1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề án
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời
gian qua, ở nước ta, việc thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài đã đem lại những đóng góp quan trọng trong việc đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đã góp phần khai thác các nguồn lực
trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo ra những bước tiến có tính đột
phá trong việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo Cục Đầu tư
nước ngoài cho biết, tính đến cuối tháng 12 năm 2014 cả nước có 1.588 dự án
mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 15,64 tỷ USD, tăng 9,6% so với
cùng kỳ năm 2013.Trong đó, có 594 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,58 tỷ USD, bằng 62,4% so với cùng kỳ năm
2013, chủ yếu là các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với
774 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 14,49 tỷ
USD, chiếm 71,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Quảng Trị là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ, có vị trí địa lý thuận lợi, có
hệ thống giao thông thuận tiện cả về đường bộ và đường hàng không, với nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, nguồn lao động trẻ dồi dào, năng động
và là một thị trường có sức tiêu thụ hàng hoá khá cao, Quảng Trị được đánh giá là
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đối ngoại và hợp tác đầu tư.
Những thành tựu phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Trị trong những năm
qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm
mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm, góp
phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của
tỉnh và khu vực. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một
2
bộ phận kinh tế quan trọng của tỉnh, đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản
phẩm của tỉnh Quảng Trị.
Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém.
Như số lượng, quy mô cơ cấu dự án còn thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp và chế biến nông sản, thực phẩm số dự án thu được còn ít…
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ 2010-2015 đã đặt ra yêu
cầu: Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chính sách ưu đãi đầu
tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số
cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút
FDI đối với tỉnh trở thành vấn đề cấp bách. Nhận thức tầm quan trọng đó nên tôi
chọn: “Đề án thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tỉnh
Quảng Trị” làm đề án tốt nghiệp khóa học Cao cấp lý luận chính trị của mình.
2. Mục đích, ý nghĩa của đề án
2.1. Mục đích đề án
- Đề án làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, tính pháp lý của nguồn vốn FDI
ở tỉnh Quảng Trị và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn
FDI ở tỉnh Quảng Trị trong những năm tới (2015 - 2020).
- Đề án xây dựng sẽ góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Quảng Trị theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Ý nghĩa của đề án
- Đề án thu hút nguồn vốn FDI ở tỉnh Quảng Trị sẽ làm cơ sở cho công
tác xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện và chỉ đạo, điều hành của các cấp,
các nghành về huy động và sử dụng nguồn vốn.
- Đề án được phê duyệt là căn cứ để các cơ quan của tỉnh Quảng Trị xúc
tiến, vận động nguồn vốn FDI giai đoạn 2015 - 2020, là tài liệu để các nhà đầu
tư tham khảo khi xây dựng chiến lược đầu tư tại tỉnh Quảng Trị.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề án
3.1.
Đối tượng nghiên cứu của đề án
Đối tượng nghiên cứu đề án là hoạt động dự án có vốn FDI ở tỉnh Quảng Trị
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: hoạt động của dự án có vốn FDI trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
+ Thời gian: đánh giá thực trạng của các dự án FDI từ năm 2010 - 2014;
mục tiêu, phương hướng đến 2020.
4
PHẦN NỘI DUNG
1. Phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận của đề án
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước
ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn vốn đầu tư (tư bản - tiền) trên
phạm vi quốc tế và tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư vì mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận.
Theo Luật Đầu tư 29/2005/QH thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài (tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện đầu tư tại
Việt Nam) đưa vào Việt Nam vốn và tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt
động đầu tư và đồng thời trực tiếp quản lý, điều hành quá trình sử dụng vốn.
Hiện nay, tại Việt Nam có những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ
yếu sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức hợp doanh kiểu hợp đồng,
chủ đầu tư nước ngoài cung cấp tiền vốn, thiết bị, kỹ thuật. Nước sở tại cung
cấp tiền, địa điểm, nhà xưởng hiện có, trang thiết bị, sức lao động... Hai bên
cùng hợp tác sản xuất kinh doanh để phân chia lợi nhuận hoặc sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân mới.
- Doanh nghiệp liên doanh: Là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
thông qua pháp nhân mới thành lập. Đây là một dạng hợp tác của hai hay nhiều
tổ chức độc lập để thành lập một thực thể thứ ba tách rời khỏi các tổ chức kia.
Nói cách khác, doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp đuợc thành lập do các
chủ đầu tư nuớc ngoài góp vốn chung với các tổ chức cá nhân trong nước trên
cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp,
chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của tổ chức, cá nhân nước ngoài được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài.
Do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành
5
toàn bộ doanh nghiệp theo luật của nước sở tại. Tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh cũng như những rủi ro khác.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT): Nhà đầu tư tự
bỏ vốn, kỹ thuật để xây dựng công trình, tự khai thác kinh doanh công trình
một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó sẽ chuyển
giao cho nước sở tại. Hình thức này đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài
và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO): là hình thức
đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): là hình thức đầu tư được ký
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho
Nhà nước; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu
hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận
trong hợp đồng BT.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- FDI là hình thức đầu tư có tính khả thi và hiệu quả cao, không có những
ràng buộc về chính trị, không trở thành nợ (so với hình thức vay thương mại),
là vốn có tính chất bén rễ ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn.
Nước chủ nhà không phải đi vay mượn tiền nước ngoài mà do nhà đầu tư nước
ngoài tự bỏ vốn ra thành lập doanh nghiệp riêng hoặc hợp tác với các doanh
nghiệp trong nước để cùng kinh doanh. Lợi nhuận được chia theo tỷ lệ góp vốn
pháp định của các bên.
- FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư chuyển giao công nghệ và tri
thức kinh doanh nên nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy các ngành công
6
nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế. Đối với quốc gia nhận đầu tư, FDI trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư xã hội.
