Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận cao học kinh tế phát triển cải cách hành chính gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.43 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN - SAU ĐẠI HỌC
––––––––––––––––––––––

TIỂU LUẬN
Cải cách hành chính gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế

Giáo viên hướng dẫn: S BÙI QUANG VINH
Sinh viên: HOÀNG MINH KHANG
Lớp: KTPT K22

ĐÀ NẴNG, 02 – 2016

1


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

3

Chương I. Những vấn đề chung về thủ tục hành chính.

4

1.1. Cơ sở lý luận của cải cách hành chính.

4


1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính.

4

1.3. Đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải
cách hành chính.

5

1.4. Mối liên hệ của cải cách hành chính và công cuộc cải
cách khác.

5

1.5. Định hướng phát triển nội dung lý luận về quản lý nhà
nước ở nước ta.

6

Chương II. Đánh giá thực trạng của cải cách hành chính.
2.1. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam.

9

2.1.1. Những ưu điểm.
2.1.2. Những hạn chế, yếu kém.
2.2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém.
Chương III. Cải cách hành chính gắn với đổi mới mô
hình phát triển kinh tế.


KẾT LUẬN

9
9
9
10

13
20

2


LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế hiện nay công cuộc cải cách hành
chính là một trong những nhiệm vụ cấp thiết để thực hiện mục tiêu xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiêp lấy nhân
dân làm gốc.
Bước vào thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của các thành phần kinh tế và thu hút nguồn đầu tư nước ngoài thì
cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá các khâu trong quá trình giải quyết
công việc của cá nhân, tổ chức có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng.Cải
cách hành chính là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một
cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước: lập kế
hoạch, định thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài chính chỉ huy phối hợp; kiểm
tra; thông tin và đánh giá.
Căn cứ vào Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII của BCH Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, cải cách hành chính ở nước ta được hiểu là: “ Trọng tâm
của công cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam”, bao gồm những thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện: Thể
chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính các cấp; và đội ngũ cán bộ công chức hành chính để nâng cao hiệu lực,
năng lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính công phục vụ nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất
nước. Với mong muốn tìm hểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài “Cải cách
hành chính gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế”.
Do thời gian có hạn và kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong sự góp ý chân thành của
thầy.
Em xin chân thành cảm ơn!
3


Phần I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1.1. Cơ sở lý luận của cải cách hành chính.
Hiện nay trên thế giới, về mặt lý thuyết, có nhiều quan niệm khác nhau về
cải cách hành chính. Có quan niệm cho rằng cải cách hành chính là sự cải tổ và
điều chỉnh cơ cấu tổ chức do đó dẫn đến sự thay đổi về chức năng, phương thức
quản lý và cơ cấu nhân viên. Đây là quan niệm có tính phổ biến và chủ đạo nhất.
Song, do quan điểm về ý thức hệ và tình hình thực tế của các nước khác nhau
nên nội dung, mục tiêu cải cách hành chính cũng khác nhau. Tuy vậy, cải cách
hành chính đều xuất phát từ thực tiễn và phát sinh chủ yếu do nguyên nhân sau:
yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu tất yếu của việc cải tạo,

điều chỉnh của cơ cấu hành chính, kết quả tất yếu của sự tác động của tiến bộ
khoa học vào quản lý hành chính. Những yêu cầu của cải cách hành chính liên
quan mật thiết với nội dung cải cách hành chính, đồng thời liên quan chặt chẽ
với tính chất của cải cách hành chính. Về tính chất, cải cách hành chính là một
sự biến đổi hay cách mạng trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc và quan hệ sản
xuất, có tính chất chính trị và giai cấp rõ rệt. Tuy nhiên, từ góc độ hành chính thì
cải cách hành chính phải phục tùng nhu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất xã hội và thúc đẩy khoa học hoá sự quản lý công việc của toàn
bộ hệ thống hành chính nhà nước, nên nó có tính cộng đồng xã hội nhất định.
Từ những phân tích trên đây, cải cách hành chính có thể được hiểu một
cách khái quát đó là: Cải cách hành chính là hoạt động của Chính phủ căn cứ
vào yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị của xã hội mà hiện đại hoá, khoa học
hoá, hiệu suất hoá thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, chế độ công tác, phương
thức quản lý để nâng cao năng suất và hiệu lực hành chính của toàn bộ nền
hành chính nhà nước.
1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính.
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc hết sức mới mẻ, diễn ra
trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính Nhà nước
trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, nên có nhiều vấn đề phải vừa
làm, vừa tìm tòi, tổng kết đúc rút kinh nghiệm. Do vậy, việc hình thành quan
niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng
như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện
4


trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá
trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới. Cho nên, cải cách
hành chính ở Việt Nam vừa có tính chiến lược, vừa có tính chiến thuật giai đoạn,
được xác định trong khuôn khổ cụ thể cần đạt được trong từng giai đoạn nhất

