Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
MỤC LỤC
Đặng Quang Minh
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã và đang
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ tổ quốc,
nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vì mục tiêu chung “Xây dựng đất nước ta dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Để
thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn
dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Nói đến cán
bộ tốt hay kém ở đây chính là nói đến phẩm chất nhân cách hay đó là cái Đức
và cái Tài của họ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung
phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” [1, tr 90].
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng cũng đã chỉ rõ rằng: “Mục tiêu
chung là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư
tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, giỏi về chuyên
môn nghiệp vụ” [1, tr316]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
yêu cầu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [2 ,tr 26].
1
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Các quan điểm trên đã thể hiện khái quát những yêu cầu về phẩm chất, nhân
cách của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý trong thời kỳ mới.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
đã đưa lại nhiều thành công lớn đối với công cuộc đổi mới đất nước. Đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý đã thể hiện tốt phẩm chất và năng lực của mình, có
phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, không xa dân, sống trong lòng dân,
ba cùng với dân, xứng đáng là những người đảm đương trọng trách lớn lao
của Đảng và Nhà nước giao cho, là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt được thì một số cán bộ trong các cơ
quan nhà nước ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những yếu kém. Đặc biệt là đội
ngũ cán bộ làm trong các doanh nghiệp nhà nước, một phần chưa được đào
tạo đồng bộ về chuyên môn nghiệp vụ, mặt khác, do còn giữ lại tác phong làm
việc chậm chạp, quan liêu, sống quan cách, xa dân, tâm lý tiểu nông làng xã
đang còn chi phối cách nghĩ, cách làm của họ. Hiện vẫn còn cán bộ chưa được
quan thử thách và rèn luyện, phẩm chất và năng lực của họ chưa thực sự
tương xứng với công việc đang đảm nhiệm. Một số cán bộ do tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường, nảy sinh hiện tượng không muốn làm công tác
Đảng, đoàn thể mà chỉ muốn làm công tác chính quyền, công tác quản lý kinh
tế. Do đó, để xây dựng và hoàn thiện nhân cách đội ngũ cán bộ, rất cần quan
tâm tới rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí, đạo đức cách mạng và rèn luyện cả
về năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ nhằm đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong tình hình mới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên và là một cán bộ lãnh đạo, quản lý
thuộc Công ty Cổ phần Than Đèo Nai, tôi chọn vấn đề: “Hoàn thiện nhân
cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai –
Vinacomin trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn
tốt nghiệp kết thúc khóa học lớp Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin. Trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than
Đèo Nai – Vinacomin.
4. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đang công tác tại Công ty cổ phần
Than Đèo Nai – Vinacomin.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về:
+ Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tiêu chuẩn người cán bộ thời kỳ mới.
+ Lý luận chung về nhân cách, những quan điểm, những cách tiếp cận
khác nhau về nhân cách và nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Khảo sát thực trạng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện nhân cách đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin hiện nay.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tiêu chuẩn người cán bộ.
- Cơ sở lý luận của tâm lý học nhân cách và nhân cách người cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
3
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
b. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp thống kê.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn gồm
có 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân cách và nhân cách người cán
bộ lãnh đạo, quản lý.
Chương 2: Thực trạng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần xây dựng và hoàn
thiện nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than
Đèo Nai – Vinacomin trong giai đoạn hiện nay.
4
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH VÀ NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1.1. Khái niệm chung về nhân cách và nhân cách người lãnh đạo,
quản lý.
1.1.1. Khái niệm về nhân cách và bản chất nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau như Triết học, Xã hội học, Tâm lý học, Đạo đức học, Giáo dục học, Y
học…Với mỗi ngành khoa học nhân cách lại được nghiên cứu dưới góc độ
tiếp cận khác nhau.
Tâm lý học Mác xít khẳng định bản chất nhân cách dựa trên luận điểm
nổi tiếng của C.Mác: “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [6, tập 3, trang 11].
Trên cơ sở nền tảng lý luận đó, các nhà tâm lý học Mác xít đi sâu
nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh, từ đó xác định phạm
trù nhân cách. Nhân cách là vấn đề thuộc về con người và xã hội. Con người
là một thực thể gồm hai mặt sinh học- xã hội, hai mặt này có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tâm lý học nghiên cứu con người trên cả hai mặt này. Theo
quan niệm của C.Mác, mặt xã hội là bản chất của con người và là mặt sinh
học của con người đã được xã hội hóa. Bản chất của con người được hình
thành nên trong cuộc sống, bằng hoạt động của con người chịu sự tác động
của các quan hệ xã hội, quan đó con người hội nhập, củng cố và phát triển các
mối quan hệ mà họ tham gia và con người là chủ thể trong các mối quan hệ
đó. Khi con người tham gia và thực hiện một hoạt động nhất định có mục
đích, có ý nghĩa nhằm nhận thức hay cải biến hiện thực khách quan thì con
người được coi là chủ thể.
