn hóa; giới thuyết mới
các phạm trù, khái niệm thuộc về bản chất của địa danh và VHDG. Nhận
diện được nội hàm địa danh hành chính có nguồn gốc dân gian; đề xuất
phân loại địa danh thành địa danh hành chính và địa danh dân gian; nêu
được đặc điểm của địa danh trong đời sống VHDG; phát hiện ra các quy
luật VHDG chi phối quá trình hình thành và biến đổi địa danh.
5.2. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
3
- Luận án góp phần xem xét và mở rộng phạm vi thực hiện Nghị định
số 91/2005/NĐ-CP Về việc ban hành quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố
và công trình công cộng đến các vùng nông thôn gắn với các địa danh
thuần Việt. Đề xuất Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia nông
thôn mới bổ sung thêm tiêu chí Bảo tồn và phát huy nét văn hóa đặc sắc
ở địa phương (để góp phần giữ hồn nông thôn tỉnh Vĩnh Long nói riêng
và cả nước nói chung) trong tiêu chí số 16 của Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới.
- Khuyến khích phát huy việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản
phẩm, hàng hóa gắn với các địa danh dân gian, địa danh mang lớp từ
thuần Việt ở các địa phương, khu vực, tạo bản sắc cho thương hiệu hàng
hóa Việt Nam không lẫn lộn với thương hiệu của người bạn láng giềng
Trung Quốc. Nhìn nhận địa danh là một sản phẩm du lịch văn hóa phi vật
thể, chúng tôi đề xuất đổi và đặt tên thuần Việt cho các ngôi chợ nông
thôn, nhằm tạo tiền đề và thế mạnh để phát triển du lịch nông thôn; tăng
cường đặt địa danh dân gian đối với các công trình xây dựng trong suốt
tuyến điểm du lịch ở nông thôn TNB; xây dựng biển báo giới thiệu địa
danh dân gian. Góp phần đề xuất cơ sở khoa học xây dựng Hồ sơ Không
gian văn hóa và đặc trưng ngôn ngữ qua địa danh vùng Tây Nam Bộ đệ
trình UNESCO công nhận Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn
cấp trong thời gian tới. Cho dù được công nhận hay không, chúng ta
cũng giới thiệu được đến bạn bè quốc tế văn hóa truyền thống TNB và
quá trình lập đất hợp pháp của người Việt đối với vùng đất phía Nam của
tổ quốc.
- Góp phần đề xuất việc đặt địa danh Hán Việt trong những trường
hợp cần thiết trên địa bàn Nam Bộ; Đề xuất ban hành văn bản triển khai
đến các địa phương để chuẩn hóa chính tả địa danh ghi trên các văn bản
hành chính hiện hành.
- Đóng góp cho Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ phát
triển bền vững vùng TNB. Đề xuất áp dụng khung nghiên cứu địa danh
dưới góc nhìn văn hóa với hệ phương pháp nghiên cứu mới của luận án,
qua đó, nhân rộng việc nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn văn hóa ở các
tỉnh thành trong khu vực TNB hoặc thậm chí là cả Nam Bộ, nhằm tạo
một bộ lịch sử viết bằng nguồn tư liệu là địa danh. Công trình là một
4
minh chứng cho quá trình “Mở đất – Lập đất – Bảo vệ đất” với vai trò
chủ đạo của người Kinh và sự chung tay góp sức của đồng bào dân tộc
anh em trong lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận: Đóng góp về hướng tiếp cận và phương pháp
mới trong khoa học nghiên cứu về địa danh, giải quyết được những khái
niệm, các vấn đề có liên quan đến địa danh chưa được làm sáng tỏ dưới
góc nhìn văn hóa.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có ý nghĩa trong giai đoạn xây dựng
nông thôn mới ở Vĩnh Long nói riêng, vùng TNB nói chung; kịp thời giải
quyết được các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội có liên quan đến địa
danh.
7. Cơ cấu của luận án
Luận án bao gồm 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận.
Chương 2: Chủ thể và quá trình giao lưu văn hóa chi phối nguồn gốc
hình thành địa danh tỉnh Vĩnh Long.
Chương 3: Địa danh tỉnh Vĩnh Long hình thành và phát triển trong
không gian và thời gian văn hóa.
Chương 4: Nhận xét kết quả nghiên cứu địa danh tỉnh Vĩnh Long qua
góc nhìn văn hóa dân gian.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Nhận xét về nguồn tư liệu, tài liệu
Để xử lý vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã tiếp cận nguồn tư liệu, tài
liệu ngành địa lý, lịch sử, ngôn ngữ học, văn học và văn hóa học, tư liệu
điều tra điền dã, các văn bản hành chính địa phương và khảo sát một số
bản đồ ra đời dưới thời Nguyễn cho đến nay.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu địa danh và văn hóa qua địa
danh: Khởi thủy, địa danh được quan tâm ghi chép từ những bộ sách địa
lý lịch sử hay còn gọi là sách địa chí đề cập đến địa giới, sông núi, phong
5
tục, đặc sản của quốc gia hoặc địa phương. Qua quá trình phát triển đến
năm 1985, thể loại địa chí được thể hiện chuyên sâu hơn trong các nghiên
cứu về địa chí văn hóa và VHDG. Tuy nhiên, để nghiên cứu địa danh
dưới góc độ văn hóa thì phải kể đến các công trình xuất phát từ ngành
ngôn ngữ học. Trong quá trình vận động và phát triển của khoa học về
địa danh, các công trình nghiên cứu văn hóa qua địa danh bắt đầu xuất
hiện nhưng chưa hoàn thiện về mặt phương pháp và lý luận, việc giải mã
văn hóa qua địa danh vẫn chưa xác định rõ đối tượng nghiên cứu, các
công trình chịu ảnh hưởng khá đậm nét trường phái lý thuyết về ngôn
ngữ học. Có thể kết luận rằng, các nghiên cứu lý luận về địa danh dưới
góc nhìn văn hóa là một lĩnh vực mới, chỉ bắt đầu hình thành trong giai
đoạn hiện nay.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu địa danh tỉnh Vĩnh Long dưới góc
nhìn văn hóa dân gian: Qua khảo sát, địa danh tỉnh Vĩnh Long được đề
cập khá sơ lược trong các công trình nghiên cứu toàn quốc hoặc toàn
vùng NB nhưng được nghiên cứu chuyên sâu ở địa phương. Về mặt thể
loại, địa danh Vĩnh Long nghiên cứu dưới góc độ địa lý, lịch sử bằng các
thể loại địa chí, địa chí văn hóa, địa chí VHDG, từ điển ngôn ngữ hay các
công trình ngôn ngữ chuyên về địa danh… bước đầu đã cung cấp cho
luận án các thông tin tư liệu về nguồn gốc một số địa danh cổ cùng đời
sống văn hóa, phong tục tập quán… của tỉnh. Về mặt phương pháp, các
tác giả dư địa chí dưới thời Nguyễn trình bày bằng phương pháp liệt kê,
chưa đề cập địa danh và văn hóa bằng hệ thống lý luận cụ thể. Mặc dù
các sách địa chí giai đoạn sau đã có những bước tiến mới đáng ghi nhận,
tuy nhiên, do đặc thù của thể loại địa chí nên hầu như các tranh luận học
thuật về địa danh vẫn rất hiếm hoi, có chăng là ở công trình Gia định
thành thông chí với bản dịch của Lý Việt Dũng đính chính tên người và
tên đất so với bản dịch Đỗ Mộng Khương... Việc lý giải địa danh vì thế
vẫn chưa được soi sáng dưới góc nhìn văn hóa. Đối với các nghiên cứu
ngôn ngữ về địa danh tỉnh Vĩnh Long, một số tranh luận về nguồn gốc
địa danh và ngữ nghĩa của một số thành tố có trong địa danh, phân loại
địa danh đã xuất hiện. Luận án cũng kế thừa được các phương pháp tiếp
cận địa danh dưới góc độ từ vựng học, ngữ âm, từ nguyên dân gian…
Mặt khác, qua việc khảo sát thực tế ở địa phương và các tài liệu viết về
6
Vĩnh Long, chúng tôi nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu về
VHDG của tỉnh hiện vẫn chưa tương xứng với tầm vóc của một vùng đất
từng là nơi đô hội của khu vực ĐBSCL. Chính vì vậy, luận án sẽ là
những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn đối với mảng nghiên
cứu văn hóa tỉnh Vĩnh Long.