định.
Xây dựng một nền hành chính trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực, sử
dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và công
việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ
đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong
xã hội.
“ Một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện
đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” và đảm bảo xây dựng một
“đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước” (Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17
tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình
tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 -2010).
1.3. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về Cải cách hành
chính
Quan điểm của Ðảng về cải cách nền hành chính nhà nước đã được thể hiện
nhất quán trong các văn kiện Ðại hội đại biểu Ðảng toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII, IX và trong các Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương 2 và 8 (khóa
VII), 3 và 7 (khóa VIII), 6 và 9 (khóa IX). Ðó là quá trình tìm tòi sáng tạo, đổi
mới nhận thức liên tục, thống nhất được khởi đầu từ Ðại hội VI năm 1986 để
hình thành các quan niệm và nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành
chính (CCHC) cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương,
giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Hội nghị lần thứ 8 tháng 01 năm 1995 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ra Nghị quyết: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”.
Điều này được cụ thể hoá trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước như Nghị Quyết số 38-CP ngày 04 tháng 05 năm 1994 của Chính
phủ; Quyết định số 136/2001/QĐ – TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ


5


tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình CCHC nhà nước giai đoạn
2001-2010.
Quyết định số 181/2003/QĐ – TTg ngày 04 tháng 9 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện “một cửa” tại cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương; ...
1.4. Mối liên hệ của cải cách hành chính và công cuộc cải cách khác.
Cải cách hành chính không có mục đích tự thân mà là nhằm mục đích phục
vụ, thúc đẩy sự phát triển ổn định và năng động của toàn xã hội, chủ yếu là triển
khai thực hiện mục tiêu cơ bản là: Phát triển nền kinh tế quốc dân theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cải cách kinh tế là cải cách thể chế kinh tế thực chất của cải cách kinh tế là
cải cách thể chế quản lý kinh tế của Chính phủ. Đây cũng là một trong những
nội dung của cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là khâu mấu chốt, đảm bảo sự thành công của cải cách
kinh tế luôn gắn liền với những thành tựu trong cải cách kinh tế, đổi mới hệ
thống chính trị, cải cách pháp luật và tư pháp
Cải cách hành chính trước hết là cải cách thể chế của nền hành chính, có
mối liên hệ mật thiết phụ thuộc lẫn nhau với cải cách pháp luật và tư pháp.
Những thay đổi trong cải cách hành chính cần phải được đảm bảo thực hiện
bằng hệ thống pháp luật và nền tư pháp, chỉ có cải cách pháp luật mới tạo cơ sở
pháp lý cho cải cách hành chính thành công
Cải cách hành chính cũng chính là thể chế hoạt động của Nhà nước nói
chung và trực tiếp là Chính phủ - một bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế
chính trị. Cải cách hành chính là một trong những bước đi góp phần làm đổi mới
hệ thống chính trị nhưng vẫn phục tùng, phục vụ hệ thống chính trị, và giữ vững
ổn định chính trị.
1.5. Định hướng phát triển nội dung lý luận về quản lý nhà nước ở

nước ta
Do trình độ lý luận về quản lý nhà nước ở nước ta đang trong giai đoạn tìm
tòi, thử nghiệm nên những yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển lý luận trong
thời gian tới là rất cần thiết. Đương nhiên, lý luận về quản lý nhà nước ở nước ta
cũng không thể là sự sao chép các lý thuyết quản lý hành chính và quản lý của
nước ngoài. Nó phải sinh ra từ chính thực tiễn nước ta, được kiểm nghiệm qua
6