- FDI là công cụ khai thác triệt để các nguồn lực sản xuất của nước nhận đầu
tư, nâng cao tỷ suất lợi nhuận do tận dụng được lợi thế so sánh cho chủ đầu tư.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Đối với chủ đầu tư
Khi tiến hành đầu tư vào các nước đang phát triển, tư bản nước ngoài có
nhiều động cơ khác nhau: Tìm kiếm và khai thác nguyên liệu thô; kiếm và mở
rộng thị trường; nâng cao hiệu quả sản xuất; tranh thủ khuyến khích đầu tư của
các chủ nhà. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp của các nhà tư bản nước ngoài vào các
nước đang phát triển còn thể hiện trên một số mặt như là một biện pháp phân tán
rủi ro khi tình hình kinh tế chính trị trong nước bất ổn, giúp ổn định nền kinh tế ở
chính quốc, chống lạm phát cao và thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia, không
chỉ thuần tuý về kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị đối với các quốc gia khi muốn
các nước tiếp nhận đầu tư phải lệ thuộc một phần nhất định vào mình.
1.1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
- Những tác động tích cực:
+ FDI giải quyết vấn đề thiếu vốn, giúp nước sở tại tăng cường khai thác
vốn FDI để thực hiện công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế.
+ FDI giúp giải quyết tốt hơn những vấn đề kinh tế, xã hội như nạn thất
nghiệp nhờ sử dụng được nguồn lực lao động thừa tương đối ở các nước này.
+ FDI giúp các nước đang phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ, có cơ hội
gia nhập vào thị trường quốc tế, gia tăng xuất khẩu.
+ FDI tạo ra môi trường cạnh tranh mới là động lực kích thích nền kinh tế
tăng trưởng cả về lượng cũng như về chất.
+ Thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc thành lập những công ty
mới hoặc tăng quy mô các doanh nghiệp trong nước, góp phần thay đổi nhanh
chóng cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
7
+ Nhờ có FDI, các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng khai thác các tiềm
năng kinh tế, xã hội của nước mình với giá rẻ hơn do tiết kiệm được chi phí vận
chuyển và những lợi thế về lao động, về nguồn nguyên liệu rẻ hơn trong nước.
+ Cùng với việc cung cấp vốn FDI của các công ty đa quốc gia, các nước
tiếp nhận có nhiều cơ hội tiếp cận kỹ thuật tiên tiến.
- Những tác động tiêu cực:
FDI chỉ có thể phát huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị ổn
định và điều quan trọng là nước tiếp nhận đầu tư phải quản lý tốt hoạt động của
FDI. Nếu nước tiếp nhận đầu tư không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa
học thì dẫn tới sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác quá mức, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Có một xu hướng hiện nay là
một số các nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao công nghệ lạc hậu,
độc hại sang các nước đang phát triển vì bị kiểm soát gắt gao ở chính quốc.
Ngoài ra FDI còn một số mặt hạn chế:
+ Một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sự sơ hở của pháp luật trong
quản lý của các nuớc chủ nhà để trốn thuế, thực hiện các phương pháp để thu
lợi nhuận bất chính, gây thiệt hại đến lợi ích của nước tiếp nhận đầu tư.
+ Những bí quyết về công nghệ, kênh tiêu thụ, phân phối sản phẩm đều do
các công ty mẹ nắm giữ, và chỉ được chuyển giao rất “chậm rãi” cho nước sở
tại. Chính vì thế có một sự lệ thuộc nhất định của các nước tiếp nhận đầu tư vào
các công ty đa quốc gia nước ngoài.
+ FDI từ các công ty đa quốc gia có xu hướng đẩy các công ty nước sở tại
đi đến chỗ phá sản do các công ty này có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi
khi còn được những ưu đãi hơn những công ty trong nước.
+ Mục đích cao nhất của FDI là tối đa hoá lợi nhuận nên chủ đầu tư nước
ngoài chỉ đầu tư vào những ngành, những vùng có điều kiện thuận lợi để thu lợi
nhuận cao. Điều này dẫn đến cơ cấu đầu tư của các quốc gia không đồng đều,
mất cân đối.
+ Xét về góc độ khác, mục đích thu lợi nhuận cao của các công ty đa quốc
gia cũng phát sinh thêm mâu thuẫn xã hội ở các nước đang phát triển. Các công
8
ty đa quốc gia đẩy mạnh bóc lột, tăng cường độ lao động hoặc kéo dài thời gian
làm việc của người lao động làm mâu thuẫn vốn có trong xã hội gia tăng. Ngoài
ra, cá biệt còn có trường hợp một số nhà đầu tư nước ngoài hoạt động vì mục
đích chính trị, can thiệp vào chủ quyền quốc gia của các nước tiếp nhận đầu tư,
hoạt động tình báo, gây rối an ninh, trật tự.
1.1.4. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thu hút vốn
đầu tư nước ngoài
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật
chất - kỹ thuật còn yếu kém, cơ cấu kinh tế quốc dân mất cân đối, năng suất lao
động thấp, phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá chưa phát triển; đời
sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp,
thiếu vốn đầu tư, nhiều người chưa có việc làm.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức phong
phú, đa dạng. Chính sách đổi mới phát triển các thành phần kinh tế là một trong
bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền
kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được xem như một giải pháp
chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng
sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khoá VI chỉ rõ: “Trong điều kiện nước ta, các
hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài
cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi lên
chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, có sáu thành phần kinh tế,
tức là ngoài năm thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài; Đảng ta khẳng định “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải
thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”.
9
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên
sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhờ có chủ trương, chính sách đúng đắn về việc phát triển thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu
vực này đã có những bước phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế nước ta trong những năm qua.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX, Ban chấp hành Trung ương (Khoá IX)
nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến cơ bản trong thu thút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, hướng mạnh hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế nhất là những ngành, những lĩnh vực chúng ta tự làm chưa có hiệu quả,
kể cả trong lĩnh vực bất động sản, phát triển công nghệ cao và các dịch vụ có
giá trị tăng cao. Thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận
hữu cơ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: Các thành phần kinh tế:
Kinh tế Nhà nuớc, kinh tế tập thể, kinh tế như nhân (Cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân), kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nuớc ngoài hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng
như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu tư nước
ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp
với các cam kết quốc tế của nước ta”.
Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và
chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao”. Điều
này thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
10
1.2. Cơ sở pháp lý của đề án
Những thành tựu phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Trị trong những năm
qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm
mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm, góp
phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của tỉnh
và khu vực Miền trung. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành
một bộ phận kinh tế quan trọng của tỉnh, đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản
phẩm của tỉnh Quảng Trị.
- Căn cứ vào Luật đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005 do Quốc Hội ban hành
- Căn cứ Luật số 60/2005/QH11 về Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11
năm 2005;
Căn cứ Luật số 11/2003/QH 11 của Quốc hội: Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
- Căn cứ Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của
Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất nhập khẩu”;
- Căn cứ Nghị định số 23/2007/ NĐ-CP ngày 12/02/2007 của Chính Phủ
“Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các
hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”
- Căn cứ Nghị định số 70/2014/ NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính Phủ
“Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối”
- Căn cứ Luật số 67/2014/QH 13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 về Luật đầu tư;
- Căn cứ Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 25/8/2014 về “Một số giải pháp về
thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp”;
- Căn cứ Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 về “Một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường”;
11
- Căn cứ Quyết định số 1099/QĐ-UBND ngày 08 tháng 6 năm 2009 của
UBND tỉnh Quảng Trị về việc “Quy định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”;
- Căn cứ Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày 02/3/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Quảng Trị đến năm 2020”;
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI đến XI và các Nghị quyết của Đảng
từ 1986 - 2011
- Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV và các Nghị
quyết của Đảng bộ Tỉnh Quảng Trị; các Nghị quyết của HĐND tỉnh Quảng Trị;
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020; Kế hoạch đầu tư phát
triển 5 năm 2016-2020 của tỉnh Quảng Trị;
- Nguồn số liệu của Tổng Cục Thống kê, Cục Thống kê Quảng Trị, của
Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Trị; các Sở, Ban ngành, địa phương trong tỉnh.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI ở tỉnh Quảng Trị
1.3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Quảng Trị là tỉnh nằm trong vùng Bắc Trung bộ, có diện tích tự nhiên
4.746,9911 km2. Dân số trung bình năm 2010 có 601.672 người, chiếm 1,44%
diện tích và 0,76% dân số cả nước, mật độ dân số 126,7 người/km 2. Phía Bắc
giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp huyện Phong Điền và A
Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Đông giáp Biển Đông, phía Tây giáp tỉnh
Savanakhet và Salavan, nước CHDCND Lào.
Quảng Trị có lợi thế về địa lý - kinh tế, là đầu mối giao thông, nằm ở
trung điểm đất nước, ở vị trí quan trọng - điểm đầu trên tuyến đường huyết
mạch chính của hành lang kinh tế Đông - Tây nối với Lào - Thái Lan Mianmar qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển Miền Trung như:
Cửa Việt, Chân Mây, Đà Nẵng, Vũng Áng... Đây là điều kiện rất thuận lợi để
Quảng Trị mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận
tải quốc tế, phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch.
12
1.1.3.2. Về tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất đai: Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2013 của tỉnh
Quảng Trị, tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh có 474.699,11 ha. Các loại đất chia
theo mục đích sử dụng bao gồm: Đất nông nghiệp có diện tích là 301.993,75
ha, chiếm 63,62% tổng diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp có diện tích
có 41.421,31 ha, chiếm 8,73% tổng diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng còn
131.284,05 ha, chiếm 27,66% tổng diện tích đất tự nhiên.
Tài nguyên rừng: Năm 2013, toàn tỉnh có 220.797 ha đất lâm nghiệp có
rừng với tổng trữ lượng gỗ khoảng 11 triệu m 3. Rừng Quảng Trị có khoảng
1.053 loại thực vật thuộc 528 chi, 130 họ, trong đó có 175 loài cây gỗ. Động
vật rừng cũng khá phong phú và đa dạng. Hiện tại có khoảng 67 loài thú, 193
loài chim và 64 loài lưỡng cư bò sát (thuộc 17 họ, 3 bộ) đang sinh sống tại rừng
Quảng Trị. Diện tích rừng thông nhựa khoảng 25.000 ha, sản lượng khai thác
nhựa thông năm 2013 đạt hơn 2.000 tấn.
Tài nguyên biển: Quảng Trị có bờ biển dài 75 km với 2 cửa lạch quan trọng
là Cửa Việt và Cửa Tùng. Vùng lãnh hải đặc quyền kinh tế rộng trên 8.400 km 2,
ngư trường đánh bắt rộng lớn, khá giàu hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm hùm,
mực nang, cua, hải sâm, tảo và một số loài cá, san hô quý hiếm. Trữ lượng hải sản
vùng biển tỉnh Quảng Trị có khoảng 60.000 tấn. Khả năng khai thác hàng năm
khoảng 17.000 tấn. Diện tích vùng bãi bồi ven sông trên 4.000 ha, đặc biệt vùng
ven biển có khoảng 1.000 ha mặt nước và một số diện tích đất bị nhiễm mặn, đất cát
có khả năng chuyển đổi để phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản các loại. Với tiềm
năng tài nguyên biển, đảo đa dạng, Quảng Trị có điều kiện đẩy mạnh phát triển tổng
hợp kinh tế biển như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản; dịch vụ hậu cần nghề cá;
cảng hàng hóa và vận tải biển; du lịch sinh thái biển, đảo.
Tài nguyên nước: Trên địa bàn tỉnh có 03 hệ thống sông chính đổ ra
biển là Bến Hải, Thạch Hãn và Ô Lâu. Nước ngầm trong các tầng trầm tích và
phong hóa phát triển các địa hình núi thấp ven sông. Đây là nguồn cung cấp
nước khá quan trọng cho sản xuất và sinh hoạt. Nước trong tầng đất đỏ phong
hóa từ đá bazan có chất lượng tốt theo các chỉ tiêu hóa học... Nguồn nước này
13
rất có giá trị đối với nhân dân vùng miền núi.
Tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Quảng Trị khá
phong phú và đa dạng, đặc biệt là khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và
làm vật liệu xây dựng. Đây là điều kiện để tỉnh có thể phát triển mạnh công nghiệp
xi măng và vật liệu xây dựng. Hiện có, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 130 mỏ và
điểm khoáng sản, trong đó có 86 điểm, mỏ vật liệu xây dựng và nguyên liệu sản
xuất xi măng với các loại chủ yếu như đá vôi, đá sét và các chất phụ gia (như đá
bazan, quặng sắt), sét gạch ngói, cát cuội sỏi, cát thủy tinh, cao lanh... Ngoài ra còn
có các điểm, mỏ khoáng sản khác như vàng, titan, than bùn...
Tài nguyên du lịch: Quảng Trị có nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và
nhân văn khá phong phú, phân bố rộng khắp trên các địa bàn trong tỉnh và gần
các trục giao thông chính nên rất thuận lợi cho khai thác. Đặc biệt Quảng Trị có
hệ thống di tích chiến tranh cách mạng gắn liền với cuộc kháng chiến cứu nước
vĩ đại của dân tộc, như Thành cổ Quảng Trị, địa đạo Vịnh Mốc, di tích Hiền
Lương, Cồn Tiên, Dốc Miếu, đường mòn Hồ Chí Minh, Khe Sanh, Làng Vây,
nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn... Quảng Trị còn là bảo tàng sinh động nhất về
di tích chiến tranh cách mạng, đó là cơ sở để tạo sản phẩm du lịch hoài niệm về
chiến trường xưa độc đáo. Quảng Trị có bờ biển dài với những cảnh quan đẹp,
còn nguyên sơ với những bãi tắm nổi tiếng như Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thủy,
Triệu Lăng, Cồn Cỏ... để phát triển du lịch sinh thái biển. Quảng Trị có vị trí
đầu cầu trên hành lang kinh tế Đông - Tây, điểm kết nối giữa sản phẩm du lịch
Đông - Tây, Con đường di sản miền Trung và Con đường huyền thoại...
1.1.3.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong 3 gần đây đạt
7,5%, GDP bình quân đầu người đạt 26,8 triệu đồng năm 2013. Nhìn chung tốc độ
tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong những năm qua đạt mức khá, duy trì tương đối ổn
định qua các thời kỳ. Ngành công nghiệp - xây dựng tăng trưởng nhanh, đặc biệt
những năm gần đây. Kinh tế nông nghiệp vẫn duy trì được tăng trưởng khá ổn định.
Khu vực dịch vụ tăng khá, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
- Cơ sở hạ tầng - đô thị: Trong thời gian qua Quảng Trị đã tập trung nhiều
14
nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là nâng cấp và mở rộng mạng
lưới giao thông, điện lưới, thủy lợi, cấp nước, bưu chính viễn thông... tạo tiền đề cơ
bản và môi trường hạ tầng thuận lợi thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh
- Xã hội: Năm 2013 dân số trung bình của tỉnh là 613.655 người. Toàn
tỉnh có 136.743 hộ gia đình, bình quân 4,6 nhân khẩu/hộ. Dân số thành thị có
177.919 người, chiếm 28,99%. Trong cơ cấu dân số phân theo giới tính, nữ
chiếm 50,3%, nam chiếm 49,7%. Năm 2013 toàn tỉnh có 345.000 người trong
độ tuổi lao động, chiếm khoảng 56,2% dân số, số người trong độ tuổi lao động
tăng thêm bình quân mỗi năm khoảng 3.000 - 4.000 người. Đội ngũ lao động
được đào tạo, có chuyên môn kỹ thuật của tỉnh còn hạn chế. Số người đạt trình
độ từ sơ cấp, có chứng chỉ nghề trở lên chiếm 26% (trong đó cao đẳng, đại học
trở lên chiếm 4,4%; trung học chuyên nghiệp 5,9%; công nhân kỹ thuật có bằng
1,5%, công nhân kỹ thuật không bằng 8,3%, sơ cấp/chứng chỉ nghề 2,9%);
74% lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm; chủ yếu là lao động làm
việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp (năm 2013 chiếm tỷ lệ 55%);
Với các lợi thế so sánh và tiền đề nêu trên, ngày nay Quảng Trị đã và đang
là địa chỉ tin cậy, điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.3.2. Tình hình thu hút vốn FDI tỉnh Quảng Trị
Trên địa bàn tỉnh hiện có 14 dự án FDI được cấp phép với tổng vốn đầu tư là
49.99 triệu USD, trong đó có 9 dự án đang hoạt động. Từ năm 2010 đến năm 2013,
tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 06 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 22,57
triệu USD; tổng vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh trung
bình hàng năm là 5,6 triệu USD. Quy mô vốn đầu tư vào tỉnh Quảng Trị phần lớn các
dự án thuộc loại vừa và nhỏ dự án có quy mô vốn dưới 5 triệu USD có 10 dự án chiếm
76,9%; dự án có quy mô vốn từ 5-10 triệu có 4 dự án chiếm 23,1%. Cùng với việc thu
hút dự án còn chậm đi kèm với nó là quy mô đầu tư giảm dần. Tuy tỷ lệ FDI trong cơ
cấu vốn phát triển trên địa bàn tỉnh còn thấp (tỷ lệ FDI so với tổng vốn đầu tư toàn xã
hội từ năm 2010 - 2013, qua từng năm như sau: 1,49% - 0,71%- 1,54% -1,96%),
song nó đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong cơ cấu vốn đầu tư của
15
tỉnh. Trong đó, nguồn vốn đầu tư FDI của tỉnh hiện nay chủ yếu là ngành công nghiệp
- xây dựng chiếm 53,8%, ngành dịch vụ - du lịch chiếm 38,6% và ngành nông nghiệp
(thuỷ sản - nông lâm) chiếm 7,6%. Theo định hướng, công nghiệp chế biến và sản xuất
tiếp tục là lĩnh vực thu hút đầu tư trọng tâm của Quảng Trị thời gian tới.
