Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu biện pháp nâng cao tính tự giác, tích cực trong giờ học giáo dục thể chất cho sinh viên học viện an ninh nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN XUÂN THUYẾT

NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH TỰ GIÁC, TÍCH CỰC TRONG
GIỜ HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO SINH VIÊN
HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN XUÂN THUYẾT

NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH TỰ GIÁC, TÍCH CỰC
TRONG GIỜ HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN
AN NINH NHÂN DÂN

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số: 60.14.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS. TS Tạ Hữu Hiếu


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Thuyết

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CT

-

Chỉ thị

ĐC

-

Đối chứng

ĐH- CĐ

-


Đại học – Cao đẳng

GD-ĐT

-

Giáo dục – Đào tạo

GDTC

-

Giáo dục thể chất

HVAN

-

Học viện an ninh nhân dân

NCKH

-

Nghiên cứu khoa học

TDTT

-


Thể dục thể thao

TN

-

Thực nghiệm

TT

-

Thể thao

CÁC ĐƠN VỊ ĐO LƢỜNG TRONG LUẬN VĂN

cm

-

Centimet

l

-

Số lần

m


-

Mét

“s”

-

Giây


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
TT

Ký hiệu

Nội dung

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

3

Bảng 2.3


4

Bảng 2.4

5

Bảng 2.5

6

Bảng 2.6

Kết quả học tập môn GDTC của sinh viên HVAN.

7

Bảng 2.7

Kết quả kiểm tra thể lực chung của sinh viên HVAN.

8

Bảng 2.8

9

Bảng 2.9

Kết quả phỏng vấn các tiêu chí đánh giá tính tự giác, tích của

sinh viên HVAN trong giờ học GDTC.
Kết quả phỏng vấn về biểu hiện ở xúc cảm học tập của sinh
viên HVAN với môn học GDTC.
Kết quả phỏng vấn về biểu hiện chú ý của sinh viên HVAN
trong giờ học GDTC.
Kết quả phỏng vấn về biểu hiện sự nỗ lực ý chí của sinh viên
HVAN trong giờ học GDTC.
Kết quả phỏng vấn về biểu hiện bằng hành vi của sinh viên
HVAN với môn học GDTC.

Kết quả phỏng vấn sinh viên về nguyên nhân ảnh hƣởng đến
tính tự giác tích cực của sinh viên HVAN.
Kết quả phỏng vấn giáo viên về nguyên nhân ảnh hƣởng đến
tính tự giác tích cực của sinh viên HVAN.
Kết quả phỏng vấn xác định nguyên tắc lựa chọn biện pháp

10

Bảng 3.1

nâng cao tính tự giác, tích cực trong giờ học GDTC của sinh
viên HVAN.

11

Bảng 3.2

12

Bảng 3.3


13

Bảng 3.4

Kết quả phỏng vấn lựa chọn biện pháp nâng cao tính tự giác,
tích cực trong giờ học GDTC của sinh viên HVAN.
Phân phối chƣơng trình (Dành cho sinh viên hệ chính quy
HVAN)
So sánh tiêu chí về xúc cảm, chú ý, ý chí và hành vi của sinh
viên đối với môn học GDTC của Nhóm thực nghiệm và

Trang


Nhóm đối chứng, trƣớc thực nghiệm.
14

Bảng 3.5

So sánh kết quả học tập môn học GDTC của Nhóm thực
nghiệm và Nhóm đối chứng, trƣớc thực nghiệm.
So sánh tiêu chí về xúc cảm, chú ý, ý chí và hành vi của sinh

17

Bảng 3.6

viên đối với môn học GDTC của Nhóm thực nghiệm và
Nhóm đối chứng, sau thực nghiệm.


Bảng 3.7

Bảng 3.8

So sánh kết quả học tập môn học GDTC của Nhóm thực
nghiệm và Nhóm đối chứng ở thời điểm sau thực nghiệm
Kết quả kiểm tra thể lực của 2 nhóm đối chứng và thực
nghiệm
Đối chiếu và so sánh nhịp tăng trƣởng về tiêu chí về xúc

Bảng 3.9

cảm, chú ý, ý chí và hành vi của sinh viên đối với môn học
GDTC của Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối chứng, trƣớc và
sau thực nghiệm
Đối chiếu và so sánh nhịp tăng trƣởng về kết quả học tập

Bảng 3.10

môn học GDTC của Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối
chứng, trƣớc và sau thực nghiệm
Đối chiếu và so sánh nhịp tăng trƣởng về trình độ thể lực của

Bảng 3.11

Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối chứng, trƣớc và sau thực
nghiệm
Nhịp tăng trƣởng về tiêu chí về xúc cảm, chú ý, ý chí và


Biểu đồ 3.1 hành vi của sinh viên đối với môn học GDTC của Nhóm
thực nghiệm và Nhóm đối chứng
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ 3.4

Nhịp tăng trƣởng kết quả học tập môn GDTC của
Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối chứng, sau thực nghiệm
Nhịp tăng trƣởng thể lực của các nam sinh viên của
Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối chứng, sau thực nghiệm
Nhịp tăng trƣởng thể lực của các nữ sinh viên của
Nhóm thực nghiệm và Nhóm đối chứng, sau thực nghiệm