thực tiễn sống động của đất nước ta. Mặt khác, lý luận đó cũng phải dự đoán
trước xu hướng phát triển của nền hành chính quốc gia và đặt cơ sở phương
pháp luận cho sự phát triển của nó.
Việc xây dựng hệ thống lý luận về quản lý nhà nước ở nước ta phải dựa
trên những căn cứ sau :
- Nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
hệ thống các quan điểm của Đảng ta. Đây là cơ sở cho sự hình thành nên lý luận
quản lý nhà nước của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó
có nghĩa là chúng ta dựa trên cơ sở nền tảng tư tưởng đó để xây dựng hệ thống
lý luận đặc thù của khoa học hành chính phù hợp với điều kiện thực tiễn của
Việt Nam.
- Các thành quả phát triển của khoa học hành chính trên thế giới. Trong
khoảng một thế kỷ qua, khoa học hành chính trên thế giới đã có những bước
phát triển đáng kể và ngày càng trở thành nền tảng cho hoạt động của bộ máy
nhà nước. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong thời đại ngày nay, nhà nước giữ
vai trò quyết định trong sự phát triển của một quốc gia. Điều đó càng khẳng định
tầm quan trọng của hệ thống lý luận hành chính như cơ sở khoa học cho các hoạt
động của bộ máy nhà nước.
- Thực tiễn của sự nghiệp phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hơn 50 năm qua. Từ khi ra đời đến nay, trải qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau, Nhà nước ta đã từng bước được hình thành và phát triển, đã thực

hiện được vai trò quản lý đất nước trên mọi lĩnh vực, đưa đất nước phát triển lên
một bước đáng kể, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội khá cao
trong thập kỷ qua. Từ những bài học thành công và kinh nghiệm chưa thành
công của hơn 50 năm qua, chúng ta có thể đúc kết được hệ thống lý luận về bộ
máy nhà nước và hoạt động của bộ máy đó phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta.
- Yêu cầu đổi mới hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước nhằm phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Lý luận quản lý nhà nước không thể tách rời mục tiêu phát triển
đất nước, cũng không thể tách rời xu thế hội nhập của thế giới trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay. Chính những mục tiêu này đặt ra các yêu cầu mà lý luận
quản lý nhà nước phải nghiên cứu giải quyết để tìm ra các giải pháp hữu hiệu
cho việc thực hiện các mục tiêu trên.
7


- Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ giai
đoạn từ năm 2001 - 2010. Chương trình này đã đề ra các mục tiêu và nội dung
tổng thể về cải cách hành chính trong giai đoạn tới. Lý luận quản lý nhà nước
phải lý giải và định hướng cho những mục tiêu và nội dung này, tạo cơ sở lý
luận cho việc thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính trong giai
đoạn tới.
Dựa vào những căn cứ nói trên, việc phát triển lý luận về quản lý nhà nước
trong thời gian tới cần hướng vào các nội dung sau :
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân và
chức năng của Nhà nước ta. Trọng tâm của công tác nghiên cứu cần tập trung
làm rõ những nội dung của một nhà nước pháp quyền trong điều kiện xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ hai, làm rõ các nguyên tắc tổ chức và quản lý hành chính nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Những nguyên tắc đề ra không chỉ dừng lại ở nhận thức

chính trị đơn thuần, hoặc chung chung, thiếu cụ thể, mà phải căn cứ vào các
thành quả của khoa học hành chính, khoa học tổ chức và khoa học quản lý đã
được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng mô hình chung về tổ chức bộ máy, xác định
các chức năng của Chính phủ, các ngành, các cấp theo một cơ chế phân cấp phù
hợp. Theo đó, Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước các cấp tập trung
vào chức năng hoạch định chiến lược, chính sách và cung ứng các dịch vụ thuộc
chức năng quản lý hành chính của nhà nước.
Thứ tư, xác định vai trò và nội dung quản lý hành chính mới trong cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhất là, cần nghiên cứu hệ thống thể
chế mới, phù hợp với cơ chế thị trường, định hướng phát triển nền hành chính
nhà nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phù hợp với
xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ năm, tiếp tục tổng kết cải cách hành chính để rút ra những bài học
kinh nghiệm, hoàn thiện chiến lược tổng thể về cải cách hành chính, xác định rõ
mục tiêu, các bước đi cụ thể và các khâu then chốt cho từng giai đoạn cụ thể. Để
khắc phục sự lạc hậu, chậm trễ của công tác lý luận, chúng ta phải đẩy mạnh
tổng kết thực tiễn. Coi đây là một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định
để thúc đẩy sự phát triển của công tác lý luận. Phải đối chiếu với thực tiễn hiện
tại để khẳng định, bổ sung, phát triển lý luận.
8