1.3. Cơ sở lý luận nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn văn hóa dân
gian
1.3.1. Một số khái niệm có liên quan đến địa danh và văn hóa dân
gian
1.3.1.1. Các khái niệm có liên quan đến địa danh
+ Khái niệm địa danh: Chúng tôi nhận thấy có rất nhiều tác giả đưa
ra định nghĩa nhằm làm sáng tỏ đối tượng địa danh. Để xác định nội hàm
của chúng, tránh sự nhầm lẫn với việc xác định hiệu danh, đồng thời
cũng giúp cho quá trình phân loại địa danh đầy đủ và dễ dàng, chúng tôi
chọn cách định nghĩa theo tác giả Lê Trung Hoa, ông xem: “Địa danh là
những từ hoặc ngữ, được dùng để đặt tên của địa hình thiên nhiên, các
đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về
không gian hai chiều”.
+ Phân loại địa danh: Chúng tôi cũng tán thành quan điểm của nhà
nghiên cứu Lê Trung Hoa phân địa danh thành: địa danh chỉ địa hình; địa
danh chỉ công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều; địa danh
hành chính; địa danh vùng. Bên cạnh, ông cũng dựa vào ngữ nguyên để
phân loại: địa danh thuần Việt; địa danh Hán Việt; địa danh bằng các
ngôn ngữ dân tộc thiểu số; địa danh bằng các ngoại ngữ. Để góp phần
giải mã địa danh, ngoài việc kế thừa cách phân loại của Lê Trung Hoa,
dưới góc nhìn VHDG, chúng tôi còn tiến hành phân địa danh thành hai
loại: địa danh hành chính (bao gồm cả địa danh hành chính có nguồn gốc
dân gian) và địa danh dân gian (hình thành bằng con đường truyền khẩu).
Theo đó, địa danh hành chính là địa danh chỉ các đơn vị hành chính. Loại
địa danh này do nhà nước công nhận. Phần lớn, chúng được hình thành
từ lớp ngôn ngữ Hán Việt và có nguồn gốc dân gian. Địa danh dân gian
là loại địa danh do nhân dân tạo nên, được cấu tạo bởi lớp từ thuần Việt.
Trong lịch sử hình thành và biến đổi địa danh, một bộ phận không nhỏ
địa danh dân gian đã trở thành địa danh hành chính. Theo chúng tôi, một
7
trong những dấu hiệu nhận biết địa danh hành chính có nguồn gốc từ địa
danh dân gian được xác định như sau: địa danh sử dụng từ thuần Việt,
mang tính dân dã, nôm na; địa danh sử dụng tiếng dân tộc thiểu số ở địa
phương; địa danh có từ hai danh pháp địa lý trở lên. Bên cạnh cách phân
loại này, chúng tôi còn dựa vào nguồn gốc hình thành và biến đổi của địa
danh để tiếp tục phân loại nhằm góp phần giải mã chúng dưới góc độ văn
hóa gồm: địa danh gắn với nguồn gốc tộc người trải qua không gian và
thời gian văn hóa; địa danh gắn với thực thể và địa danh mang các giá trị
văn hóa phi vật thể.
1.3.1.2. Các khái niệm có liên quan đến văn hóa dân gian
+ Phạm trù văn hóa dân gian: Để nghiên cứu VHDG qua địa danh
một cách toàn diện, chúng tôi chọn cách tiếp cận theo khái niệm rộng về
VHDG.
+ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu văn hóa dân gian
Phạm vi nghiên cứu VHDG là tất cả những gì thuộc về không gian
sống của con người. VHDG sẽ được xem xét dưới cái nhìn lịch đại và
đồng đại chứ không phải khuôn hẹp trong vốn văn hóa xưa, nay không
còn nữa. Đối tượng nghiên cứu VHDG chính là tất cả những gì thuộc về
nhân dân. Phân biệt VHDG không phải dựa trên quy mô của chúng gồm
những thành tố nào mà căn cứ vào tính chất của VHDG.
+ Di sản văn hóa phi vật thể địa danh: Căn cứ vào Luật Di sản văn
hóa năm 2001, chúng tôi nhận thấy địa danh mang đầy đủ nội hàm của di
sản văn hóa phi vật thể.
+ Đặc điểm của địa danh trong đời sống văn hóa dân gian: Địa
danh dân gian mang đầy đủ tính chất của một hiện tượng VHDG. Địa
danh dân gian được lưu truyền bằng con đường truyền miệng, vì thế,
chúng có khá nhiều dị bản về nguồn gốc hình thành và cả bản thân tên
gọi địa danh. Khi đã hình thành và phát triển, đến giai đoạn chính quyền
xác lập chủ quyền lãnh thổ hoặc xác lập địa giới hành chính, một bộ phận
địa danh dân gian trở thành địa danh hành chính. Kể từ đây, địa danh dân
gian có một vài đặc điểm khác với giai đoạn trước đó. Khi trở thành địa
danh hành chính, địa danh dân gian tồn tại chính thức trong các văn bản
hành chính nhà nước nên tên gọi địa danh mất đi tính dị bản do truyền
miệng, chúng được bảo lưu nguyên vẹn. Tuy nhiên, nguồn gốc hình
8
thành địa danh cũng không phải là bất biến, nếu địa danh bị chia tách
hoặc sáp nhập, nhiều khả năng chúng sẽ bị mất một phần hoặc xóa sổ
hoàn toàn trên bản đồ hành chính. Trong quá trình lưu truyền, địa danh sẽ
xuất hiện nguồn gốc phái sinh.
+ Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể địa danh:
Trước bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, địa danh cần
được bảo tồn nhằm đảm bảo tính nguyên vẹn của truyền thống văn hóa.
Khi xã hội đạt đến trình độ hiện đại nhất định, địa danh là một truyền
thống văn hóa không dễ gì có được.
1.3.2. Lý thuyết nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn văn hóa
Xuất phát từ cách nhìn địa danh là hiện tượng VHDG, chúng tôi chọn
lý thuyết vùng văn hóa nhằm nghiên cứu sự vận động của các thành tố
văn hóa chi phối nguồn gốc hình thành và lưu truyền của địa danh. Để
nghiên cứu chuyên sâu về địa danh dưới góc nhìn văn hóa và VHDG,
chúng tôi đề xuất bộ tiêu chí và năm phương pháp sau:
+ Bộ tiêu chí giải mã địa danh dưới góc nhìn văn hóa dân gian:
Yếu tố tộc người; Yếu tố không gian văn hóa; Yếu tố thời gian văn hóa
(TNB).
+ Phương pháp giải mã địa danh dưới góc nhìn văn hóa dân gian:
phương pháp xác định thành tố văn hóa, phương pháp soi gương,
phương pháp tằm ăn lá, phương pháp mã hóa địa danh, phương pháp
kiểm chứng dữ liệu địa danh.
1.4. Cơ sở thực tiễn nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn văn hóa
dân gian
Ngoài đặc điểm về điều kiện khí hậu, địa hình, đất đai thổ nhưỡng, địa
danh tỉnh Vĩnh Long còn chịu ảnh hưởng đặc đặc điểm về mặt ngữ âm,
phong cách sử dụng ngôn ngữ tỉnh Vĩnh Long. Theo thống kê của chúng
tôi, địa danh tỉnh Vĩnh Long có khoảng 5.163 địa danh gắn với các danh
pháp địa lý và phân loại theo thành tố văn hóa.
TIỂU KẾT
Điểm qua tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy luận án có tính
mới về mặt lý luận và thực tiễn. Trong công trình này, ngoài việc nghiên
cứu địa danh về mặt nguồn gốc, chúng tôi còn nhìn nhận địa danh là một
hiện tượng VHDG – có nghĩa là chúng cũng mang đầy đủ những đặc
9
trưng của hiện tượng VHDG… Trên cơ sở tính mới của đề tài, việc xác
lập cơ sở lý luận nghiên cứu địa danh tỉnh Vĩnh Long qua góc nhìn
VHDG đã nêu được các vấn đề cơ bản, giới thuyết về cách hiểu phạm trù
VHDG và địa danh, đề xuất năm phương pháp nghiên cứu đặc thù để giải
mã địa danh.
CHƯƠNG 2
CHỦ THỂ VÀ QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VĂN HÓA
CHI PHỐI NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH ĐỊA DANH
TỈNH VĨNH LONG
2.1. Khái quát lịch sử hình thành tỉnh Vĩnh Long
Qua nghiên cứu các nhóm địa danh gắn với di chỉ khảo cổ văn hóa Óc
Eo, tỉnh Vĩnh Long nói riêng, TNB nói chung khởi đầu thuộc Vương
quốc Phù Nam. Từ thế kỷ XVII - XVIII, vùng đất này được khai hoang
trên diện rộng dưới sự điều khiển của các chúa Nguyễn. Lịch sử hình
thành địa danh tỉnh Vĩnh Long cho thấy, để có được Vĩnh Long ngày
nay, đó là kết quả của sự chung tay góp sức từ các thành phần dân cư có
mặt rất sớm trên vùng đất này… Họ chính là nhân tố chi phối và quyết
định đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh.
2.2. Bức tranh văn hóa tộc người qua địa danh tỉnh Vĩnh Long
2.2.1. Lịch sử hình thành tộc người tỉnh Vĩnh Long qua địa danh:
Nhiều học giả nghiên cứu cho rằng, giai đoạn trước khi chúa Nguyễn lập
Long Hồ dinh, vùng đất Vĩnh Long đã có người Việt và người Khmer
chung sống rải rác vào các thế kỷ trước. Điều này được thấy rõ qua việc
lý giải nguồn gốc một số địa danh nửa Việt nửa Khmer và địa danh gắn
với tập quán sử dụng ngôn ngữ do di dân ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định... mang vào vùng đất mới… So với người Việt và người
Khmer, người Hoa đến sinh sống ở tỉnh Vĩnh Long muộn hơn, họ di cư
vào vùng đất này bởi sự kiện nước ta bị Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền
Đông NK. Họ vốn là hậu duệ của nhóm người Minh Hương vào Biên
Hòa, Mỹ Tho sinh sống và một bộ phận di cư vào năm 1685. Song song
đó, tỉnh Vĩnh Long còn có nhóm người Hoa là người Đường (Thanh) di
cư ồ ạt vào Việt Nam. Qua các giai đoạn lịch sử, sự ảnh hưởng của người
Hoa lên địa danh tỉnh Vĩnh Long được thể hiện ở khía cạnh ngôn ngữ tộc
10
người đến từ các địa phương Quảng Đông và Phúc Kiến. Từ một số địa
danh mang thành tố Chà Và và Trà, chúng tôi nhận định người Chăm đến
sinh sống trên vùng đất này khá muộn, khoảng đầu thế kỷ XIX.
2.2.2. Sự phân bố tộc người là nguồn gốc hình thành địa danh
tỉnh Vĩnh Long
Vào thế kỷ XVI trở đi, di dân miền Trung rời bỏ xứ Quảng Nam,
Quảng Trị, Quảng Bình… vào sinh sống tại tỉnh Vĩnh Long. Các địa
danh chỉ địa hình mang thành tố giồng, gò, sông, bãi, cù lao… được xác
định là nơi ở đầu tiên của cư dân Việt di dân vào vùng đất Long Hồ dinh
vì nhu cầu sinh hoạt cần nước ngọt và giao thông thuận lợi. Bên cạnh đó,
trong nghiên cứu làng Việt cổ truyền, chòm, xóm được xem là thành phần
của làng. Chính vì vậy, chúng tôi cũng ngờ rằng các địa danh mang thành
tố chòm ở tỉnh Vĩnh Long vốn là cách gọi nơi cư trú làng xóm của người
Việt miền Bắc di cư trong giai đoạn đầu khẩn hoang. So với sự phân bố
nơi cư trú của người Việt, qua các địa danh, ta thấy người Khmer thường
chọn sống ở các khu đất cao ráo. Họ có khuynh hướng lùi dần vào bên
trong tạo thành những phum (phum), sóc (srôk), tha la (sala) riêng. Đối
với tộc người Hoa, chúng tôi nhận thấy các địa danh xã Tàu ghi dấu sự
cư trú của họ vào thế kỷ XVIII, XIX. Song song đó, địa danh ghi lại giai
đoạn người Hoa được chính quyền nhà Nguyễn phân thành các bang để
dễ bề quản lý. Đến thời Pháp thuộc, lợi dụng sức mạnh của người Hoa về
mặt kinh tế, chính trị, thực dân vẫn tiếp tục duy trì hình thức cư trú bang
của người Hoa dựa trên hai tiêu chí địa dư và phương ngữ theo quy định.