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục thể chất (GDTC) trong trƣờng Đại học là một mặt giáo dục
quan trọng không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần
thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân lực, đào tạo nhân tài
cho đất nƣớc, cũng nhƣ để mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ có điều kiện phát
triển cao về trí tuệ, cƣờng tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức để đáp ứng nhu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của đất nƣớc.
Từ trƣớc đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn luôn coi trọng công tác
GDTC và hoạt động Thể dục thể thao (TDTT) trong trƣờng học các cấp. Hiến
pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 quy định: “Việc dạy và
học thể dục là bắt buộc trong nhà trƣờng”. Chỉ thị 36 CT của Ban bí thƣ Trung
ƣơng Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới đã nêu: “Thực hiện Giáo
dục thể chất trong tất cả các trƣờng học, làm cho việc tập luyện thể dục thể thao
trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, SV. Thực hiện các nhiệm

vụ xây dựng con ngƣời và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tƣởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cƣờng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, có trình độ làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện
đại, có tƣ duy sáng tạo và có sức khoẻ. Cần coi trọng nâng cao chất lƣợng Giáo
dục thể chất trong trƣờng học...”.
Trong một số năm gần đây, việc đổi mới hình thức tổ chức, quản lý,
phƣơng pháp dạy và học môn GDTC nói riêng đã đạt đƣợc những kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của nhà trƣờng về
yếu tố cơ sở vật chất, nguồn nhân lực... và một số điều kiện khách quan khác,
hiệu quả của các giờ học chính khoá đối với môn học GDTC vẫn còn nhiều
hạn chế. Mặc dù GDTC từ lâu đã trở thành môn học chính thức, bắt buộc
trong chƣơng trình các cấp học, ngành học, nhƣng cho đến nay vẫn còn bị coi
nhẹ. Chƣơng trình môn học chƣa thực sự hợp lý, chƣa phù hợp và đáp ứng


đƣợc yêu cầu của tuổi trẻ học đƣờng, cơ sở vật chất, dụng cụ và sân bãi còn
nghèo nàn và thiếu thốn, sân bãi tập luyện chật hẹp và ngay sát các lớp học
ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng giờ học thể dục, đội ngũ cán bộ giáo
viên có nơi vẫn còn thiếu về số lƣợng và yếu về chất lƣợng; một bộ phận
không nhỏ học sinh có ý thức rèn luyện TDTT chƣa cao, chƣa thực sự tự giác
tích cực trong các giờ học thể dục.
Học viện An ninh nhân dân cũng nằm trong tình trạng chung đó. Công
tác GDTC đôi khi vẫn còn mang tính hình thức, việc đầu tƣ trang thiết bị cơ
sở vật chất chƣa tạo đƣợc điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lƣợng
dạy học thể hiện ở các thiết bị, dụng cụ tập luyện, nhà tập, sân bãi còn thiếu.
Quy trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức các hình thức luyện tập chƣa hợp lý,
phƣơng pháp dạy học còn đơn điệu thiếu sinh động chƣa gây hứng thú học tập
cho học sinh, nhiều học sinh coi giờ học thể dục nhƣ giờ vui chơi nên không
chú tâm luyện tập. Kết quả khảo sát trong các giờ học GDTC cho thấy vẫn
còn nhiều học sinh có thể lực chung rất hạn chế làm ảnh hƣởng tới kết quả

học tập của các em.
Trong thời gian qua, đã có một số tác giả nghiên cứu, đề cập tới những
khía cạnh khác nhau của công tác GDTC trong trƣờng học nhƣ: Phạm Đình
Bẩm, Đỗ Hữu Trƣờng (2005), Đồng Văn Triệu (2006), Nguyễn Viết Kiên
(2010), Nguyễn Thị Nhung (2011), Vũ Văn Thanh (2011). Tuy nhiên các tác
giả mới chỉ đề cập đến các vấn đề phát huy tính tích cực của SV trong giảng
dạy môn Bắn súng, phát huy tính tích cực của SV trong giảng dạy môn lý luận,
ứng dụng phƣơng pháp dạy học phát huy tính tích cực của ngƣời học trong
giảng dạy thực hành môn Thể Dục cho học sinh trƣờng THPT, ... Tuy nhiên
chƣa có tác giả nào đề cập đến việc nâng cao hiệu quả tính tự giác, tích cực
của SV Học viện An ninh nhân dân
Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên
cứu biện pháp nâng cao tính tự giác, tích cực trong giờ học giáo dục thể
chất cho sinh viên Học viện An ninh nhân dân”


2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động học tập môn
GDTC, phân tích và tìm hiểu các nhân tố ảnh hƣởng tới tính tự giác, tích cực;
đề tài lựa chọn một số biện pháp nâng cao tích tự giác, tích cực trong giờ học
GDTC cho sinh viên Học viện An ninh nhân dân qua đó góp phần nâng cao
chất lƣợng đào tạo trong trƣờng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài xác định các nhiệm vụ cụ thể
sau:
Nhiệm vụ 1: Thực trạng tính tự giác, tích cực trong giờ học GDTC của
sinh viên Học viện An ninh nhân dân
Nhiệm vụ 2: Lựa chọn và ứng dụng biện pháp nâng cao tích tự giác,
tích trong giờ học GDTC cho sinh viên Học viện An ninh nhân dân
4. Khách thể và Đối tƣợng nghiên cứu:

4.1. Khách thể nghiên cứu
Giảng viên GDTC, sinh viên Học viện An ninh nhân dân,…
4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Biện pháp nâng cao tính tự giác, tích cực trong giờ học giáo dục thể
chất cho sinh viên Học viện An ninh nhân dân.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tính tự giác, tích cực trong giờ học giáo dục thể chất cho sinh viên Học
viện An ninh nhân dân.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng những phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
Đây là phƣơng pháp đƣợc sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu.
Trong phạm vi của đề tài phƣơng pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu vấn đề
liên quan tới tính tự giác, tích cực cũng nhƣ các yếu tố ảnh hƣởng tới tính tự


giác, tích cực khi học môn GDTC. Qua đó phân tích và lựa chọn các biện
pháp nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực cho học sinh trong giờ học GDTC.
Phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan còn là cơ sở để giúp chúng tôi
lựa chọn các phƣơng pháp nghiên cứu và bàn luận kết quả nghiên cứu. Trong
đề tài chúng tôi đã tiến hành tham khảo tài liệu bao gồm các văn kiện của
Đảng và Nhà nƣớc về TDTT, các chỉ thị, thông tƣ, các chế độ, chính sách đối
với TDTT, các hồ sơ lƣu trữ về TDTT và một số luận văn cao học.
6.2. Phương pháp phỏng vấn, tọa đàm
Sử dụng phƣơng pháp này nhằm thu thập các tƣ liệu nghiên cứu thông
qua phỏng vấn gián tiếp bằng phiếu hỏi các khách thể nghiên cứu. Các lĩnh
vực mà đề tài quan tâm là: Làm thế nào để nâng cao tính tự giác tích cực
trong giờ học thể dục? Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn hai đối tƣợng: các
giáo viên TDTT, các cán bộ có liên quan trực tiếp đến phong trào TDTT

trong và ngoài nhà Học viện (tổng số là 30 ngƣời); sinh viên Học viện An
ninh nhân dân trực tiếp học môn GDTC.
6.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Tổ chức quan sát sƣ phạm ngay tại học viện, thông qua phƣơng pháp
quan sát sƣ phạm để đánh giá tính tự giác, tích cực, hăng hái, hay thụ động,
thờ ơ của sinh viên Học viện An ninh nhân dân trong giờ học chính khoá. Kết
quả của phƣơng pháp này đƣợc coi là những cơ sở thực tiễn để đề xuất, lựa
chọn các biện pháp phù hợp.
6.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong giai đoạn nghiên cứu ban đầu và
giai đoạn thực nghiệm sƣ phạm để kiểm tra đánh giá tính tự giác, tích cực
trong giờ học GDTC, kết quả thi kết thúc học phần và thể lực chung của đối
tƣợng nghiên cứu bao gồm:
- Các tiêu chí đánh giá tính tự giác, tích cực trong giờ học GDTC cụ
thể:
+ Biểu hiện ở xúc cảm học tập


+ Biểu hiện chú ý trong giờ học
+ Biểu hiện sự nỗ lực ý chí
+ Biểu hiện bằng hành vi
+ Biểu hiện ở kết quả lĩnh hội (Kết quả thi kết thúc học phần và thể
lực)
Các chỉ tiêu đánh giá thể lực:đƣợc lựa chọn từ bộ tiêu chuẩn đánh giá
thể lực trong lực lƣợng công an nhân dân(theo Thông tƣ 24/2013/TT-BCA
rèn luyện thể lực trong Công an nhân dân, bắt buộc dành cho cán bộ chiến sỹ
tuổi từ 18 đến 45 với nam và 18 đến 35 đối với nữ) bao gồm:
Nam

Nữ


1. Chạy 100m (s)

1. Chạy 100m (s)

2. Chạy 1500m (s)

2. Chạy 800m (s)

3. Bật xa tại chỗ (cm)

3. Bật xa tại chỗ (cm)

4. Co tay xà đơn (sl)
Mục đích, cách thức thực hiện của từng test nhƣ sau:
* Test chạy 100m(s)
-

Mục đích: Đánh giá tố chất sức nhanh của sinh viên.

-

Dụng cụ đo: Đồng hồ bấm giây chính xác đến 1% giây, cờ phát lệnh
Trƣớc khi vào kiểm tra, phổ biến cho sinh viên biết cách thực hiện bài

kiểm tra, phân công giáo viên ở các vị trí kiểm tra . Hƣớng dẫn sinh viên khởi
động chung và khởi động chuyên môn thật kỹ để tránh xảy ra chấn thƣơng và
khi đó mới phát huy đƣợc tốc độ cao nhất. Mỗi đợt kiểm tra hai ngƣời ở hai
đƣờng chạy , mỗi ngƣời kiểm tra một lần.
- Phƣơng pháp tiến hành: Từ vạch xuất phát với tƣ thế xuất phát thấp,

khi có cờ lệnh xuất phát, sinh viên nhanh chóng rời vạch xuất phát chạy
nhanh về phía trƣớc, qua vạch đích.
Khi đến đích, ngƣời kiểm tra bấm đồng hồ và ghi thể tích của ngƣời đó.
Qua mỗi lần kiểm tra , đồng hồ trả về số 0.