5
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Từ những nghiên cứu về nhân cách, các nhà tâm lý học Mác xít đã đi
đến khẳng định bản chất nhân cách với một số nội dung cụ thể sau đây:
- Nhân cách là sản phẩm xã hội - lịch sử của sự tiến hóa nhân loại và
tiến hóa cụ thể, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Ở mỗi hình thức kinh tế xã hội khác nhau thì nhân cách cũng có biểu
hiện những đặc trưng tiêu biểu cho từng hình thức kinh tế xã hôi cụ thể. Nói
nhân cách mang bản chất xã hội, điều đó có nghĩa là cùng với sự vận động,
biến đổi và phát triển của xã hội loài người thì các phẩm chất, giá trị trong
nhân cách cũng biến đổi và phát triển theo. Những phẩm chất, giá trị đó phản
ánh những nội dung, tính chất của mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi con
người đang sống, đang hoạt động. Khi con người tham gia vào các quan hệ xã
hội như: quan hệ chính trị, kinh tế, giai cấp, gia đình, bạn bè, ứng xử giữa
người với người… thì dấu ấn, nội dung của các quan hệ xã hội đó được phản
ánh trong các phẩm chất tâm lý của nhân cách. Mỗi người không chỉ tham gia
vào một mối quan hệ mà tham gia vào nhiều mối quan hệ, những mối quan hệ
đó quy định vị thế của mỗi con người trong xã hội, đồng thời quan hoạt động
của họ cũng quy định nét khác biệt về nhân cách mỗi con người.
Xét về mặt sinh học, thực tế cho thấy con người khi mới sinh ra chưa
phải đã có nhân cách mà chỉ khi đạt tới một trình độ xã hội hóa nhất định, có
ngôn ngữ và biết tự nhận thức được bản thân mình thì nó mới trở thành nhân
cách. Quá trình hình thành nhân cách thường bắt đầu từ 2-3 tuổi; đến tuổi 1718 nhân cách đã được định hình và nó tiếp tục được phát triển, hoàn thiện
trong suốt cả cuộc đời. Giai đoạn sau phát triển hoàn thiện hơn giai đoạn
trước và càng về sau nhân cách càng được hoàn thiện. Nhân cách không chết
theo thể xác của con người mà mà được người khác đang sống trong xã hội kế
thừa, chọn lọc, duy trì và phát triển.
6
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Qua nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm của các nhà tâm lý học Mác xít
cho thấy không có sự tách rời cái tự nhiên sinh học với cái xã hội. Nhân cách
được coi là sản phẩm của các quan hệ xã hội đồng thời cũng là sản phẩm của
sự tiến hóa, phát triển của cái tự nhiên.
C.Mác đã chỉ rằng: “Chính con người khi phát triển sản xuất vật chất
và sự giao tiếp vật chất của mình đã làm biến đổi cùng với sự tồn tại hiện thực
của mình, cả tư duy lẫn lẫn sản phẩm tư duy của mình”. [6, tập 3, tr.38]
+ Đối với các nhà tâm lý học Việt Nam, quan niệm về nhân cách được
hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Có quan niệm coi nhân cách: “là tổng hòa
những gì hợp thành một con người, một cá nhân với bản sắc, cá tính rõ nét
với những đặc điểm thể chất, tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức và vai trò
xã hội; Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân, đã tự khẳng định
được, giữ được phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi [8, tr.246]. “Nhân
cách là một chủ thể tự ý thức mỗi con người, thể hiện thông qua quá trình tự
khẳng định của chính mình” [8, tr.9].
Có thể nói, đến nay, đã có nhiều định nghĩa về nhân cách, khó có thể
tìm ra một định nghĩa nào có thể khái quát và bao trùm nhất về khái niệm
nhân cách. Tuy nhiên các khái niệm, định nghĩa về nhân cách đều đề cập đến
một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Nói đến nhân cách là nói đến thuộc tính, phẩm chất tâm lý
được hình thành từ trong các quan hệ xã hội, từ những hoạt động có ý thức
của mỗi con người. Những phẩm chất đó quy định hành vi và giá trị xã hội
của mỗi con người.
Thứ hai: Nói đến nhân cách bao giờ cũng gắn liền với tồn tại thân thể
của một con người, nó không phải là một cái gì trừu tượng, mà là sản phẩm
hoạt động có ý thức của con người.
7
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Thứ ba: Nói tới nhân cách là nói tới đặc điểm tâm lý riêng của một cá
thể người. Đó là đơn vị cuối cùng, là cái đơn nhất tạo nên chính nó chứ không
phải là ai khác.
Thứ tư: Nhân cách biểu hiện giá trị xã hội của mỗi cá nhân con người
trước tác động của hiện thực khách quan và trong quá trình sống, hoạt động.
Nhân cách là “Một cấu tạo tâm lý mới” là “Một sản phẩm mới” của con
người trong hành trình hướng tới lý tưởng cao cả và những giá trị “Chân –
Thiên - Mỹ” của con người.
Con người tự nhiên sinh ra và mất đi theo quy luật sinh học, nhưng
nhân cách không mất đi mà tồn tại mãi mãi, phản ánh bản chất xã hội và trình
độ chinh phục, cải biến đời sống tự nhiên, xã hội và bản thân.
1.1.2. Khái niệm về nhân cách người lãnh đạo, quản lý
Dưới góc độ tâm lý học, nhân cách được xem xét về mặt xã hội lẫn mặt
tâm lý.
+ Về mặt xã hội nó bao gồm những quan hệ xã hội cụ thể của con
người với những đặc điểm riêng của nó. Đó là quan hệ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội… Với con người những mối quan hệ này vừa có ý nghĩa khách
quan, vừa mang màu sắc chủ quan. Khách quan ví như Mác nói rằng xét về
mặt tự nhiên con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Khi sinh ra con
người đã mang những mối quan hệ xã hội nhất định. Chủ quan ở chỗ con
người chủ động trong việc xác lập các mối quan hệ xã hội cho mình, thể hiện
là con người có thể lựa chọn lối sống – trong việc xác định phương hướng tư
tưởng chính trị. Điều này không chỉ nói lên bản chất xã hội của nhân cách mà
còn khẳng định tính tích cực của cá nhân trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của người đó.