Các đối tác nước ngoài đầu tư trực tiếp vào tỉnh chủ yếu là Thái Lan, Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Đặc biệt trong năm 2013, tỉnh Quảng Trị đã thu hút
được 2 dự án FDI từ Thái Lan và Australia. (Số liệu cụ thể được thể hiện ở bảng 1)
Bảng 1: Các dự án đầu tư FDI đang hoạt động tỉnh Quảng Trị
ST
T
Tên dự án/ Doanh nghiệp
Nước
đầu tư
Số vốn
đầu tư
(triệu
USD)
1
Nhà máy sản xuất nước
uống tăng lực Super Horse
(Công ty TNHH
Chaichareon Việt - Thái)
Thái
Lan
3,487
2
Nhà máy sản xuất săm lốp
xe máy (Công ty TNHH
Cao su Camel Việt Nam)
Thái
Lan
4,9
3
4
5
6
7
8
Lắp ráp xe lăn, đóng gói
nông sản và các thủ công
mỹ nghệ của công ty TNHH
Kids First
Dự án sản xuất tôm giống
tại tỉnh Quảng Trị của Công
ty TNHH Uni - President
Nhà máy sản xuất, chế biến
bột cá Hồng Đức Vượng
(Công ty TNHHMTV Hồng
Đức Vượng)
Trại nuôi tôm thẻ chân trắng
thương phẩm của Công ty
Cổ phần chăn nuôi Việt
Nam
Dự án Nhà máy sản xuất
dăm gỗ và chế biến lâm sản
của Công ty TNHH Shaiyoo
AA Thái Lan
Nhà máy chế biến và bảo
quản nông sản My Anh của
Công ty TNHH My Anh Khe Sanh
Ngành, lĩnh
vực đầu tư
Nước tăng
lực đóng lon,
khăn thơm,
nước trái cây
đóng chai
Công nghiệp,
chế biến, chế
tạo
Mục tiêu dự
án
9 triệu lon /
năm
Sản xuất xăm
lốp xe máy
Xe lăn cho trẻ
bại não: 2400
chiếc/ năm;
Giai công các
sản phẩm cơ
khí 1000
tấn/năm...
Sản xuất tôm
giống cung cấp
trên địa bàn
Hoa Kỳ
3
Công nghiệp,
chế biến, chế
tạo
Đài
Loan
2,5
Nuôi trồng
thủy hải sản
Trung
Quốc
5
Sản xuất, chế
biến bột cá
Sản xuất chế
biến bột cá
Thái
Lan
3
Nuôi trồng
thủy hải sản
Nuôi tôm xuất
khẩu
Thái
Lan
1,4
Công nghiệp
chế biến, chế
tạo
Sản xuất gỗ
dăm xuất khẩu
Australi
a
1,5
Chế biến bảo
quản nông
sản
27.000-36.000
tấn/năm
16
Dự án Khu chăn nuôi tôm
công nghiệp trên cát Triệu
Thái
9
7,5
An của Công ty Cổ phần
Lan
Chăn nuôi CP Việt Nam
Tổng cộng
29,452
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Trị
Nuôi trồng
thủy sản
Nuôi tôm
1.300 tấn/ năm
- Về hình thức đầu tư: Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng
Trị chủ yếu được đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm 88,9%;
chỉ có 2 dự án đầu tư dưới hình thức liên doanh (11,1%). Điều này chứng tỏ
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Quảng Trị còn thiếu tính đa dạng, chưa có các
hình thức đầu tư khác như hợp tác kinh doanh, liên doanh, hợp đồng xây dựng kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao…
- Về công nghệ: Một số doanh nghiệp cũng đã áp dụng công nghệ tiên
tiến để tạo ra sản phẩm, như Công ty TNHH Chaichareon Việt - Thái đã sử
dụng dây chuyền tự động để sản xuất nước tăng lực, Công ty TNHH Cao su
Camel cũng đã sử dụng công nghệ bán tự động. Tuy nhiên, vẫn chưa có các dự
án sử dụng công nghệ cao được đầu tư tại Quảng Trị.
- Về lao động: Các dự án đầu tư nước ngoài đang tạo việc làm trực tiếp cho
khoảng 900 (từ 2010 - 2013) lao động trong tỉnh, so với số việc làm ở các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hiện nay trên toàn tỉnh, thì khả năng tạo việc
làm trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn rất thấp.
Nhưng trong giai đoạn vừa qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu việc làm của
người lao động tại địa phương.
- Đóng góp vào tổng thu ngân sách trên địa bàn: Các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đóng góp một phần nhỏ, khoảng 3,4% tổng thu ngân
sách trên địa bàn của tỉnh, bình quân hàng năm từ 40 - 50 tỷ đồng (Con số này
là không lớn bởi vì các doanh nghiệp này đang trong thời gian được hưởng các
ưu đãi về thuế theo chính sách ưu đãi đặc biệt).
- Đóng góp của FDI vào kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh: Các doanh nghiệp
FDI đã góp phần tăng kim ngạch xuất nhập khẩu cho địa phương trong những năm
qua. Kim ngạch xuất khẩu của địa phương đạt 10 triệu USD trong giai đoạn 2001-
17
2005 và gấp năm trong giai đoạn 2006-2011 và đến năm 2013 đã ở mức 119 triệu
USD.