* Test bật xa tại chỗ (cm)
- Mục đích: Nhằm đánh giá sức mạnh bột phát của sinh viên.
- Dụng cụ: Thƣớc dây chính xác đến cm.
- Phƣơng pháp tiến hành: Ngƣời thực hiện kiểm tra đứng chụm hai chân
hoặc hai chân đứng rộng bằng vai, gối chùng kết hợp với đƣa hai tay về
phía trƣớc, ra sau đồng thời đánh mạnh về phía trƣớc cùng sức bật của
chân.
Mỗi sinh viên thực hiện 3 lần, lấy thành tích cao nhất.
- Cách xác định thành tích: Đo từ vạch của ván dậm nhẩy đến điểm rơi
gần nhất của cơ thể
c. Test co tay xà đơn :
- Mục đích: Đánh giá sức mạnh của tay cùng với sự kết hợp của toàn
thân.
- Phƣơng pháp tiến hành: Ngƣời thực hiện ở tƣ thế treo tay trên xà đơn, 2
bàn tay nắm xà(CÓ thể tay úp hoặc ngửa) sau đó thực hiện kéo xà, sao cho
khi co tay, cằm cao ngang bằng tay xà thì đƣợc tính là một lần kéo và cứ
nhƣ vậy thực hiện kéo cho đến khi không thực hiện đƣợc nữa thì thôi.
- Thành tích đƣợc tính bằng số lần kéo xà cuối cùng đúng yêu cầu.
Mỗi sinh viên thực hiện 1 lần.
d. Test chạy 1500m (nam) và 800m(nữ):
- Mục đích : Nhằm đánh giá sức bền của sinh viên. Đồng thời đánh giá
năng lực làm việc của hệ thống hô hấp, tim mạch.
- Cách tiến hành: sinh viên đƣợc kiểm tra dung hết sức chạy hết cự ly qui
định. Thành tích là thời gian đƣợc tính từ khi bắt đầu chạy đến khi về đích.

Thành tích tính dựa trên tiêu chuẩn:” chiến sĩ công an khỏe”.
- Dụng cụ đo: Đồng hồ điện tử
6.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Để khẳng định tính khoa học và hiệu quả của các biện pháp đề ra chúng
tôi đã tiến hành thực nghiệm sƣ phạm trên hai nhóm: Nhóm thực nghiệm và


nhóm đối chứng. Đối tƣợng thực nghiệm là sinh viên Học viện An ninh nhân
dân
Hai nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng đƣợc chia một cách ngẫu
nhiên. Chƣơng trình thực nghiệm đƣợc kéo dài trong gần 1 học kỳ.
Trong thời gian thực nghiệm chúng tôi luôn tuân thủ những điều kiện
cơ bản cần thiết nhƣ nhau giữa hai nhóm nhƣ:
- Đối tƣợng thực nghiệm có cùng dấu hiệu nhận biết về Lứa tuổi, hình
thái, chức năng cơ thể và đặc biệt là trình độ vận động.
- Điều kiện thực nghiệm tƣơng đối đồng nhất, giống nhau. Nhƣ sân tập,
dụng cụ, giáo viên giảng dạy, phƣơng pháp tập luyện, thời gian luyện tập.
Chỉ có một điều kiện khác nhau giữa hai nhóm, trong đó nhóm đối chứng vẫn
tiến hành lên lớp nhƣ bình thƣờng, còn nhóm thực nghiệm đƣợc áp dụng các
biện pháp nâng cao tính tự giác, tích cực do chúng tôi đƣa ra.
6.6. Phương pháp thống kê toán học
Để xử lý đƣợc các số liệu sẽ thu thập đƣợc trong quá trình nghiên cứu.
Đề tài dự kiến sẽ tiến hành sử dụng các công thức tính số trung bình cộng,
phƣơng sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến sai, công thức tính tQS, tĐC và công thức
tính nhịp độ tăng trƣởng.
7. Tổ chức nghiên cứu.
7.1. Thời gian nghiên cứu
Giai đoạn 1: Từ 10/2016 đến 11/2016: Đọc tài liệu tham khảo, xác định
hƣớng và lựa chọn tên đề tài, xây dựng đề cƣơng và kế hoạch nghiên cứu,
bảo vệ đề cƣơng nghiên cứu.

Giai đoạn 2: Từ 12/2016 đến 02/2017: Hoàn thiện cơ sở lý luận của đề
tài, đánh giá thực trạng tính tự giác, tích cực trong giờ học GDTC của sinh
viên Học viện An ninh nhân dân; lựa chọn đƣợc các biện pháp nâng cao tính
tự giác, tích cực trong giờ học GDTC cho sinh viên Học viện An ninh nhân
dân.


Giai đoạn 3: Từ 02/2017 đến 06/2017: Xử lý xong số liệu nghiên cứu,
hoàn thiện đề tài và báo cáo tóm tắt, bảo vệ thành công trƣớc hội đồng khoa
học.
7.2. Địa điểm nghiên cứu:
- Học viện An ninh nhân dân
- Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
8. Những đóng góp mới của đề tài:
Đánh giá đƣợc thực trạng tính tự giác, tích cực trong giờ học GDTC
của sinh viên Học viện An ninh nhân dân.
Lựa chọn đƣợc các biện pháp nâng cao tính tự giác, tích cực trong giờ
học GDTC cho sinh viên Học viện An ninh nhân dân.