+ Xét về mặt tâm lý thì nhân cách bao gồm những đặc điểm tâm lý thỏa
mãn các điều kiện sau:
8
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
♦ Những nét tâm lý điển hình, ổn định và bền vững, chứ không phải
là cái nhất thời, ngẫu nhiên và bất ngờ. Nhờ tính ổn định và bền vững mà
chúng ta mới nhận xét, đánh giá được nhân cách của từng người và dự đoán
hành vi của họ trong tình huống, hoàn cảnh cụ thể nào đó.
♦ Những nét tính cách có liên quan, chặt chẽ với nhau để tạo nên tính
thống nhất của nhân cách.
♦ Những nét tính cách phải được thể hiện trong các hoạt động và giao
tiếp, trong hành vi cử chỉ của cá nhân dưới hình thức này hay hình thức khác.
Đồng thời thông qua hoạt động và giao tiếp nhân cách được nẩy sinh và phát triển.
♦ Giá trị của các nét, các đặc điểm cũng như toàn bộ nhân cách
thường được qui định bởi các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể.
Như vậy nhân cách được xem xét bởi hai mặt xã hội và tâm lý, hai mặt
này có mối liên quan biện chứng với nhau. Đây chính là hai mặt quan trọng
để khẳng định tính người của con người.
Từ những phân tích trên đây chúng tôi hiểu: Nhân cách người lãnh
đạo, quản lý là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân quy định
giá trị địa vị xã hội và hành vi quan hệ xã hội của người lãnh đạo, quản lý.
Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý có những đặc điểm cơ bản
như sau:
Tính thống nhất và bản chất xã hội của nhân cách: Nhân cách là sự
thống nhất nhiều đặc điểm, phẩm chất tâm lý cá nhân biểu hiện trong hành vi,
hoạt động của con người. Đó là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, giữa đức
và tài, giữa bản lĩnh và sự thích ứng, giữa hành vi bản năng và hành vi xã hội,
giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, giữa lý tưởng của chủ thể lãnh đạo,
quản lý có lòng nhân hậu, khoan dung thì dù trong hoàn cảnh nào, quan hệ xã
hội nào cũng phải thể hiện được sự thống nhất của nó trong hành vi và hoạt
động, được xã hội và mọi người đánh giá, thừa nhận sự nhất quán và trung
thực của phẩm chất, nhân cách đó.
9
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Tính ổn định và phát triển của nhân cách: Một trong những đặc trưng
của nhân cách là ổn định và phát triển. Các phẩm chất của nhân cách, các kiểu
hành vi, phong cách ứng xử hoạt động được hình thành trong một thời gian
dài thường ổn định với các quan hệ xã hội, nếp sống, chế độ sinh hoạt, làm
việc ổn định. Có thể trong cuộc đời và hoạt động thường nhật, đôi khi có
những biến động, có nét tính cách “khác, lạ” xuất hiện, có những thay đổi của
đối tượng hoạt động của môi trường cuộc sống, nhưng nhìn chung thì chúng
vẫn không làm thay đổi được đặc điểm, phẩm chất và thuộc tính của một nhân
cách. Ngược lại, bản lĩnh, phong cách, tư cách tương đối ổn định của một
nhân cách như thế càng trọn vẹn, bền vững có chiều sâu, được thử thách và
càng phát triển, hoàn thiện.
Tính tích cực và chủ động của nhân cách: Nhân cách là của một chủ
thể hoạt động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân cách được hình thành
nhờ hoạt động tích cực của cá nhân trong các quan hệ xã hội, là sản phẩm của
xã hội. Để được thừa nhận là một nhân cách chủ động và tích cực, con người
phải tích cực quan sát, học tập hành động để nhận thức các chuẩn mực hành
vi xã hội, hoạt động theo các chuẩn mực xã hội góp phần nhận thức và cải tạo
thế giới, cải tạo chính mình. Nhân cách người lãnh đạo, quản lý càng phải thể
hiện rõ tính tích cực và chủ động trong hoạt động nhận thức, cải tạo xã hội.
Đó là một giá trị xã hội, được so sánh lựa chọn và thừa nhận, người lãnh đạo,
quản lý phải là một chủ thể hoạt động tích cực cải tạo tự nhiên, xã hội và hoàn
thiện bản thân theo yêu cầu thực hiện lý tưởng giải phóng con người và công
bằng xã hội.
Tính giao lưu và tự chủ của nhân cách: Nhân cách không thể hình
thành, nếu con người không chung sống quan hệ với mọi người, không giao
tiếp, hiệp tác với người khác. Giao lưu và tiếp xúc với mọi người trở thành
nhu cầu thiết thân của con người. Từ hành vi, ngôn ngữ, trong quan hệ giao
10
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
tiếp xã hội, các kiểu hoạt động, tiếp cận với đối tượng, mỗi người học và biết
được cách ứng xử, hành động từ những người xung quanh. Từ quá trình hoạt
động liên nhân cách, L. X. Vưgôtxki, nhà tâm lý học người Nga, cho rằng:
Nhân cách là cái của tôi có trong ta và cái ta có trong người khác, đồng thời
là cái người khác có trong ta.
1.1.3 Cấu trúc nhân cách người lãnh đạo, quản lý
1.1.3.1 Cấu trúc nhân cách người lãnh đạo, quản lý theo quan niệm
của các nhà tâm lý học Việt Nam.
Cấu trúc nhân cách là sự sắp xếp các tính chất, thành phần, thuộc tính
của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong những
mối liên hệ và quan hệ nhất định. Đời sống tâm lý của con người cũng có một
cấu trúc nhất định, nếu tạm loại đi những đặc điểm cá thể về tâm lý của mỗi
người thì chúng ta có thể xác lập được một cấu trúc tâm lý của nhân cách.