1.3.3. Đánh giá chung
1.3.3.1. Kết quả đạt được
Thu hút FDI là vấn đề mới mẻ trong điều kiện cán bộ còn hạn chế về sự
am hiểu pháp luật, ngoại ngữ… Nhưng nhờ những chủ trương đúng đắn, kịp
thời với sự chỉ đạo chặt chẻ của Tỉnh ủy, UBND cộng với sự phối hợp của các
ban ngành địa phương và hổ trợ của Trung ương tỉnh đã đạt được một số thành
tựu nhất định đo cũng là thành công
Hoạt động của các doanh nghiệp FDI những năm qua cho thấy: vốn FDI là
một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của, tác động
tích cực đến các thành phần kinh tế khác. Vốn FDI còn góp phần vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của tỉnh
Tỉnh đã thực hiện tốt công tác thu hút đầu tư từ nhiều nguồn vốn trong và
ngoài nước; tích cực quảng bá tiềm năng lợi thế của tỉnh đến các nước, hợp tác
tiếp xúc các nhà đầu tư nhằm thu hút đầu tư.
Tuy không bằng các trung tâm kinh tế khác trong khu vực, song ở Quảng
Trị đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở hạ tầng như hệ thống điện, đường, trường,
trạm, dịch vụ công, thông tin liên lạc, ngân hàng. Đặc biệt là các khu công
nghiệp tương đối hoàn chỉnh là đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp FDI có hiệu quả.
Trong những năm gần đây, việc thu hút có chọn lọc và theo định hướng
chung trong quy hoạch phát triển KT-XH của tỉnh nên đã thu hút nhiều dự án
FDI có công nghệ sạch, hiện đại.
Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực đầu tư đã có nhiều tiến bộ, cải
cách hành chính, phát huy cơ chế một cửa, tinh giảm các thủ tục rườm rà trong
trong các dự án đầu tư.
1.3.3.2. Tồn tại, hạn chế
Do các ngành kinh tế phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
18
chính khu vực, thị trường trong nước và quốc tế thu hẹp. Vốn đầu tư nước
ngoài giảm và triển khai chậm, vốn trong nước hạn chế và luôn thiếu hụt, cơ sở
hạ tầng tuy được cải thiện nhưng nhiều nơi trong tỉnh còn gặp khó khăn nên
chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc thu hút FDI.
Công tác quản lý chỉ đạo điều hành thiếu chặt chẽ, chậm đổi mới, trình
độ đội ngũ quản lý doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu năng động, hoạt động xúc
tiến đầu tư và thương mại kém hiệu quả.
Bên cạnh nhiều dự án đầu tư đã triển khai tốt, tạị tỉnh trong thời gian
qua, còn một số dự án triển khai rất chậm, thậm chí không triển khai mà các
nhà đầu tư không báo cáo rõ nguyên nhân. Song hiện nay nổi lên một số những
hạn chế trong lĩnh vực này như sau:
Sự phối hợp giải quyết giữa tỉnh, huyện, xã thiếu chặt chẽ, đôi lúc chưa
thống nhất với mục đích chính là kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Sự đền bù giữa
các dự án thiếu thống nhất, dự án trước gây khó khăn cho dự án sau, có dự án
nhận đất xây hàng rào nhưng để quá lâu không xây dựng theo giấy phép đầu tư,
mặt khác đối tác nước ngoài mặc dù đã cố gắng nhưng vẫn còn trì trệ do khủng
hoảng tiền tệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm khó khăn dẫn đến tiến độ triển khai
chậm.
Một số dự án, sau khi nhận giấy phép, triển khai chậm. Có công ty nhận
đất để quá lâu không xây dựng theo giấy phép đầu tư.
Việc tuyển lao động của nhiều Công ty nước ngoài chưa theo đúng quy
định của luật lao động và những quy định của tỉnh, do đó gây ra tình trạng lộn
xộn trong quản lý lao động, không tôn trọng quyền được lao động trong Công
ty của những người dân sở tại, đặc biệt là những người có đất trong diện giải
phóng mặt bằng.
Nhiều cơ quan chức năng thiếu sự phối hợp nên chưa giúp tỉnh quản lý
chặt chẽ các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong việc tuyển lao động
để phía nước ngoài lợi dụng làm trái các quy định. Mặt khác nhiều cơ quan còn
bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là yếu kém về trình độ hiểu biết pháp luật, điều đó
dẫn đến hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của tỉnh và của người lao động.
19
- Việc tuyển dụng lao động và cho thôi việc đôi lúc còn tùy tiện. Đội ngũ
cán bộ quản lý lãnh đạo xí nghiệp rất thiếu và không có ngoại ngữ, không đủ
năng lực.
- Trong quá trình triển khai dự án, một số nhà thầu, cơ quan bảo vệ
chuyên nghiệp không báo cáo tư cách pháp nhân các đơn vị trúng thầu (nhà
thầu chính, các nhà thầu phụ) cho cơ quan quản lý và chính quyền địa phương,
gây tình trạng lộn xộn, khó khăn trong lĩnh vực quản lý Nhà nước.
- Việc lập, đăng ký và sử dụng mạng lưới viễn thông chuyên dùng ở một
số doanh nghiệp chưa chấp hành đúng quy định. Chế độ báo cáo quyết toán vốn
đầu tư, báo cáo kiểm toán kinh tế chưa được thường xuyên, tất cả đã ảnh hưởng
phần nào quá trình quản lý chung của doanh nghiệp và địa phương.
- Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giúp ủy ban nhân dân
tỉnh quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa
chặt chẽ, như việc tuyển lao động, kiểm tra, kiểm soát, xử lý môi trường chưa đi
1.3.3.3. Nguyên nhân
Chưa có chiến lược lâu dài quy hoạch tổng thể và chi tiết về đầu tư; do
vậy, thu hút đầu tư thiếu chọn lọc, chưa định hướng rõ cơ cấu kinh tế, ngành,
vùng lãnh thổ, định hướng thị trường; thu hút nhiều dự án sử dụng nhiều lao
động, trong khi cơ sở hạ tầng phục vụ an sinh xã hội còn hạn chế. Mặt khác, do
thiếu thông tin dẫn đến lựa chọn một số đối tác nước ngoài thiếu thiện chí, hoạt
động kém hiệu quả.
Tuy đã có cải thiện đáng kể, nhưng hệ thống luật pháp Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế, môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn; thiếu những biện
pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư; nhiều văn bản dưới
luật ban hành chậm ban hành...