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC THỂ
CHẤT TRONG TRƯỜNG HỌC
1.1.1. Quan điểm đƣờng lối của Đảng và nhà nƣớc về Giáo dục thể
chất
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, cũng nhƣ trong sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc ta hiện nay, thực hiện tƣ tƣởng
chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, Đảng và nhà nƣớc ta không ngừng tạo điều kiện để
biến học thuyết phát triển con ngƣời toàn diện thành hiện thực.
Chỉ thị 36 CT/TW ngày 24/03/1994 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng

(khoá VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục & Đào tạo và Tổng cục TDTT
thƣờng xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC. Cải tiến chƣơng
trình giảng dạy, tiêu chuẩn RLTT, đào tạo giáo viên TDTT cho trƣờng học
các cấp, tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC
bắt buộc ở tất cả các trƣờng học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp
sống hằng ngày của hầu hết học sinh - sinh viên, qua đó phát hiện và tuyển
chọn đƣợc nhiều tài năng thể thao cho đất nƣớc [6].
Hiến pháp nƣớc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Năm 1992 tại điều
41 quy định: "Nhà nƣớc thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định
chế độ GDTC bắt buộc trong trƣờng học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các
hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để
không ngừng mở rộng các hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dƣỡng các tài
năng thể thao".
Luật Giáo dục đƣợc Quốc hội khoá IX, nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩaViệt Nam thông qua ngày 02/12/1998 và Pháp lệnh TDTT đƣợc Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội thông qua tháng 09/2000 quy định: Nhà nƣớc coi trọng
TDTT trƣờng học, nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh
thiếu niên và nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với SV đƣợc
thực hiện theo hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học. TDTT


trƣờng học bao gồm việc tiến hành chƣơng trình GDTC bắt buộc và tổ chức
hoạt động TDTT ngoại khoá cho ngƣời học. Nhà nƣớc khuyến khích và tạo
điều kiện cho học sinh, sinh viên đƣợc tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm
lứa tuổi và điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân
lực, bồi dƣỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa [12].
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: Giáo dục - Đào tạo cùng với
khoa học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, chuẩn bị tốt

hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI. Đồng thời khẳng định “Sự cường
tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, là vốn quý để tạo ra tài
sản, trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách
nhiệm của toàn xã hội của các cấp, các ngành, các đoàn thể...” [10].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định mục
tiêu tổng quát của chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội từ năm 2000 đến 2010
là “...Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân...” [11].
Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23/10/2002 của Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng
nêu rõ "...Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, đảm bảo mỗi trường học
đều có giáo viên TDTT, tăng cường đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực
TDTT" [8].
Để tạo điều kiện thuận cho sự phát triển sự nghiệp thể thao nƣớc nhà,
Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy
hoạch ngành TDTT, trong đó ghi rõ: "Ngành TDTT phải xây dựng định
hướng có tính chất chiến lược, trong đó quy định các môn thể thao và các
hoạt động mang tính phổ cập đối với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành phong
trào tập luyện rộng rãi của quần chúng, khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"
[7].


Bộ Giáo dục và đào tào đã kịp thời có những chỉ thị, quyết định chỉ đạo
thực hiện công tác giáo dục thể chất trong trƣờng học, nhƣ việc ban hành Quy
chế Giáo dục thể chất và Y tế trƣờng học trong nhà trƣờng các cấp Theo
quyết định số: 14/2001 ngày 03 tháng 5 năm 2001, Bộ tiếp tục khẳng định vị
trí vai trò Giáo dục thể chất là hoạt động giáo dục bắt buộc nhằm giáo dục,
bảo vệ và tăng cƣờng sức khoẻ, phát triển thể chất góp phần hình thành và bồi
dƣỡng nhân cách đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên.
Gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo - Uỷ ban thể dục thể thao thống nhất
ban hành Thông tƣliên tịch số 34/2005/TTLT-BGD& ĐT-UBTDTT ngày

29/12/2005, hƣớng dẫn phối hợp quản lý và chỉ đạo công tác thể dục thể thao
trƣờng học giai đoạn 2006 - 2010, xác định "Thể thao trường học là một bộ
phận đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức khoẻ và thể lực, bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho học sinh, SV góp phần đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển TDTT trường
học theo hướng đổi mới và nâng cao chất lượng giờ học GDTC nội khoá, đa
dạng hoá các hình thức hoạt động ngoại khoá, đồng thời tổ chức chặt chẽ
việc kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đối với người học...".
Luật Thể dục, thể thao đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 mục 2 điều 20 quy định
Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chƣơng trình giáo dục nhằm
cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho ngƣời học thông qua các bài
tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện
[15].
1.1.2. Giáo dục con ngƣời toàn diện theo quan điểm Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới và đƣợc thế
giới công nhận danh hiệu anh hùng giải phóng dân tộc. Suốt đời Bác đã hy
sinh vì độc lập dân tộc, lãnh đạo tài tình cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thành công. Bác là ngƣời
trung thành với học thuyết Mác – Lênin. Trong chỉ đạo công tác cách mạng


và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Bác cũng rất quan tâm đến công tác
TDTT, coi đó là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản Chủ
nghĩa cho thanh niên.
Tháng 3 năm 1941, trong chƣơng trình cứu nƣớc của mặt trận Việt
Minh, Bác Hồ đã nêu rõ: “Khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm
cho nòi giống thêm khỏe mạnh” và ngay sau khi giành chính quyền tháng 8
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe của
nhân dân. Trong lời kêu gọi toàn dân tập GDTC tháng 3 năm 1946 Ngƣời