Hiện cũng đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách. Quan niệm
tâm lý học cho rằng cấu trúc tâm lý của nhân cách nói chung và của người
lãnh đạo, quản lý nói riêng bao hàm các thuộc tính tâm lý cá nhân điển hình
là: Xu hướng, tính cách, năng lực, tính khí.
Xu hướng của nhân cách: Xu hướng là chiều hướng hoạt động và phát
triển cuộc đời của một con người, là mục tiêu phấn đấu trong cuộc sống, trở
thành động cơ thôi thúc hoạt động của con người. Xu hướng nhân cách của
một con người được hình thành và phát triển theo trình độ nhận thức, tình
cảm và ý chí của họ đối với mục đích cuộc đời cần đạt tới. Xu hướng quy
định phương thức hoạt động và phát triển của cá nhân, xu hướng biểu hiện ở
các mặt nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin, ở ý chí, nghị
lực, quyết tâm của mỗi con người.
Tính cách của nhân cách: Tính cách là thuộc tính tâm lý cá nhân quan
trọng nhất trong nhân cách. Tính cách của con người được thể hiện rõ nét ở cả
11
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
xu hướng, năng lực, cảm xúc, tình cảm và ý chí. Tính cách là sự biểu hiện rõ
nét các đặc điểm tâm lý của cá nhân. Những đặc điểm này quy định ý thức,
hành vi của cá nhân trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, thể hiện
thái độ của họ đối với thế giới xung quanh với công việc, với mọi người và
bản thân...
Năng lực của nhân cách: Mỗi cá nhân có khả năng nhất định để có thể
hoạt động đạt kết quả. Trong tâm lý học năng lực được hiểu là khả năng học
tập, nghiên cứu và áp dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vào các lĩnh vực
hoạt động và đem lại hiệu quả. Năng lực là một thuộc tính tâm lý vô cùng
quan trọng đối với mỗi con người, đặc biệt là người lãnh đạo, quản lý, nó cho
biết con người có thể làm được việc gì và làm đến đâu, nó đảm bảo cho người
lãnh đạo, quản lý hoàn thành được nhiệm vụ và tiến hành được các hoạt động
nhằm cải tạo được tự nhiên, xã hội và bản thân.
Điều quyết định sự hình thành, phát triển năng lực ở mỗi cá nhân phụ
thuộc vào hoạt động, giáo dục và rèn luyện của bản thân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà
có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có” [6, t5, tr 280]. Năng lực
là khả năng áp dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vào một lĩnh vực hoạt
động nhất định có kết quả. Nếu chỉ căn cứ vào bằng cấp hay quá trình công
tác để nhận xét, đáng giá con người và cán bộ lãnh đạo, quản lý thì chưa
chính xác. Trước hết, phải lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ
yếu.
Tính khí của nhân cách: Tính khí là một thuộc tính tâm lý cá nhân
tương đối ổn định, nó làm cho hoạt động tâm lý của mỗi cá nhân có sắc thái
độc đáo, khiến cá nhân này khác cá nhân kia một cách rõ rệt. Tính khí gắn
liền với đặc điểm hoạt động sinh lý thần kinh của mỗi cá nhân, là sắc thái của
12
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
các hành vi cá nhân, là đặc trưng chung nhất về cường độ và nhịp độ hoạt
động tâm lý của mỗi cá nhân.
Mỗi cá nhân có tính khí riêng và đều có thể trở nên những người tốt.
Một cá nhân tốt hay không là do nhiều yếu tố và chuẩn mực xã hội quy định.
Hiểu được tính khí đặc trưng của một cá nhân để nhận rõ được mặt mạnh hay
yếu, nhằm sử dụng và cư xử với họ được tốt. Mỗi người, nhất là người lãnh
đạo, quản lý cũng phải hiểu rõ tính khí của mình để bồi dưỡng, gìn giữ và
phát huy những đặc điểm tính khí thích hợp, hạn chế những biểu hiện tiêu
cực, không thích hợp.
1.1.3.2. Cấu trúc nhân cách người lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì nhân cách con người gồm hai
mặt, hai bộ phận cơ bản là “Đức và Tài”, là hệ thống thái độ, tình cảm và ý
chí của con người đối với thế giới khách quan, đối với công việc, đối với tổ
chức, đối với cách mạng, đối với tiền nong và của cải, đối với chính bản thân
mình. Người nói: “Đạo đức cách mạng là phải: Cần, kiệm, liêm chính”. Quan
niệm của người về “tài” là khả năng làm được điều gì cho Đảng, cho dân, cho
nước. Người nói: “Trong Đảng ta, gồm có những người có đức, có tài”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo, người cách mạng thì phải có đạo đức, không có đức thì dù tài giỏi đến
mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân”, “Phải coi trọng nhân tài, trọng
cán bộ, trọng mỗi một người có ích trong việc chung của chúng ta”…
Quan điểm Đức và Tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là quan
điểm về cấu trúc nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đồng thời cũng là
nền tảng lý luận để chúng ta xác định được tiêu chuẩn chung cho cán bộ. Nếu
so sánh, đối chiếu với cách phân chia trong cấu trúc nhân cách người cán bộ
13
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
lãnh đạo, quản lý của các nhà tâm lý học thì có lẽ đó là cách phân chia tương
đối hợp lý, dễ nhận thức nhất.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đức và Tài phản ánh toàn diện đầy đủ các
phẩm chất của nhân cách, nó biểu hiện tính tổng thể trong bộ mặt tâm lý nhân
cách. Đôi khi Người cũng dung khái niệm “Hồng” và “Chuyên” đó chính là
sự phát triển của hai mặt “phẩm chất” và “năng lực” của con người. Khái
niệm Đức, Tài, Hồng, Chuyên không bị bó hẹp, bị giới hạn trong sự phân chia
theo góc độ của xã hội và cái sinh vật mà nó hàm chứa một ý nghĩa bao trùm,
rộng lớn và thống nhất trong cấu trúc nhân cách. Nếu hệ thống đầy đủ những
ý nghĩa, nội dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng diễn đạt thì Đức và Tài có
sự chuyển hóa cho nhau, xâm nhập vào nhau, là tiền đề của nhau tạo nên một
kết cấu trọn vẹn. Trong mối quan hệ Đức và Tài, Người luôn coi trọng Đức và
coi Đức là “Gốc”, là phẩm chất hàng đầu của cán bộ cách mạng. Bên cạnh đó
Người cũng rất coi trọng Tài, tức là năng lực cán bộ. Người cho rằng, người
cán bộ, đảng viên phải biết làm lợi cho dân, cho nước, cho cách mạng. Muốn
làm lợi cho dân, cho nước, cho cách mạng thì người cán bộ, đảng viên phải ra
sức học tập để nâng cao trình độ. Người từng nói: “Có đức mà không có tài
thì làm việc gì cũng khó”.