Quản lý nhà nước đối với FDI còn lỏng lẻo; “chặt đầu vào” nhưng công
tác hậu kiểm, công tác kiểm tra, thanh tra không thường xuyên; năng lực quản
lý còn hạn chế.
Công tác xây dựng tổ chức các đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp FDI chưa được quan tâm quyền lợi của công dân chưa được đảm bảo
20
đúng mức; việc nâng cao nhân thức về luật lao động cho công dân chưa được
chú trọng.
2. Nội dung đề án thu hút vốn FDI của tỉnh Quảng Trị
2.1. Nhiệm vụ, quan điểm và mục tiêu của đề án
2.1.1. Nhiệm vụ của đề án
- Phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, những thuận lợi và khó
khăn của tỉnh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp FDI đang hoạt
động trên địa bàn để làm rõ vài trò của các doanh nghiệp FDI trong phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh.
- Đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ở tỉnh
Quảng Trị trong những năm gần đây. Từ đó chỉ ra các mặt đạt được, hạn chế và
nguyên nhân của các hạn chế đó.
- Phân tích một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động thu hút vốn đầu
tư nước ngoài ở tỉnh Quảng Trị cho giai đoạn tiếp theo.
2.1.2. Quan điểm thu hút FDI của tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2015-2020
Dựa trên quan điểm chủ đạo phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai
đoạn 2011 - 2020 là khai thác tối đa các nguồn nội lực, nắm bắt cơ hội và tranh
thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người so với vùng và đạt
ngang bằng cả nước. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Gắn phát triển kinh tế với
bảo vệ môi trường và giữ cân bằng sinh thái.
Đặc biệt là, trên cơ sở định hướng chính sách thu hút FDI của Trung
ương và phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV đã đề ra, quan điểm định hướng thu hút FDI của tỉnh Quảng Trị
giai đoạn 2015-2020 cụ thể như sau:
- Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hữu cơ, có vai trò quan
21
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đầu tư trực tiếp
nước ngoài là động lực cho sự đột phá, là nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
- Phát huy nội lực, tạo nền tảng cho việc thu hút vốn ĐTNN, coi đây là
mối quan hệ khăng khít mạnh mẽ, hữu cơ, nhằm bổ sung các nguồn lực bên
ngoài để phát triển nhanh, bền vững.
- Gắn việc thu hút và sử dụng vốn ĐTNN với an ninh quốc phòng và quá
trình xây dựng nền kinh tế tự chủ, có khả năng ứng phó với những diễn biến bất
lợi của kinh tế thế giới.
- Tận dụng lợi thế đặc thù vị trí địa lý, tiềm năng lợi thế của Quảng Trị là
nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, để có hoạch định chiến lược thu
hút đầu tư ngành nghề phù hợp, coi trọng chất lượng các dự án, khả năng mở
rộng thị trường xuất khẩu, những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, giải quyết
việc làm. Ưu tiên thu hút các dự án đầu tư sử dụng trình độ công nghệ cao,
công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường, áp dụng kinh nghiệm
quản lý tiên tiến từ nước ngoài, góp phần tích cực làm biến đổi cơ cấu kinh tế,
phân công lao động của tỉnh và mở rộng hợp tác với các địa phương khác.
- Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công
nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng
dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử, sản xuất phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Quảng Trị có lợi thế cạnh tranh
như du lịch, chế biến nông - lâm - thuỷ sản...
- Áp dụng các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như huyện Hướng Hóa,
Đakrông...; đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa
bàn này, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nước
ngoài nói riêng. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu Kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo, khu kinh tế biển Đông Nam, các khu công
22
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh xúc tiến, tìm kiếm đối tác chiến lược đầu tư
các dự án trọng điểm tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài từ tất cả các nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Quảng Trị với nhiều hình thức đầu tư khác nhau, nhất là các
nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn
từ các nước công nghiệp phát triển.
2.1.3. Mục tiêu của đề án
- Về tăng trưởng kinh tế: thời kỳ 2016 - 2020 tăng 14 - 15%/năm.
- Về cơ cầu kinh tế: chuyển dịch dần từ cơ cấu nông nghiệp - dịch vụ công nghiệp sang cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp vào năm 2020;
phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng tương ứng là 52%, 37,7% và 10,3%.
- Thu nhập GDP/người: năm 2020 khoảng 65,1 triệu đồng; thu hẹp khoảng
cách thu nhập/người so với mức bình quân chung của cả nước, đạt 87% năm
2015 và năm 2020 đạt mức bình quân chung của cả nước.
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn bình quân hàng năm tăng trên 17%;
hàng năm 2015 - 2020 đạt 2.500 - 3.000 tỷ đồng
- Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng 18,6%; năm 2015 đạt
100 triệu USD và cao hơn những năm tiếp theo.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm (2015-2020) đạt
khoảng 75.000 tỷ đồng.
- Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vào năm 2015 còn 1,1% và năm
2020 là 1,0%. Tỷ lệ dân số thành thị chiếm 35% năm 2015 và 40% năm 2020.
- Giai đoạn 2015-2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 2,5 - 3%;
đến năm 2020 về cơ bản không có hộ nghèo do thiếu việc làm.
- Giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp xuống còn 2,4% vào năm 2020. Nâng tỷ
lệ thời gian lao động ở nông thôn lên 85-90%.
Để đạt được những mục tiêu về kinh tế - xã hội nêu trên thì đề án đưa ra
mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể là:
23
- Tổng nguồn vốn nước ngoài dự kiến thu hút và khởi công mới thực hiện
trong giai đoạn 2011-2015 là 3.518 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA là 2.464 tỷ
đồng, nguồn vốn FDI là 1.054 tỷ đồng, và nguồn vốn NGOs là 425 tỷ đồng.
- Dự kiến tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí cấp mới và tăng vốn
trong giai đoạn 2015 - 2020 đạt 150 triệu USD, trong đó vốn đăng kí cấp mới
chiếm 80 - 90% tổng vốn đầu tư. Trong giai đoạn này, cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm 50%, dịch vụ 30%, và nông lâm - ngư nghiệp chiếm 20%.