khẳng định vị trí của sức khoẻ trong chế độ mới: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công.
Mỗi người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt, mỗi người dân khoẻ
mạnh tức là làm cả nước mạnh khoẻ". Và vì thế "luyện tập thể dục, bồi bổ sức
khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước" [16].
Trong thƣ gửi Hội nghị Cán bộ thể dục thể thao toàn Miền Bắc ngày 31
tháng 03 năm 1960 Bác đã dạy: "Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học
tập tốt, thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường xuyên luyện thể
dục thể thao. Vì vậy, chúng ta nên phát triển phong trào thể dục thể thao rộng
khắp". Đồng thời Bác còn căn dặn: "Cán bộ thể dục thể thao phải học tập
chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công tác" nhằm phục vụ sức khoẻ
nhân dân. Về vị trí của TDTT trong xã hội, Ngƣời khẳng định: "…là một
trong những công tác cách mạng khác" [16].
Tƣ tƣởng bao trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền
TDTT mới của nƣớc ta là: Sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác
TDTT là nhu cầu khách quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi
ngƣời dân yêu nƣớc. Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ tăng cƣờng sức
khỏe của nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cƣờng nƣớc
thịnh. Những ý tƣởng đó đƣợc xuyên suốt trong các văn kiện, bài viết của
Bác.


1.1.3. Giáo dục thể chất là một mặt của mục tiêu giáo dục toàn
diện
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có tri thức, có đạo đức
và hoàn thiện thể chất. Trong các trƣờng Đại học - Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp, giáo dục thể chất cho học sinh - sinh viên đƣợc coi là một mặt
giáo dục, vừa là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bồi dƣỡng thế hệ trẻ trở
thành những con ngƣời phát triển toàn diện, có sức khỏe dồi dào, có thể

chất cƣờng tráng, có dũng khí kiên cƣờng để kế tục sự nghiệp của Đảng
và nhân dân một cách đắc lực. Cùng với các mặt hoạt động khác, quá
trình giáo dục thể chất giúp cho học sinh – sinh viên hoàn thiện nhân cách
và các phẩm chất khác, nhằm đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống và nghiệp vụ
chuyên môn.
Các Mác và Ăng ghen đã chứng minh sự phát triển của giáo dục phụ
thuộc vào điều kiện sống vật chất, khám phá ra bản chất xã hội, bản chất giai
cấp, đồng thời còn chỉ ra rằng trong xã hội chủ nghĩa cộng sản tƣơng lai con
ngƣời phát triển toàn diện là một tất yếu khách quan, bởi vì đó là nhu cầu của
xã hội. Nhấn mạnh vấn đề này Mác đã viết: “...kết hợp lao động sản xuất với
trí dục và thể dục...”. Đó không những là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất
của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con ngƣời toàn diện [5].
Lênin tiếp tục đi sâu và phát triển sáng tạo học thuyết về giáo dục toàn
diện. Ngƣời nhấn mạnh “...thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái,
cần có thể thao lành mạnh, thể dục, bơi lội, tham quan, các bài tập thể lực,
những hứng thú phong phú về tinh thần: học tập, phân tích, nghiên cứu và cố
gắng phối hợp tất cả các hoạt động ấy với nhau” [5].
1.2. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC – CAO ĐẲNG
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nƣớc, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nƣớc. Vì vậy,


ngay từ khi giành đƣợc chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ
quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần
thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14 - NQTƢ về cải cách giáo dục
với tƣ tƣởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tƣ
tƣởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc
trƣởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục

kết hợp với lao động sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với xã hội. Tƣ tƣởng chỉ
đạo trên đƣợc phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế
qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam.
Giáo dục thể chất là một trong những nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp
đào tạo nguồn lực lao động có trí tuệ, năng lực phẩm chất chính trị, đạo đức,
sức khỏe của mọi thời đại. Đất nƣớc ta đang tiến hành Công nghiệp hóa - hiện
đại hoá nhằm mục tiêu mà Đảng - Nhà nƣớc đã định hƣớng trở thành một
quốc gia "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" sánh
vai ngang hàng với các nƣớc trong khu vực và thế giới. Ngay sau khi cách
mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Bác Hồ đã đề cập ngay sự cần thiết sức
khoẻ của nhân dân ta trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục "Việc gì cũng cần
có sức khoẻ mới thành công" [16]. Tƣ duy chiến lƣợc đó đã đƣợc thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và trong nhiều Chỉ thị của Ban
chấp hành TW Đảng, Chính phủ trong suốt quá trình xây dựng và phát triển
sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở nƣớc ta. Bƣớc vào thời kỳ phát triển mới trên
con đƣờng đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nƣớc mà Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã quyết định thì tƣ duy chiến lƣợc trở
thành vấn đề rất lớn lao bởi thể chất cƣờng tráng của nguồn lực lao động là
tiền đề để lao động phát triển kinh tế - xã hội, là tài sản của mỗi con ngƣời để
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc [10]. Tại nghị quyết TW2 khoá VIII Ban chấp
hành TW Đảng nhận định về GD - ĐT trong những năm qua đã có chuyển
biến tiến bộ cả về quy mô lẫn chất lƣợng, đào tạo ra một đội ngũ cán bộ có