Xuất phát từ giải quyết mối quan hệ giữa Đức và Tài, xuất phát từ vị trí
quan trọng của nó nên Người không bao giờ tuyệt đối hóa cái nào. Đối với
việc xem xét, lựa chọn người làm công tác lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn căn dặn: “Phải chọn người có đủ đức, đủ tài”.
Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về cấu trúc nhân cách của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm có 3 nhóm:
+ Nhóm phẩm chất chính trị tư tưởng bao gồm: Lòng trung thành tuyệt
đối với Đảng, với cách mạng; Có lập trường, tư tưởng vững vàng, kiên định
với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; Luôn đặt lợi ích của Đảng,
14
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
của cách mạng lên trên lợi ích của cá nhân; Có thái độ đấu tranh không khoan
nhượng đối với kẻ thù…
+ Nhóm phẩm chất tâm lý đạo đức bao gồm: Cư xử, ứng xử của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với công việc, đối với nhân dân, đối với tiền
nong, của cải, địa vị, quyền lực. Theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
làm người cán bộ thì phải Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, đó là đạo
đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp
cách mạng, biết vì lợi ích của nhân dân. Trong đạo đức cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn coi trọng Đức “Nhân”, mà theo thuyết của Khổng Tử,
“Nhân” là yếu tố quan trọng hàng đầu, người cán bộ lãnh đạo, quản lý có lòng
khoan dung, độ lượng, nhân từ, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng
bào. Đạo đức cách mạng biểu hiện ở tính ngay thẳng không tư túi, không làm
hại đến mọi người, không tham địa vị, tiền tài, không ham tâng bốc mình,
luôn nghiêm khắc với bản thân.
+ Nhóm các phẩm chất năng lực: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
là người tiên phong, có trí tuệ cao, là người có đủ trình độ để hướng dẫn
người khác, có khả năng giám sát công việc đúng, hiểu biết đường lối của
Đảng, có năng lực tổ chức thực tiễn, đưa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Người lãnh đạo, quản lý
phải đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nói đi đôi
với làm.
1.1.3.3. Các yếu tố cấu thành nhân cách người lãnh đạo, quản lý.
Các nhà Tâm lý học Việt Nam khi nghiên cứu về nhân cách, cấu trúc
nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý đã đi đến thống nhất có 4 yếu tố cấu
thành nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là: xu hướng, tính cách,
năng lực và tính khí.
- Xu hướng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
15
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Xu hướng là chiều hướng hoạt động và phát triển của cuộc đời con
người, đó là mục tiêu phấn đấu trong cuộc sống, nó trở thành động cơ hoạt
động của con người, xu hướng nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành và
phát triển theo trình độ nhận thức, tình cảm, ý chí của hộ đối với mục đích
cuộc đời cần đạt tới. Xu hướng nhân cách quy định phương thức hoạt động và
phát triển của mỗi cá nhân.
Xu hướng biểu hiện ở nhu cầu, hứng thú, tư tưởng, hoài bão, thế giới
quan, biểu hiện ở ý chí quyết tâm của mỗi con người. Nhu cầu là sự đòi hỏi
của mỗi cá nhân và nhóm xã hội khác nhau muốn có những điều kiện nhất
định để sống và phát triển. Nhu cầu là trạng thái và thuộc tính biểu hiện sự
gắn bó của con người với thế giới quan. Nhu cầu là biểu hiện đầu tiên, rõ nét
nhất của xu hướng, là động lực của mọi lao động. Nhu cầu bao giờ cũng có
đối tượng , tính xã hội lịch sử và tính chu kỳ. Đối với người cán bộ lãnh đạo,
quản lý thì nhu cầu của họ trước hết phải thống nhất, phù hợp với nhu cầu
chính đáng của con người, khi đó xu hướng nhân cách của họ mới rõ ràng,
nhất quán, kiên định và được mọi người thừa nhận, ủng hộ và noi theo.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó
có ý nghĩa trong đời sống của họ. Hứng thú có tác động huy động sức lực của
mỗi cá nhân vào hoạt động chiếm lĩnh đối tượng. Người cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải có thái độ hứng thú với công việc, nó biểu hiện ở tính trách
nhiệm, sự gắn bó nhiệt tình và say mê với công việc được giao.