Ngoài các tộc người trên, qua địa danh mang thành tố Plây, Bản… tỉnh
Vĩnh Long còn lưu lại dấu vết cư trú của các tộc người Chăm, Mông –
Dao, Kađai, Tày – Thái...
2.2.3. Đặc trưng văn hóa tộc người góp phần giải mã địa danh
tỉnh Vĩnh Long: Trải qua quá trình gìn giữ và xây dựng đất nước, bốn
tộc người Kinh - Khmer - Hoa - Chăm cùng chung sống với nhau và trở
thành anh em ruột thịt. Trong nghiên cứu địa danh, chúng tôi thấy rằng
có khá nhiều hiện tượng khó xác định thành tố văn hóa đó thuộc nguồn
gốc tộc người nào. Chúng tôi lấy ví dụ để phân tích một số hiện tượng
văn hóa không thể áp dụng phương pháp giải mã địa danh bằng thành tố
văn hóa tộc người qua các địa danh mang thành tố văn hóa tín ngưỡng
11
thờ Mẫu, Đạo giáo; Phật giáo Đại thừa, Phật giáo địa phương ở NB. Tuy
nhiên, căn cứ vào Phật giáo Nam tông, chúng ta có thể giải mã được một
số địa danh gắn với tộc người Khmer. Tương tự, chúng tôi còn dựa vào
thành tố văn hóa tín ngưỡng nổi bật của các tộc người trong giai đoạn
đầu mang đến vùng đất Vĩnh Long xưa nhằm làm căn cứ giãi mã nguồn
gốc địa danh tỉnh Vĩnh Long như tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng, thờ
Ông Bổn, thờ Ông Địa, thờ Ngọc Hoàng; thờ Neak Tà, thờ Arăk…
2.3. Ảnh hưởng của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa đến
nguồn gốc hình thành địa danh tỉnh Vĩnh Long
2.3.1. Giao lưu văn hóa bản địa giữa các tộc người Kinh, Hoa,
Khmer, Chăm qua địa danh: Trên thực tế, văn hóa các tộc người có sự
đan xen lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta khó có thể nhìn nhận thấu đáo, rạch
ròi văn hóa giữa các tộc người. Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu văn
hóa, chúng ta cũng nhận thấy rõ một vài phương diện mang tính tiêu
biểu. Đó là trên lĩnh vực văn hóa ngôn ngữ, sự pha trộn ngôn ngữ giữa
các tộc người, dân tộc qua địa danh… Ở phạm vi rộng hơn, quá trình
giao lưu văn hóa không chỉ thể hiện trong phạm vi các tộc người sinh
sống trên địa bàn tỉnh mà còn thể hiện qua quá trình giao lưu văn hóa
giữa nhân dân tỉnh Vĩnh Long với các tỉnh khác. Tuy nhiên, cũng cần
phân biệt có một số địa danh giống nhau ở nhiều khu vực tỉnh thành
không phải có nguồn gốc từ quá trình giao lưu văn hóa mà chúng biểu thị
sự hiển nhiên của sự vật hiện tượng cũ/mới, kênh đào/mương khai…
hoặc có cùng tâm lý và thói quen sử dụng ngôn ngữ, có cùng điều kiện tự
nhiên…
2.3.2. Tiếp xúc văn hóa giữa dân tộc Việt và các dân tộc khác qua
địa danh tỉnh Vĩnh Long: Cũng giống như quá trình giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc anh em tỉnh Vĩnh Long, ta cũng chỉ nhận diện được biểu
hiện của quá trình tiếp xúc văn hóa này qua cấu trúc ngôn ngữ của địa
danh.
2.3.2.1. Tiếp xúc văn hóa giữa dân tộc Việt – Trung qua địa danh:
Kể từ khi các tộc người xuất hiện trên vùng đất tỉnh Vĩnh Long, họ đã
tiến hành khai khẩn và lập làng lập ấp sinh sống. Địa danh trong giai
đoạn này đa phần là địa danh tên Nôm, có nguồn gốc dân gian. Đến khi
chúa Nguyễn thiết lập các đơn vị hành chính, địa danh Hán hóa mới bắt
12
đầu xuất hiện. Nguyên nhân là trong giai đoạn cận đại, các triều phong
kiến nước ta chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa Trung Hoa. Kể từ năm
1824, trước thực trạng có nhiều địa danh sử dụng từ Thuần Việt được lưu
truyền, vua Minh Mạng đã chủ trương rà soát các tên gọi địa danh trong
dân gian. Trong giai đoạn này, nhiều tác gia viết sách địa lý, lịch sử và
phác thảo các bản đồ đương thời bắt đầu việc Hán hóa địa danh Nôm.
Đến những năm cuối thế kỷ XIX, hình mẫu văn hóa của Trung Quốc
không còn nữa. Tuy nhiên, trong các giai đoạn về sau, chính quyền ở
Việt Nam cũng dùng từ Hán Việt để đặt tên cho nhiều đơn vị hành chính
cấp huyện – xã trong cả nước do chúng thể hiện ước vọng của quần
chúng nhân dân nơi vùng đất mới. Theo thống kê, Vĩnh Long vẫn còn
khoảng 462 địa danh Hán Việt là địa danh hành chính hiện hành đã xuất
hiện trong thời Nguyễn, góp phần ghi lại giai đoạn đầu các vua chúa nhà
Nguyễn điều khiển công cuộc khai hoang trên vùng đất NB xưa.
2.3.2.2. Tiếp xúc văn hóa giữa dân tộc Việt – Pháp qua địa danh:
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, quá trình tiếp xúc văn hóa giữa dân tộc
Việt và Pháp trong giai đoạn cận đại chủ yếu được lưu giữ qua một số địa
danh gắn với giao thông đường bộ, thành tố chỉ địa hình kênh, rạch và
phản ánh đời sống xã hội đương thời.
TIỂU KẾT
Địa danh tỉnh Vĩnh Long được thể hiện ở bốn ngôn ngữ tộc người
Việt – Hoa – Khmer – Chăm. Do quá trình sống cộng cư, văn hóa giữa
các tộc người trở thành vốn văn hóa chung, vì vậy, việc giải mã văn hóa
qua địa danh tỉnh Vĩnh Long cần phải được tiếp tục nghiên cứu bằng các
thành tố văn hóa khác. Bên cạnh các thành tố văn hóa tộc người bản địa
ảnh hưởng đến địa danh, chúng ta còn có thể xem xét thành tố văn hóa
dân tộc qua giao lưu văn hóa với Trung Hoa và Pháp, chúng góp phần
không nhỏ đến nguồn gốc hình thành và biến đổi một số địa danh Vĩnh
Long.