chính trị đạo đức, có kiến thức khoa học công nghệ, có năng lực đáp ứng yêu
cầu xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên một trong những tồn
tại, yếu kém đã đƣợc Đảng chỉ ra là sức khoẻ và thể lực hầu hết trong thanh
niên ta còn yếu kém so với yêu cầu của lao động trong thời kỳ công nghiệp
hoá, thấp nhiều so với thanh niên lao động ở một số nƣớc trong khu vực.
Bƣớc vào thế kỷ 21, Đại hội Đảng IX (2001) quyết định chiến lƣợc

phát triển kinh tế - xã hội 2001 -2005 và định hƣớng đến 2025 càng đòi nguồn
lực con ngƣời phải có chất lƣợng cao ngang tầm thời đại. Công nghiệp hoá
nền kinh tế của thời đại xã hội văn minh lại càng không thể coi nhẹ vấn đề
sức khoẻ và thể trạng con ngƣời. Điều đó càng làm sâu sắc về quan điểm của
Đảng là "đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho phát triển: Đầu tƣ giáo dục thể
chất là đầu tƣ đào tạo toàn diện thế hệ con ngƣời mới có chất lƣợng cao của
nền công nghiệp hiện đại trong mối quan hệ cạnh tranh với các nền kinh tế ở
khu vực và thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) tiếp tục khẳng
định nhân tố con ngƣời lao động có kiến thức khoa học công nghệ, phẩm chất
chính trị, nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc và sự phát triển thể chất cƣờng
tráng. Con ngƣời vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển với chất lƣợng
đào tạo toàn diện mà Đảng - nhà nƣớc đã xác định là nhiệm vụ trung tâm của
sự nghiệp đổi mới [11].
Nhƣ vậy giáo dục thể chất đối với học sinh, sinh viên bao giờ cũng là
mối quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nƣớc. Bộ GD - ĐT đã đặt vấn đề GDTC
là một mặt không thể thiếu đƣợc trong chƣơng trình đào tào đội ngũ cán bộ
khoa học, cán bộ quản lý về kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, để phục vụ
nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội của đất nƣớc. Bộ GD - ĐT đã coi
trọng công tác GDTC cho học sinh, sinh viên và tổ chức triển khai các quy
hoạch, kế hoạch để đảm bảo các trƣờng học có chƣơng trình giảng dạy thống
nhất, có đội ngũ cán bộ giảng viên, thầy giáo đƣợc đào tạo chuyên ngành, có
cơ sở vật chất sân bãi phục vụ việc học tập TDTT và thi đấu thể thao không


chỉ trong hệ thống toàn quốc mà còn tham gia thi đấu quốc tế góp phần nâng
cao tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị, hoà bình với các SV quốc tế.
1.3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG
1.3.1. Mục đích
Góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT, quản lý

kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển hài hòa, có thể chất cƣờng tráng, đáp ứng
yêu cầu chuyên môn, nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao
động, sản xuất… của nền kinh tế thị trƣờng.
GDTC là một loại hình giáo dục, nên nó là một quá trình giáo dục có tổ
chức, có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
về TDTT. Điều đó có nghĩa là, GDTC cũng nhƣ các loại hình giáo dục khác, là
quá trình sƣ phạm với đầy đủ đặc điểm của nguyên tắc sƣ phạm, có vai trò chủ
đạo, tổ chức hoạt động của nhà sƣ phạm phù hợp với học sinh. GDTC bao gồm
hai mặt tƣơng đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dục kỹ năng, kỹ xảo) và
giáo dục tố chất thể lực (giáo dƣỡng thể chất). Trong hệ thống giáo dục nói
chung đặc trƣng của GDTC đƣợc gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục, mỹ
dục và giáo dục lao động.
Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khoẻ và phát triển thể lực, tiếp
thu những kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, còn có tác dụng chuẩn bị tốt
về mặt tâm lý và tinh thần của ngƣời cán bộ tƣơng lai. Đồng thời giúp họ hiểu
biết phƣơng pháp khoa học để tiếp tục rèn luyện thân thể, củng cố sức khoẻ, góp
phần tổ chức xây dựng phong trào TDTT trong nhà trƣờng.
1.3.2. Nhiệm vụ
Chƣơng trình GDTC trong các trƣờng ĐH nhằm giải quyết các nhiệm
vụ:
- Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa. Rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ
chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác


học tập và rèn luyện thân thể, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ
quốc.
- Cung cấp cho SV những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và
phƣơng pháp luyện tập TDTT, kỹ năng vận động, kỹ thuật cơ bản một số môn
thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó bồi dƣỡng khả năng sử dụng các phƣơng
tiện để tự rèn luyện, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ các hoạt