Lý tưởng là những mục tiêu cao đẹp được phản ảnh trong đầu óc của con
người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực, hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn họ vào
hoạt động để vươn tới mục tiêu đó. Lý tưởng là động cơ ý thức thúc đẩy con
người vươn lên trong hoạt động, vạch hướng cho sự phát triển nhân cách. Lý
tưởng của cá nhân phụ thuộc vào lý tưởng xã hội, lý tưởng giai cấp, song lý
tưởng của cá nhân có tính độc lập tương đối, đó là cái riêng hợp thành cái chung
16
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
của lý tưởng. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có lý tưởng giải phóng con
người và tạo lập công bằng xã hội, đó là lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa.
Thế giới quan là hệ thống quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người.
Thế giới quan có vai trò định hướng, điều chỉnh mọi hoạt động, nó giúp cho
con người nhìn nhận, đánh giá thế giới xung quanh và bản thân, vạch hướng
cho họ sự lựa chọn những thái độ và hành vi hành động.
Niềm tin là sự hòa quyện một cách hữu cơ giữa nhận thức, tình cảm và
ý chí cá nhân, niềm tin được phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức, ý
chí cá nhân, niềm tin được phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức, ý
chí, tình cảm của nhân cách. Niềm tin đúng đắn giúp con người lạc quan trong
hoạt động sống. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có niềm tin vững chắc,
kiên định mục tiêu và con đường Chủ nghĩa xã hội.
-Tính cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Tính cách là một thuộc tính tâm lý cá nhân quan trọng nhất trong nhân
cách, tính cách của con người được thể hiện rõ nét ở cả xu hướng, năng lực,
cảm xúc, tình cảm và ý chí. Tính cách là sự thể hiện đặc điểm tâm lý cá nhân,
những đặc điểm này đã quy định ý thức hành vi của cá nhân trong điều kiện
và hoàn cảnh nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh,
với công việc, với mọi người và bản thân.
Tính cách chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội như hoàn cảnh sống,
hoạt động và giao tiếp. Tính cách cá nhân chính là quan hệ ứng xử, thái độ
với công việc, đối với người khác, đối với xã hội, đối với bản thân. Tính cách
còn được biểu hiện trong quá trình nhận thức, tình cảm và ý chí cá nhân. Quá
trình đó còn hàm chứa cả những tính cách tốt, cả những tính cách không tốt.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải giải
quyết nhiều mối quan hệ, với nhiều đối tượng khác nhau như người thân,
người cùng công tác, cùng tập thể xã hội...Thông qua các mối quan hệ đó, ta
có thể hiểu rõ tính cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý là người như thế nào?
17
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Là người có đạo đức, tuân thủ pháp luật hay người không tuân thủ pháp luật,
thiếu đạo đức.
Biểu hiện của tính cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý là thái độ tốt
với xã hội và bản thân. Đối với xã hội, tập thể, với lao động và trong công
việc người cán bộ lãnh đạo phải là người gương mẫu, có vai trò tích cực,
chăm chỉ, là tấm gương của nhân viên dưới quyền. Có thái độ nhiệt tình với
công việc, có ý chí hoàn thành mọi công việc được giao. Đối với tiền bạc,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thể hiện là người tiết kiệm, chi tiêu hợp
lý, liêm khiết, không tùy tiện, tham lam, xa hoa, lãng phí, gây mất lòng tin với
nhân viên dưới quyền.
Đối với bản thân phải có thái độ khiêm tốn, tự chủ, biết kiềm chế, làm
việc có nguyên tắc, thái độ của người cán bộ lãnh đạo, quản lý như vậy mới là
khoa học, vừa là hành vi đạo đức biết tôn trọng người khác.
Tính cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện ở các đức
tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tình cảm cách mạng, quyết tâm
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, trong công tác người cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải thường xuyên cảnh giác với sự xa đọa, thoái hóa, biến chất của
bản thân, đồng thời thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để khiếm khuyết ngày
càng ít, những điểm tốt ngày càng nhiều thêm.
-Năng lực người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Trong tâm lý học, năng lực được hiểu là khả năng học tập nghiên cứu
và áp dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vào các lĩnh vực hoạt động đem
lại hiệu quả. Năng lực là một thuộc tính tâm lý vô cùng quan trọng đối với
mỗi con người, đặc biệt là người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Năng lực cho biết
con người có thể làm được những gì và mức độ hoàn thành của công việc, nó
đảm bảo cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý hoàn thành được nhiệm vụ và
tiến hành được các hoạt động nhằm cải tạo được tự nhiên và xã hội.
18
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Năng lực của mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, tư chất,
gen di truyền, tuy nhiên, tư chất chỉ là cơ sở, tiền đề vật chất có sự hình thành
và phát triển năng lực. Năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được hình
thành và phát triển do yếu tố xã hội quyết định. Đó là môi trường sống, điều
kiện xã hội, giáo dục xã hội, sự phân công lao động xã hội, giao lưu, xây dựng
tập thể và đặc biệt là nghị lực, ý chí người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí
Minh đã từng nói: ‘‘Năng lực của con người không phải do tự nhiên mà phần
lớn là do công tác, do rèn luyện mà có’’. Người cũng từng rút ra một điều quan
trọng, cũng như sự hình thành, phát triển tính cách ở mọi cá nhân, đó là:
‘‘Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên’’
(Trích ‘‘Nhật ký trong tù’’)
Năng lực của con người được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau,
người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phức tạp gọi là người có tài năng, người
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ có một không hai gọi là thiên tài.
Năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được phân chia thành
năng lực chung và năng lực riêng, năng lực chung là năng lực cần thiết cho
nhiều loại hoạt động khác nhau như: Năng lực quan sát, tư duy, trí nhớ, trí
tưởng tượng, sáng tạo, chú ý…Năng lực riêng là năng lực đặc trưng trong một
lĩnh vực nhất định như năng lực chuyên môn thuộc một ngành nào đó, hoặc là
năng lực tổ chức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Năng lực chung có ảnh
hưởng đến sự phát triển của năng lực riêng.