13
CHƯƠNG 3
ĐỊA DANH TỈNH VĨNH LONG HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI
TRONG KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN VĂN HÓA
3.1. Địa danh trong không gian văn hóa tỉnh Vĩnh Long
3.1.1. Địa danh phản ánh điều kiện tự nhiên và địa hình tỉnh Vĩnh
Long: Vĩnh Long là tỉnh có vị trí địa lý nằm giữa hai con sông Tiền và
sông Hậu vốn thuộc trung tâm của vùng ĐBSCL. Địa hình tỉnh tương đối
phẳng, hình lòng chảo, được cấu thành bởi một hệ thống sông ngòi khá
dày đặc. Chính vì vậy, địa danh tỉnh Vĩnh Long có các thành tố văn hóa
có liên quan đến đặc tính sông nước chiếm đa số. Tỉnh Vĩnh Long còn có
loại địa danh chỉ kinh nghiệm quan sát địa hình, tri thức về đất đai thổ
nhưỡng… cùng các loại thủy sản, động vật, thực vật miền quê… - nơi
vùng đất phù sa nước ngọt, gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày của
nhân dân như các loài cá lóc, cá rô, chó, gà, heo, bò… các loài cây trái
của vùng đất miệt vườn và một số cây cỏ Đông y đi vào địa danh…
3.1.2. Địa danh phản ánh sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần
trong không gian văn hóa tỉnh Vĩnh Long: Đi liền với địa hình sông
nước là đặc trưng văn hóa sông nước sử dụng thuyền bè đi lại, nghề lái
đò hay sinh hoạt chợ nổi, bến đò chèo, các loại cầu truyền thống bắc
ngang những dòng kênh, con sông quê… in đậm dấu ấn qua địa danh.
Song song đó, nhân dân cũng ghi lại rất nhiều “biển báo” chỉ đường khi
gọi địa danh bằng tên một số dòng chảy. Trong lao động sản xuất, địa
danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh đời sống nông nghiệp trồng lúa nước,
kinh nghiệm chọn đất canh tác, đào mương lên liếp để làm vườn, hình
thành những vườn cây trái trĩu quả nổi tiếng ở Vĩnh Long… Ngoài ra, các
làng nghề truyền thống, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, phong
tục tập quán ở địa phương cũng được nhân dân ghi nhớ qua một số địa
danh…
3.2. Địa danh phản ánh thời gian văn hóa tỉnh Vĩnh Long
3.2.1. Địa danh tỉnh Vĩnh Long thời khẩn hoang: Trong giai đoạn
này, địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh những khó khăn của nhân dân
gặp phải trong quá trình mở đất, làm cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ
Ông Hổ, thờ Cá Sấu… Xuất phát từ hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt,
cư dân khẩn hoang phải bỏ biết bao công sức mới khai khẩn được đất
14
đai. Vì vậy, đối với họ, hễ ai có công khai hoang thì họ đều ghi nhớ, tiêu
biểu, ta có các địa danh gắn với những người có công lập làng lập ấp…
3.2.2. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh lớp văn hóa phong kiến
dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn
3.2.2.1. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh các đơn vị hành chính
đương thời: Dưới thời Nguyễn, địa danh cấp tỉnh Vĩnh Long được gọi là
dinh/trấn. Dưới dinh/trấn là phủ, huyện, tổng, thôn… Đến giai đoạn
thuộc Pháp, đơn vị hành chính thời Nguyễn bị thực dân bãi bỏ. Ngày
nay, các đơn vị hành chính xưa gắn với tên gọi địa danh tỉnh Vĩnh Long
chỉ còn được lưu giữ qua các địa danh mang thành tố dinh, thôn gợi nhớ
về một vùng văn hóa trung tâm của khu vực.
3.2.2.2. Địa danh tỉnh Vĩnh Long giải mã được cơ cấu bộ máy
quan lại thời Nguyễn: Nhìn chung, trải qua các triều đại phong kiến,
mối quan hệ của nhân dân đối với triều đình là mối quan hệ của kẻ bề tôi
đối với bậc quân quyền. Vì vậy, xét trong địa danh tỉnh Vĩnh Long,
chúng tôi nhận thấy các chức quan cấp trung ương đi vào địa danh rất ít
có lẽ đó cũng là hệ quả của tâm lý trên, so với các chức danh được phản
ánh qua địa danh trong bộ máy tổ chức hành chính ở nông thôn. Đi liền
với việc khởi xướng và đề ra thiết chế quản lý văn hóa đình làng nói trên,
trải qua các triều đại phong kiến, triều đình nhà Nguyễn còn tiến hành
ban sắc phong Thành Hoàng bổn cảnh cho các ngôi đình. Nhiều ngôi
đình có từ rất lâu đời, nhiều tên gọi đình hoặc danh từ đình đã trở thành
địa danh.
3.2.2.3. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh nền Nho học phong
kiến: So với các tỉnh thành khác ở vùng TNB, Vĩnh Long vốn có truyền
thống Nho học. Vào năm 1862, triều đình Nhà Nguyễn ký hòa ước Nhâm
Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho giặc. Trước sự kiện này, lực lượng
văn thân sĩ phu ba tỉnh miền Đông đã chuyển sang hoạt động ở ba tỉnh
miền Tây còn lại, trong đó, tỉnh Vĩnh Long được chọn làm nơi tỵ địa
chính. Để khuyến khích cho nền nho phong ở NB phát triển, Phan Thanh
Giản đã cùng các sỹ phu và Đốc học Nguyễn Thông tỉnh Vĩnh Long xây
dựng Văn Thánh miếu. Đây là công trình trung tâm, là nguồn gốc hình
thành nên các địa danh dân gian có liên quan đến Văn thánh miếu trên
địa bàn tỉnh.
15
3.2.2.4. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh vấn đề kỵ húy: Thực
ra, việc kỵ húy không phải là nét văn hóa chỉ hình thành trong giai đoạn
triều Nguyễn. Theo Ngô Đức Thọ, vấn đề kỵ húy có từ rất lâu đời. Trong
lịch sử hình thành và phát triển vùng đất NB, chúng ảnh hưởng rất lớn
đến tập quán sử dụng ngôn ngữ trong dân gian để đặt địa danh. Nhìn
chung, vấn đề kỵ húy ảnh hưởng đến địa danh chủ yếu là kiêng âm húy.
Xét ở toàn giai đoạn, chúng là một trong những nguyên nhân định hướng
cho việc đặt tên địa danh và là một trong những nhân tố tạo thành tiếng
địa phương trong đời sống nhân dân tỉnh Vĩnh Long và khu vực cho đến
ngày nay.