động TDTT của nhà trƣờng và xã hội.
- Góp phần duy trì và củng cố sức khỏe của SV, phát triển cơ thể một cách
hài hòa, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu
(nghiện rƣợu, hút thuốc lá), rèn luyện thân thể đạt những chỉ tiêu thể lực quy
định cho từng đối tƣợng và năm học trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo
lứa tuổi.
1.3.3. Hình thức giảng dạy
Nội dung chƣơng trình GDTC trong các trƣờng Đại học và Cao đẳng
đƣợc tiến hành trong cả quá trình học tập của học sinh - sinh viên trong nhà
trƣờng bằng các hình thức:
- Giờ học TDTT chính khoá: Là hình thức cơ bản nhất của GDTC đƣợc
tiến hành trong kế hoạch học tập của nhà trƣờng. Đào tạo cơ bản về thể chất,
thể thao cho SV là nhiệm vụ cần thiết, trƣớc hết chƣơng trình phải có cấu trúc
nội dung thích hợp để phát triển các tố chất thể lực và phối hợp vận động cho
SV. Đồng thời, giúp các em có trình độ nhất định để tiếp thu đƣợc các kỹ
thuật động tác GDTC theo chƣơng trình.
Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao
trong trƣờng học là: "Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong
thể chất và thể thao của học sinh, phát triển các tố chất thể lực, phát triển
năng lực tâm lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức
tính cơ bản và lòng nhân đạo cho học sinh".
Do vậy, giờ học chính khoá môn học GDTC mang tính hành chính
pháp quy, quy định đối với SV và cán bộ giảng dạy. Đó là, giờ học theo


chƣơng trình có quy định thời gian và quy cách đánh giá chất lƣợng, đƣợc bố
trí theo kế hoạch và có sự kiểm tra giám sát của Nhà nƣớc. Giờ học chính
khoá đã đƣợc Luật Giáo dục cũng nhƣ Luật GDTC thể thao quy định bắt
buộc.
- Giờ học ngoại khoá - tự tập luyện TDTT: Là quá trình tập luyện của

một bộ phận học sinh - sinh viên có nhu cầu và ham thích trong thời gian
nhàn rỗi. Với mục đích phát triển năng lực thể chất một cách toàn diện, đồng
thời nâng cao thành tích thể thao của học sinh - sinh viên. Giờ học ngoại khóa
có tác dụng củng cố và hoàn thiện các bài học chính khoá và đƣợc tiến hành
vào giờ tự học của học sinh - sinh viên dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên
TDTT hay hƣớng dẫn viên TDTT. Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần
chúng ngoài giờ học bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các đội tuyển
của từng môn thể thao, các bài tập GDTC vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày,
cũng nhƣ giờ tự luyện tập của học sinh - sinh viên, phong trào tự rèn luyện thể
lực [3].
Hoạt động ngoại khoá còn có tác dụng động viên lôi kéo nhiều ngƣời
tham gia tập luyện các môn thể thao yêu thích và rèn luyện thể lực. Phong
trào rèn luyện thân thể vì ngày mai lập nghiệp và phong trào rèn luyện thân
thể theo gƣơng Bác Hồ vĩ đại do ngành TDTT và Bộ GD – ĐT phát động có
sức thu hút đông đảo học sinh - sinh viên tập luyện GDTC thể thao ngoài giờ
học.
1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TỰ GIÁC TÍCH CỰC CỦA
HỌC SINH TRONG GIÁO DỤC THỂ CHẤT
1.4.1. Bản chất của quá trình dạy học
Theo tác giả Phạm Viết Vƣợng: “Bản chất của quá trình dạy học là
quá trình nhận thức và thực hành của học sinh do giáo viên tổ chức và hướng
dẫn nhằm giúp học sinh nắm vững hệ thống kiến thức, hình thành và phát
triển năng lực thực hành sáng tạo” [31].


Đề tài nhận định: “Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức,
điều khiển hoạt động nhận thức của người học một cách có nề nếp”. Do đó,
quá trình giảng dạy GDTC cũng phải tuân theo quy luật của hoạt động nhận
thức, đảm bảo sự cân đối, thống nhất giữa yếu tố trực quan và trừu tƣợng,
giữa lý luận và thực hành. Khi xác định mục tiêu của giáo án, cần đặc biệt

quan tâm đến mục tiêu hình thành kiến thức và kỹ năng cho ngƣời học. Trong
việc lựa chọn phƣơng pháp và hình thức tổ chức giảng dạy, cần tăng cƣờng sử
dụng phƣơng pháp, hình thức tổ chức nhằm kích thích đƣợc sự chủ động, tự
giác, tích cực của học sinh, biến quá trình “được học” thành quá trình “tự
học”.
1.4.1.1. Dạy học là một quá trình hai chiều
Dạy - học là hoạt động đƣợc diễn ra dƣới sự lãnh đạo, tổ chức và điều
khiển của giáo viên. Ngƣời học tự giác, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ đề ra. Hoạt động dạy và
học có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó, thì việc
dạy- học không diễn ra. Ngƣời học chủ động tự giác, tích cực sẽ là động lực để
nâng cao hiệu quả học tập.
Giáo viên cần tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh một
cách khoa học để đạt tới mục tiêu dạy học. Khi ngƣời học chủ động, tự giác, tích
cực tham gia học tập sẽ giúp họ phát triển năng lực tƣ duy, sáng tạo, nghiên cứu
tìm tòi cách thức, phƣơng pháp học tập, tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động học
tập của mình.
1.4.1.2. Mục tiêu dạy học
“Quá trình dạy học có ba mục tiêu gắn bó chặt chẽ, có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Mỗi mục tiêu vừa là tiền đề vừa là hệ quả của các mục
tiêu khác - từ đó, tạo nên một vòng tròn khép kín để thực hiện mục đích giáo
dục tổng thể” [13, 17]. Mục tiêu của quá trình dạy học là giúp học sinh nắm
vững hệ thống kiến thức khoa học, cách thức luyện tập để hình thành hệ thống
kĩ năng, kĩ xảo - qua đó, hình thành thái độ tích cực đối với cuộc sống.


×