- Tính khí của người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Tính khí là một thuộc tính tâm lý cá nhân tương đối ổn định, nó có sắc
thái của hành vi cá nhân, nó chi phối hoạt động tâm lý con người về cường
độ, tốc độ, nhịp độ. Tính khí không quy định nội dung tốt hay xấu của các
phẩm chất tâm lý cá nhân mà chỉ quy định động thái của hành vi tâm lý.
19
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Có thể chia thành 4 kiểu tính khí cơ bản của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý, đó là:
1/ Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính khí hoạt, biểu hiện là người
linh hoạt, tháo vát, năng động, dễ thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh khi
được giao công việc phù hợp thì họ tỏ ra hăng hái, tìm mọi cách vượt khó
khăn trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ. Trong quan hệ với mọi người thì cởi
mở, nhưng họ có ngược điểm là hấp tấp, vội vàng, thiếu kiên nhẫn.
2/ Người cán bộ lãnh đạo quản lý có tính khí trầm, biểu hiện họ thường
ung dung, kiềm chế được những cơn xúc cảm, trong hoạt động thường có sự
đều đặn, cân bằng và duy trì. Trong quan hệ thường đúng mực, hơi kín đáo,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính khí trầm thường có nhược điểm là tính
ỳ lớn, kém linh hoạt, chậm thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh, song có
mặt tốt là tránh được sự vội vàng, hấp tấp.
3/ Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính nóng nảy tỏ ra có sức sống
dồi dào, các hoạt động tâm lý học bộc lộ sự mạnh mẽ, họ thường dốc sức làm
những việc ưa thích, nhược điểm của họ là bốc đồng, dễ nổi nóng và dễ xẹp.
4/ Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính thầm lặng, tỏ ra ủy mị, ưu tư,
yếu đuối, dễ lo lắng, dễ mặc cảm. Tuy nhiên ưu điểm của họ là nhạy cảm, tinh
tế, nhẫn nại trước những công việc bình thường đơn điệu.
Các thuộc tính nhân cách được hình thành và phát triển tùy thuộc vào
mối quan hệ cá nhân với một giai cấp, một dân tộc hay một nhóm người nhất
định, nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực nghề nghiệp, điều kiện lao động và môi
trường gia đình…Việc cá nhân tham gia vào các cộng đồng nhất định sẽ tạo
nên những nội dung phẩm chất nhân cách của cá nhân đó. Tính chất các hoạt
động mà cá nhân đó thực hiện, phạm vi và cách giao tiếp của cá nhân với
người khác, với xã hội là các đặc điểm tồn tại xã hội, lối sống cá nhân…có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân hoặc cũng cũng
có thể kìm hãm và làm nhân cách cá nhân đó bị què quặt, thoái hóa.
1.1.4. Con đường hình thành nhân cách người lãnh đạo, quản lý
20
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý được hình thành và phát
triển trong quá trình sống, hoạt động, đặc biệt là trong thực tiễn hoạt động
lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân
cách của họ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó mỗi yếu tố
giữ một vai trò nhất định.
1.1.4.1. Yếu tố giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện:
Không ai sinh ra đã là người lãnh đạo, muốn trở thành người lãnh đạo
trước tiên phải được giáo dục, đào tạo trở thành con người với tư cách là
thành viên của xã hội, sau đó mới đến vị thế của họ trong xã hội đã.
Giáo dục được coi là hoạt động chuyên môn của xã hội, nhằm tác động
một cách có mục đích đến cá nhân nhằm hình thành những phẩm chất tâm lý
phù hợp với các mục tiêu đề ra. Đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện
nay, việc giáo dục nhân cách đòi hỏi phải được coi là vấn đề cấp bách và phải
thực hiện thường xuyên. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải được đào
tạo, giáo dục rèn luyện một cách có hệ thống tri thức xã hội, tri thức chuyên
môn, tri thức đạo đức, kỹ năng, kỹ xảo về lãnh đạo, quản lý. Điều quan trọng
là phải trang bị cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý hệ thống quan điểm của
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ
trương của Đảng cộng sản Việt Nam, Chính sách và pháp luật của Nhà nước,
những tri thức về tâm lý con người, nghệ thuật lãnh đạo, quản lý liên quan
đến chất lượng, hiệu quả của công việc.
Trên thực tế, còn không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ thấp về
kiến thức năng lực lãnh đạo, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới,
không ít cán bộ lười học, hoặc cốt học chỉ để lấy tấm bằng nhằm hợp thức hóa
vị thế của mình “chỗ đứng”, “ghế ngồi” của mình…Chính vì thế, người cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình
độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn.
21
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
1.1.4.2. Hoạt động thực tiễn cách mạng và hoạt động lãnh đạo, quản lý
là hoạt động có vai trò trực tiếp trong việc hình thành và phát triển nhân
cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong hoạt động cách mạng, hoạt động lãnh đạo, quản lý là hoạt động
chủ đạo có vai trò trực tiếp trong việc hình thành và phát triển nhân cách
người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Là người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng”, nhưng “Đạo đức cách mạng không phải là
trên trời sa xuống. Do đấu tranh, rèn luyện hàng ngày mà có. Cũng như ngọc
phải càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nghị quyết Ban chấp
hành Trung ương 3 (khóa VIII) đã khẳng định: “Trên cơ sở phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một
cách bài bản, chính quy, có hệ thống; đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn
và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh
giá, sang lọc, tuyển chọn cán bộ. Cho nên trong hoạt động thực tiễn cách
mạng người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn tự rèn luyện, học tập để nhân
cách ngày càng phát triển và hoàn thiện.