3.2.2.5. Địa danh tỉnh Vĩnh Long giải mã lối sống, phong tục tập
quán của nhân dân: Hiện nay, địa danh tỉnh Vĩnh Long còn lưu lại
phong tục đi thuyền của người dân dưới triều vua Gia Long và tập quán
sản xuất muối đỏ truyền thống, các công trình xây dựng trong giai đoạn
thành Vĩnh Long tồn tại và địa danh mang thành tố ô.
3.2.3. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh lớp văn hóa thời thuộc
Pháp: Kể từ khi sáu tỉnh NK lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp, chúng
đã bắt đầu thực hiện việc thay đổi tên gọi các đơn vị hành chính ở NB,
tiến hành tách, nhập nhiều địa danh. Nhằm chấm dứt sự ảnh hưởng văn
hóa của Trung Hoa ở Việt Nam, thực dân cho truyền bá chữ quốc ngữ,
xóa bỏ nhiều tên gọi viết bằng chữ Hán, thay vào đó, chúng sử dụng
nhiều tên Nôm dân gian. Sau một thời gian, người Pháp nhận thấy sự bất
ổn và muốn lợi dụng hệ tư tưởng Nho giáo để duy trì ở nước ta những tàn
dư phong kiến lạc hậu nên chúng quyết định phát triển trở lại. Cụ thể,
Pháp không chủ trương xóa sổ các địa danh được đặt theo từ Hán Việt,
mặt khác, chúng còn củng cố hệ tư tưởng này qua việc tăng cường đặt địa
danh Hán Việt nhằm xoa dịu các phong trào chống Pháp.
3.2.3.1. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh bộ máy hành chính
cai trị thời thuộc Pháp: Sau khi chiếm được các tỉnh miền TNB, thực
dân cho thành lập Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ (NK) và đề ra cơ cấu tổ
chức bộ máy hành chính cấp tỉnh. Các địa danh trong giai đoạn này chủ
yếu phản ánh chức danh đốc phủ sứ, tri huyện, thông ngôn, thư lại, cai
thuộc, lục sự, biện lý… các phẩm hàm phong cho quan chức NK làm
việc dưới quyền chỉ huy của thực dân Pháp trong quân đội, hệ thống
16
chính quyền làng, xã ở hương thôn. Song song với các chức vụ thời
thuộc Pháp, địa danh tỉnh Vĩnh Long còn ghi lại địa điểm các công trình
xây dựng, cơ quan hành chính đương thời.
3.2.3.2. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh giai đoạn kháng
chiến chống Pháp: Trong giai đoạn này, do tính chất hoạt động bí mật
của cuộc kháng chiến nên các địa danh có liên quan đến căn cứ cách
mạng đương thời hầu như không được người dân truyền miệng. Có
chăng là địa danh gắn với những sự kiện lịch sử kháng Pháp và các
gương anh dũng.
3.2.3.3. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh các thành tố văn
hóa khác: Ngoài các vấn đề trên, cư dân tỉnh Vĩnh Long còn tiếp nhận
tôn giáo phương Tây như Công giáo, Tin Lành, Cao đài ra đời trong giai
đoạn thuộc Pháp. Chính các tôn giáo này có những ảnh hưởng nhất định
đến địa danh tỉnh Vĩnh Long qua cơ cấu tổ chức của đạo và hệ thống các
cơ sở thờ tự.
3.2.4. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ: Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi
nhận thấy có các địa danh gắn liền với những sự kiện và trận đánh anh
hùng của nhân dân ta. Đương thời, Mỹ đã lập nên chế độ Việt Nam Cộng
hòa ở miền Nam Việt Nam và thực hiện chiến lược dùng người Việt đánh
người Việt. Trong giai đoạn này, các tên gọi cấp tỉnh ở NB phần lớn bị
thay thế và địa giới hành chính bị chia tách, sáp nhập lại, ngoại trừ địa
danh cấp tỉnh Vĩnh Long. Cũng như thời kỳ chống Pháp, thông qua các
bài vè, ca dao dân ca, nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã thể hiện thái độ châm
biếm đả kích, sâu cay hoặc nói lên lòng căm thù giặc gắn với các địa
danh là địa điểm kháng chiến… Nhìn chung, qua hai cuộc kháng chiến
hào hùng của dân tộc, các truyền thống chiến đấu anh hùng gắn với một
vùng đất đã làm phái sinh nhiều nguồn gốc địa danh trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long.
3.2.5. Địa danh tỉnh Vĩnh Long phản ánh lớp văn hóa sau ngày
đất nước thống nhất: Trong giai đoạn này, do phải thiết lập lại địa giới
và các đơn vị hành chính, chấn chỉnh lại tên gọi một số địa danh do chính
quyền phản động đặt ra, nhà nước ta đã tiến hành tách, nhập các địa danh
cấp tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường, ấp với số lượng lớn song song
17
với hàng loạt địa danh mừng ngày đất nước hoàn toàn độc lập ra đời.
Đồng thời, để tôn vinh tập thể, cá nhân có công với đất nước, chính
quyền cách mạng đã ghi danh và phong tặng nhiều xã, gương anh hùng.
Kể từ khi được phong tặng, các địa danh trên bắt đầu có nguồn gốc phái
sinh trong dân gian là những địa danh có truyền thống anh hùng.
TIỂU KẾT
Qua địa danh tỉnh Vĩnh Long, người dân đã tận dụng những tri
thức dân gian, phong tục tập quán… trong việc đặt tên cho địa danh. Đi
liền với không gian văn hóa, địa danh gắn với thời gian văn hóa tỉnh
Vĩnh Long đã tái hiện các sự kiện đương thời cùng đời sống, phong tục
tập quán và cách sử dụng ngôn ngữ cổ xưa của nhân dân lao động qua
từng thời kỳ lịch sử.
CHƯƠNG 4
NHẬN XÉT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
TỈNH VĨNH LONG QUA GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN GIAN
4.1. Quy luật văn hóa dân gian chi phối địa danh tỉnh Vĩnh Long
Qua khảo sát địa danh tỉnh Vĩnh Long, chúng tôi nhận thấy địa
danh là hiện tượng VHDG. Từ kết quả nghiên cứu về nguồn gốc hình
thành địa danh trong chương 2 và chương 3, chúng tôi rút ra các quy luật
VHDG vùng Tây Nam Bộ chi phối nguồn gốc, tên gọi địa danh tỉnh Vĩnh
Long - là hệ quả của quá trình lưu truyền địa danh bằng con đường
truyền miệng.
4.1.1. Quy luật văn hóa dân gian chi phối cách đặt địa danh
4.1.1.1. Tên gọi địa danh xuất phát từ đời sống văn hóa của địa
phương: Khi đặt tên cho địa danh, người dân tỉnh Vĩnh Long xuất phát
từ đời sống văn hóa ở địa phương. Địa danh mang ngôn ngữ của tộc
người, mang tên các loài thực vật, động vật, sinh hoạt văn hóa, vật chất,
phong tục tập quán… xung quanh mình. Đời sống văn hóa của địa
phương chính là ngân hàng tên gọi địa danh mà người dân dùng để đặt
cho nhiều đối tượng chứ không phải chúng được nhân dân lấy ra từ
những quyển sách đã viết sẵn.