2.2. Các giải pháp cơ bản thu hút FDI của tỉnh Quảng Trị
2.2.1. Thực hiện việc xây dựng quy hoạch tổng
Tiếp tục tốt công tác quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh
Quảng Trị đã được chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở đó, xác định dự án cần thiết
gọi vốn đầu tư theo thứ tự ưu tiên về ngành nghề, thời gian và địa điểm cụ thể.
Trên cơ sở quy hoạch, đề ra các điều kiện ưu đãi (trong khuôn khổ pháp luật
quy định), hình thức đầu tư, xác định những thông tin cơ bản ban đầu như giá
thuê đất, quy mô đầu tư, nguồn nguyên liệu.... Trong quá trình chuẩn bị dự án
đầu tư trực tiếp phải hết sức chú ý nghiên cứu sự cần thiết gọi vốn đầu tư nước
ngoài của từng loại dự án, phải tính toán khả năng tham gia của các doanh
nghiệp trong nước, trên cơ sở tận dụng tối đa nhà xưởng, thiết bị cũng như kêu
gọi các nhà đầu tư trong nước góp vốn liên doanh nhằm phát huy hơn nữa
nguồn lực từ bên trong.
Chủ động xây dựng quy hoạch ngành, vùng và các sản phẩm chủ yếu để
làm rõ phạm vi hoạt động của doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước,
làm cơ sở cho việc định kỳ công bố danh mục các dự án kêu gọi đầu tư:
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về tiềm năng và thế mạnh của từng vùng thông
qua điều tra khảo sát về nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự
nhiên, nguồn tài nguyên...
- Lập danh mục các dự án cần gọi đầu tư nước ngoài trên cơ sở dự báo
chuẩn xác nhu cầu thị trường, dự kiến quy mô, công suất, đối tác nước ngoài,
địa điểm, tiến độ thực hiện... để làm cơ sở xúc tiến đầu tư.
24
- Nghiên cứu đánh giá để có quy hoạch phát triển các KCN, đặc khu kinh tế
mang tính khả thi, phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương và
vùng lãnh thổ với quy hoạch phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật.
- Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao, “công nghệ sạch“.
2.2.2. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
- Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều nguồn vốn: Ngân sách
Nhà nước, vốn ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu, khuyến khích tư
nhân đầu tư các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật;
- Khuyến khích vốn FDI đầu tư vào các dự án BOT, BT, BTO để phát
triển hạ tầng theo quy hoạch thống nhất, bảo đảm tính liên tục, đồng bộ và hiện
đại của hệ thống kết cấu hạ tầng. Nhà nước cần giữ vai trò chủ yếu và chủ động
hơn trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, bởi lẽ đầu tư vào lĩnh vực này rủi ro
cao, yêu cầu vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn chậm;
- Trong giai đoạn trước mắt, cần tập trung vào phát triển và hoàn thiện
các cơ sở vật chất tại KCN của tỉnh, bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật
(điện, đường, nước...) đến tận hàng rào KCN ưu đãi các dự án phát triển hạ
tầng xã hội, đồng bộ với các KCN, nhằm đảm bảo vấn đề an sinh xã hội (nhà ở
cho công nhân, trường học, bệnh viện...);
- Có quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT,
BT, BTO vào các địa bàn trọng điểm;
- Phối hợp với các bộ, ban, ngành của Trung ương trong việc nâng cao
chất lượng hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển một hệ thống dịch vụ rộng
khắp, đa dạng và có chất lượng cao như: bưu điện, giao thông vận tải, y tế, giáo
dục, giải trí, tài chính, ngân hàng; Trong đó triển khai ngay các dự án về
Trường Phổ thông quốc tế và Bệnh viện Quốc tế.
25
2.2.3. Hoàn thiện môi trường đầu tư và chính sách đầu tư
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tiến trình phát triển và sử dụng khu
vực FDI. Cần hoàn thiện và xây dựng đồng bộ, nhất quán các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật phải có
tính hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với
các nước trong khu vực. Tiếp tục tham mưu cấp trên hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật chung như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Lụât Thương mại, Luật Cạnh
tranh, Luật Chống độc quyền, Luật đất đai, Luật Lao động....tạo lập một môi
trường kinh doanh thật sự ổn định, bình đẳng.
- Tiếp tục hoàn thiện các chính sách về đầu tư nước ngoài. Trong đó cần
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các nghiệp vụ liên quan đến việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ các thủ tục rườm rà, tạo môi trường
thuận lợi và thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chính đáng ở
Quảng Trị. Quy định rõ ràng, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính; Rà
soát và bãi bỏ các quy định về thủ tục đang cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài.
Việc thẩm định và cấp giấy phép đầu tư phải theo đúng quy định của nhà nước,
tránh phiền hà, gây trở ngại cho các nhà đầu tư, khắc phục ngay tình trạng thanh
tra, kiểm tra không cần thiết gây phiền nhiễu của một số cơ quan chức năng.
- Hoàn thiện chính sách thuế, ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Song song với việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài
chính đối với nhà ĐTNN như: vấn đề hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chuyển lợi nhuận về nước. Không hạn chế hoặc không đưa ra quy định bắt buộc
các nhà ĐTNN phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn. Xoá bỏ ấn
định tỷ lệ nguồn vốn trong các dự án và lĩnh vực cần phát triển mà vốn trong nước
không đủ, không có khả năng đầu tư. Cần tiếp tục đề ra và thực hiện các cam kết
về ưu đãi thuế trong khuôn khổ AFTA, WTO. Đồng thời phải tăng cường công tác
kiểm tra, kiểm soát để xử lý nghiêm theo luật định những hành vi trốn thuế, lậu
thuế. Rà soát, củng cố lại các công cụ tài chính - kế toán để tăng cường giám sát
kiểm tra hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục những sơ hở
gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia (đặc biệt là vấn đề chuyển giá).