1.1.4.3. Yếu tố tập thể, cộng đồng xã hội và gia đình có sự ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Nhân cách con người, kể cả nhân cách người lãnh đạo, quản lý được
hình thành, hoàn thiện và phát triển trong môi trường xã hội cụ thể, trong
cộng đồng xã hội, tập thể, gia đình, làng xóm, khối phố, khu dân cư mà họ là
thành viên. Trong một tập thể, nếu có môi trường xã hội lành mạnh, quan hệ
giữa người với người nhân ái, tập thể đoàn kết, nhất trí, bầu không khí trong
cơ quan, xóm làng, khối phố thuận lợi thì đó là môi trường xã hội tốt nhất để
nhân cách mỗi người phát triển, trong đó có người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người trực tiếp tổ chức, xây
dựng môi trường xã hội lành mạnh, tập thể đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, mọi
22
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
thành viên trong xã hội đều được giao việc phù hợp, gắn bó hết sức mình với
tập thể. Người lãnh đạo, quản lý còn là thành viên của nhóm hạt nhân, của ê
kíp lãnh đạo. Một nhóm hạt nhân đoàn kết, một ê kíp gắn bó, đều tay, một tập
thể tốt sẽ là điều kiện rèn luyện nhân cách tốt và là môi trường thuận lợi để
nhân cách người lãnh đạo, quản lý không ngừng phát triển. Và ngược lại,
trong môi trường xã hội không thuận lợi, nhóm hạt nhân mất đoàn kết, đố kỵ,
bè phái, ganh tỵ, xích mích nhau… không thừa nhận thành tích và sự tiến bộ
của nhau, tạo ra bầu không khí tâm lý căng thẳng sẽ làm cho nhân cách phát
triển không đều, khiếm khuyết và phiến diện.
1.1.4.4. Bản thân tự đấu tranh chống suy thoái nhân cách:
Mỗi một cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các quan hệ xã hội ngoài
ngoài việc chịu ảnh hưởng và tác động của môi trường ra, họ còn chịu ảnh
hưởng tác động của nhiều nhân tố khác theo cả hai chiều hướng tích cực và
tiêu cực. Cũng từ đó xuất hiện sự hình thành và phát triển nhân cách tương
đối ổn định và dần đạt tới một trình độ hoàn thiện nhất định, đòi hỏi chủ thể
phải thường xuyên tự đấu trang để chống suy thoái nhân cách.
Trong công tác và trong cuộc sống, nhân cách người lãnh đạo, quản lý
cũng liên tục biến đổi và hoàn thiện dần nhờ cá nhân có ý thức tự rèn luyện,
tích cực hoạt động thực tiễn làm cho nhân cách mình phát triển cao hơn, đáp
ứng những yêu cầu ngày càng cao của công việc, của cuộc sống và của xã hội.
Nhưng trong thực tế, quá trình hình thành nhân cách cũng thường chịu sự tác
động, những thử thách. Cá nhân có thể có những chuyển hướng tiêu cực, có
sự biến đổi những thuộc tính tâm lý cấu thành nhân cách không phù hợp với
chuẩn mực chung của xã hội và có thể đưa đến sự phân ly, suy thoái nhân
cách. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng tác động tiêu cực đối
với tâm lý con người và các nhóm xã hội có chiều hướng gia tăng. Do vậy,
việc tự giáo dục, tự rèn luyện để chống suy thoái nhân cách có vai trò đặc biệt
23
Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Đặng Quang Minh
quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách người lãnh đạo, quản lý giai đoạn
hiện nay.
Trên con đường hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách hiện
nay, mỗi người Việt Nam, trước hết là người lãnh đạo quản lý đều phải có ý
thức giữ gìn và phát huy nhân cách của dân tộc Việt Nam, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại-một nhân cách mẫu mực, giản dị, cao quý và gần gũi, thân
thiết với mỗi người Việt Nam, nhân cách của một con người đã được cộng
đồng quốc tế thừa nhận là anh hùng giải phóng dân tộc và là danh nhân văn
hóa thế giới.
1.1.4.5. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần mở rộng giao lưu, tiếp
nhận thông tin và cần thể hiện rõ bản lĩnh và sự điều chỉnh thích ứng với cơ
chế thị trường.
Nhân cách người lãnh đạo, quản lý thể hiện rõ bản chất xã hội, nó được
hình thành và phát triển trong quan hệ giao tiếp, giao lưu với mọi người. C.Mác
đã chỉ rõ: “Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất
cả các cá nhân khác và nó giao lưu trực tiếp hay gián tiếp với cá nhân đó”.
Nếu có giao lưu, tiếp xúc và trao đổi với người xung quanh mình thì
bản thân người lãnh đạo, quản lý mới hiểu được cán bộ, người cấp dưới…về
những nhu cầu, lợi ích, hứng thú và trình độ của họ. Khi đó, họ mới có thể
phản ánh được yêu cầu, nguyện vọng của mình với lãnh đạo. Không giao tiếp,
giao lưu được với cán bộ, với cấp dưới…người lãnh đạo, quản lý dễ sinh bệnh
quan liêu, những quyết định của họ sẽ khó phù hợp với nhu cầu, lợi ích của
đối tượng bị lãnh đạo, quản lý, do đó khó đạt được kết quả mong muốn và
nhân cách người lãnh đạo, quản lý cũng khó phát triển và hoàn thiện được.
Khi mở rộng quan hệ giao lưu, nâng cao nghệ thuật giao tiếp với càng
nhiều đối tượng sẽ càng giúp cho người lãnh đạo quản lý biết sửa chữa và
24