4.1.1.2. Tên gọi địa danh đáp ứng nhu cầu dễ nhớ: Từ hiện thực
cuộc sống, người dân đã lựa chọn các sự vật hiện tượng, dùng nó làm
18
chất liệu đặt tên cho các địa điểm, công trình, vùng đất. Tuy nhiên, không
phải bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong đời sống hàng ngày cũng đi vào
địa danh mà khi đặt tên cho chúng, người dân chỉ chú ý đến sự thuận tiện
trong việc gọi tên địa danh, miễn sao cho họ dễ nhớ, dễ nhận dạng ra địa
điểm, công trình, vùng đất đó (bao gồm cả trường hợp đặt địa danh do
các tộc người di cư với tâm lý hoài cố thường lấy tên vùng đất cũ nơi bản
quán của họ đặt cho vùng đất mới, chúng cũng xuất phát từ nhu cầu dễ
nhớ).
4.1.1.3. Từ ngữ đặt địa danh là “lời ăn tiếng nói hàng ngày” của
nhân dân: Địa danh chính là quyển từ điển về ngôn ngữ “nôm na, bình
dị” mang lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được hình thành qua
các giai đoạn lịch sử. Từ lối nói dung dị, không trau chuốt cầu kỳ của
nhân dân đã làm nảy sinh hệ quả về ngữ âm địa phương phản ánh qua địa
danh, chúng là nguyên nhân tạo nên nhiều địa danh bị sai chính tả. Qua
đặc điểm này, ta thấy chính quyền địa phương cũng mang tính dân gian
khi ghi chép địa danh.
4.1.1.4. Tên gọi địa danh được số đông hưởng ứng, nuôi dưỡng
bằng con đường truyền miệng: Bất kỳ địa danh có nguồn gốc dân gian
nào ra đời, chúng phải được số đông hưởng ứng, nuôi dưỡng bằng con
đường truyền miệng thì mới được ghi nhớ và công nhận. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, hệ quả của việc được số đông truyền gọi đôi lúc
khiến tên địa danh bị biến dạng, một số địa danh trở nên cầu kỳ, khó
hiểu… Quá trình này được phổ biến cho đến khi địa danh được công
nhận chính thức trên các văn bản hành chính. Song song với tên gọi địa
danh, nguồn gốc hình thành địa danh cũng phải tuân thủ theo quy luật
này.
4.1.1.5. Quy luật đặt tên địa danh theo tính liên hoàn: Trong dân
gian, một tên gọi địa danh sau khi ra đời thường có khuynh hướng được
dùng để đặt cho nhiều đối tượng khác có khoảng cách địa lý gần nhau.
Có nghĩa là, khi đặt tên cho một vùng đất hoặc một đối tượng địa lý hoặc
một công trình xây dựng…, người dân có khuynh hướng sử dụng tên gọi
địa danh đó để đặt tên cho hàng loạt các đối tượng còn lại, với điều kiện,
chúng có khoảng cách gần nhau giúp họ dễ nhớ và thuận tiện trong việc
nhận diện địa danh. Đặc điểm này làm xuất hiện quy luật đặt tên địa danh
19
theo tính liên hoàn. Thực tế cho thấy, địa danh sông, rạch, vàm, ngọn,
cầu, cống, đập… ở một vùng đất thường có cùng một tên gọi địa danh.
Vì vậy, mỗi địa danh cũng không hẳn là có một nguồn gốc giải thích
riêng... mà đôi khi chúng ra đời trên cơ sở nhân dân đặt tên địa danh theo
tính liên hoàn. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng loại địa danh đính kèm từ
hai danh pháp địa lý trở lên cũng là hệ quả của quy luật này.
4.1.2. Quy luật chuyển hóa giữa địa danh hành chính và địa danh
dân gian: Thông thường, địa danh dân gian được hình thành một cách tự
phát từ nhân dân trong vùng, đến một thời điểm nhất định, chính quyền
đương thời thành lập đơn vị hành chính, họ có khuynh hướng sử dụng tên
gọi địa danh dân gian phổ biến ở vùng đất đó làm địa danh hành chính.
Ngược lại với xu hướng trên, tất cả địa danh hành chính hầu như đều có
khuynh hướng trở thành địa danh dân gian trong quá trình lưu truyền
hàng ngày của nhân dân. Như vậy, địa danh dân gian và địa danh hành
chính chuyển hóa và bổ sung lẫn nhau. Quá trình chuyển hóa này có thể
diễn ra nhiều lần.
4.1.3. Quy luật hình thành nguồn gốc phái sinh của địa danh
trong đời sống văn hóa dân gian: Bất kỳ một địa danh nào ra đời cũng
có nguồn gốc hình thành, chúng xuất phát từ hiện thực cuộc sống, đáp
ứng nhu cầu thực tiễn của con người… Tuy nhiên, khi địa danh ra đời và
thực hiện chức năng định danh, cho dù là địa danh dân gian hay địa danh
hành chính, địa danh bắt đầu có nguồn gốc phái sinh. Sự hình thành nên
nguồn gốc phái sinh của địa danh được xuất hiện tại một thời điểm nhất
định khi có một sự kiện văn hóa - lịch sử - xã hội của đất nước, địa
phương hoặc những sự kiện diễn ra trong đời sống hàng ngày của nhân
dân..., chúng có tác động sâu sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng
người dân, lúc bấy giờ, địa danh có thêm nguồn gốc phái sinh. Chúng
mang đến cho địa danh một ý nghĩa mới mà không hề liên quan đến
nguồn gốc ban đầu hình thành nên địa danh. Đôi lúc trong dân gian, sự
vận động của nguồn gốc phái sinh có sức lan truyền mạnh mẽ, đến một
lúc nào đó, nhân dân quên đi nguồn gốc ban đầu hình thành nên địa danh.
Trên thực tế, hầu hết địa danh đều có nguồn gốc phái sinh. Đặc điểm này
khiến địa danh mang tính dân gian hóa.
20
4.1.4. Quy luật văn hóa dân gian chi phối quy luật ngôn ngữ thể
hiện địa danh: Một số tên gọi địa danh chỉ thực sự bị chi phối bởi quy
luật của VHDG mà không theo công thức của ngôn ngữ học. Ví như trên
thực tế, có khá nhiều địa danh không theo quy luật chính tả hay một số
quy luật khác của ngôn ngữ mà chúng được hình thành theo quy luật
VHDG.
4.1.5. Quy luật chuyển hóa giữa địa danh - hiệu danh - nhân
danh: Hiệu danh và địa danh là hai trường phái khác nhau. Tuy nhiên,
giữa hai đối tượng này có mối quan hệ mật thiết khiến nhiều nhà khoa
học lẫn lộn chức năng của chúng. Thực tế, rất nhiều hiệu danh – nhất là
các cơ sở thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng… trở thành địa danh hành chính,
địa danh dân gian và ngược lại. So với hiệu danh là công ty, xí nghiệp,
trường học… thì các cơ sở thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng dễ hình thành nên
địa danh. Nguyên do vì các cơ sở thờ tự thường là nơi sinh hoạt cộng
đồng nên nhân dân dễ nhận diện, chúng đáp ứng được tiêu chí dễ nhớ
trong quá trình đặt địa danh. Trong mối quan hệ với nhân danh, dân gian
thường lấy tên nhân danh để đặt cho địa danh. Ngược lại, địa danh ít có
sự tác động đến nhân danh.
4.2. Tiểu vùng văn hóa tỉnh Vĩnh Long trong mối quan hệ với
vùng văn hóa Tây Nam Bộ qua địa danh
4.2.1. Những nét tương đồng: Do có cùng điều kiện tự nhiên, nguồn
gốc tộc người và bối cảnh chính trị nên địa danh tỉnh Vĩnh Long có nhiều
nét tương đồng với địa danh các tỉnh trong khu vực.
4.2.2. Những nét khác biệt: Qua thời gian văn hóa, địa danh tỉnh
Vĩnh Long phản ánh vùng đất này từng là thủ phủ của khu vực miền
TNB chứ không phải là Tp. Cần Thơ cùng một số phản ánh khác biệt.
4.3. Đề xuất các giải pháp ứng dụng kết quả nghiên cứu địa danh
tỉnh Vĩnh Long qua góc nhìn văn hóa dân gian
Trên cơ sở xác định địa danh là các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc, chúng tôi đề xuất giải pháp bảo tồn địa danh trong quá trình thực
hiện Nghị định 91/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên
21
đường, phố và công trình công cộng, địa phương cần bổ sung các tiêu chí
về tên gọi địa danh có nguồn gốc dân gian và sửa đổi, bổ sung mở rộng
phạm vi thực hiện đến các vùng nông thôn; đồng thời có các giải pháp
đáp ứng công tác xây dựng cơ sở hạ tầng trong Chương trình nông thôn
mới, bổ sung tiêu chí trong Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới. Đẩy
mạnh các vấn đề trên, chúng ta sẽ góp phần hỗ trợ việc thực hiện mục
tiêu bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ của quốc gia đăng ký quyền sở hữu trí tuệ về nhãn
hiệu, hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế… không gây nhầm
lẫn (nếu có) với một vài địa danh tiếng Hán của người bạn láng giềng
Trung Quốc. Chúng tôi đề xuất xây dựng đề án đổi tên chợ nông thôn và
xem địa danh dân gian là sản phẩm du lịch văn hóa, dùng địa danh ra đời
trong thời Nguyễn để đặt cho một số địa danh hành chính. Nhà nước cần
ban hành văn bản đến các tỉnh thành nhằm chấn chỉnh lại việc viết sai
chính tả địa danh trên các văn bản hành chính. Để tiến tới thực hiện tốt
công tác bảo tồn và phát huy địa danh theo xu hướng hội nhập quốc tế,
dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng ta cần xây dựng hồ sơ Không gian
văn hóa và đặc trưng ngôn ngữ qua địa danh vùng Tây Nam Bộ đệ trình
UNESCO công nhận. Qua đó, chúng ta cũng phản ánh được sự sáng tạo
của nhân dân, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí sự phát triển
của nền văn minh Óc Eo cho đến nay, đồng thời, khẳng định chủ quyền
về mặt văn hóa, lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, là cơ hội giới thiệu đến
bạn bè thế giới biết đến quá trình gian khổ và hợp pháp của dân tộc ta khi
gầy dựng vùng đất phía Nam trong lịch sử. Và cuối cùng, việc ứng dụng
khung nghiên cứu văn hóa qua địa danh của đề tài bằng hệ phương
pháp nghiên cứu mà chúng tôi đề xuất làm tiền đề nghiên cứu địa danh
các tỉnh thành thuộc TNB nói riêng và NB nói chung. Đồng thời, việc
vận dụng các quy luật VHDG qua địa danh cũng góp phần giải quyết một
số vấn đề về địa danh học Việt Nam…
TIỂU KẾT
22
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã tìm ra được các quy luật
VHDG chi phối cách đặt tên cho địa danh và quá trình lưu truyền chúng
trong dân gian; lý giải được một số vấn đề đang tranh cãi của địa danh
học Việt Nam. Có thể kết luận rằng, chỉ khi đặt địa danh dưới góc nhìn
VHDG thì bản chất của địa danh mới được xem xét một cách toàn diện.
So sánh địa danh tỉnh Vĩnh Long trong mối quan hệ với địa danh vùng
TNB, chúng tôi nhận thấy chúng có khá nhiều nét tương đồng và khác
biệt. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy
VHDG có trong địa danh ở tỉnh Vĩnh Long nói riêng, TNB nói chung
nhằm kịp thời giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống trước bối cảnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận: Về mặt lý luận, chúng tôi đã khái quát được các vấn đề
cơ bản của địa danh và VHDG. Bằng lý thuyết vùng văn hóa, chúng tôi
đã tiếp cận địa danh bằng một bức tranh tổng thể, có hệ thống và đề xuất
mới hệ phương pháp nghiên cứu địa danh để giải mã địa danh tỉnh Vĩnh
Long dựa trên bộ ba tiêu chí chủ thể, không gian, thời gian văn hóa. Với
hệ thống lý luận này, chúng tôi từng bước giải mã các địa danh hiện hữu
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long và kết nối chúng lại với nhau, khắc phục
được một số lổ hổng trong nghiên cứu địa danh học khi phần lớn các nhà
nghiên cứu lý giải địa danh của một vùng đất còn khá rời rạc... Kết quả
nghiên cứu vừa giải thích được nguồn gốc, thời điểm hình thành địa danh
lại vừa tạo được sự liên kết tất cả các địa danh của một vùng đất, đưa địa
danh thành những trang sử dưới dạng nguồn tư liệu viết về đời sống
VHDG phát triển theo diễn trình lịch sử văn hóa của dân tộc. Đặc biệt,
trong phần hệ thống lý luận, chúng tôi cũng góp phần phát hiện nguồn
gốc phái sinh của địa danh mang tính dân gian hóa mạnh mẽ, nhận diện
được các địa danh hành chính có nguồn gốc dân gian, đồng thời chúng
tôi còn khái quát được một số quy luật VHDG chi phối cách đặt tên địa
danh. Qua đó, luận án cũng phần nào đề xuất được hướng tiếp cận tương
đối mới trong khoa học nghiên cứu về địa danh dưới góc nhìn văn hóa.
23