Thứ sáu, nghiên cứu lý luận về cải cách hành chính theo thiết chế dân chủ.
Phát huy dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới nói
chung, của công cuộc cải cách hành chính nói riêng ở nước ta. Trong lĩnh vực
hành chính, phát huy dân chủ có nghĩa là tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào
các công việc quản lý nhà nước. Vì vậy, công tác lý luận cần tập trung nghiên
cứu xây dựng cơ chế phát huy dân chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước.
Thứ bảy, tìm tòi và phát hiện ra động lực của cải cách hành chính. Trong

cải cách hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức vừa là chủ thể vừa là đối tượng
của cải cách hành chính. Vì vậy, cần nghiên cứu các lý thuyết về quản lý nguồn
nhân lực trong bộ máy hành chính, tạo ra cơ chế sử dụng công chức có hiệu quả
để thúc đẩy đội ngũ này tự cải cách. Nghiên cứu, tìm ra cơ chế ngăn chặn và đẩy
lùi nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí trong bộ máy nhà nước và nâng cao đạo
đức, năng lực của công chức.
Thứ tám, nghiên cứu về quản lý tài chính công như một công cụ quan
trọng để Nhà nước can thiệp vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ chế
phân cấp quản lý tài chính và ngân sách nhằm phục vụ có hiệu quả cho hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Thứ chín, nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước về cải cách
hành chính để tìm ra những bài học có thể áp dụng vào điều kiện nước ta. Trong
những thập kỷ qua, nền hành chính các nước phát triển đã tiến được những bước
khá xa và có nhiều kinh nghiệm. Đó chính là tài sản tri thức mà nhân loại tích
lũy được trong quá trình phát triển. Lý luận hành chính cần nghiên cứu, tham
khảo những kinh nghiệm này và có trách nhiệm sàng lọc, đúc rút ra những bài
học kinh nghiệm có thể áp dụng vào điều kiện nước ta.

9


CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁTHỰC TRẠNG CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. Thực trạng cải cách hành chính ở Việt Nam
Thực hiện chủ trương, chính sách tại các Nghị quyết Đại hội VII, Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Đại hội VIII, các Nghị quyết Trung
ương 3, Trung ương 6 (lần 2) và Trung ương 7 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX, công cuộc cải cách hành chính trong gần 20 năm qua đã góp phần
quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống của đại bộ pbận tầng lớp nhân dân,

làm cho nhân dân tin tưởng hơn vào chếđộ xã hội, dân và chính quyền gắn bó,
thân thiết hơn.
2.1.1. Những ưu điểm.
* Về thể chế hành chính.
Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống các văn bản
chính sách, pháp luật điều chỉnh các quan hệ hành chính, đảm bảo cho bộ máy
hành chính hoạt động thông suốt. Hệ thống thể chế hành chính trên các lĩnh vực
từng bước được đổi mới, trước hết làđã hình thành thể chế kinh tế tương đối phù
hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thể chế hành chính Nhà nước, bao hàm việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật và cơ cấu bộ máy tổ chức đã và đang được cải tiến theo hướng đơn giản, rõ
ràng, tinh gọn, ngày càng rộng mở đối với doanh nghiệp và nhân dân, chặt chẽ
đối với cán bộ, công chức. Các quan hệ kinh tế, dân sự, hành chính được luật
hoá, cởi bỏ thói quen hành động cảm tính, suy luận chủ quan của cán bộ, công
chức khi xử lý công việc, chứng tỏ sự thay đổi về tư duy đó và đang diễn ra rất
tích cực. Hệ thống luật pháp ngày càng chú trọng nguyên tắc công bằng, bình
đẳng giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức, cá nhân chịu sự điều chỉnh.
Thói quen nhờ đỡ các mối quan hệ quen biết để giải quyết công việc cho nhanh
gọn của người dân và doanh nghiệp cũng dần hạn chế bởi các chế định đã quy
định chặt chẽ thời hạn giải quyết công việc và có xu hướng rút dần thời gian
xuống mức thấp nhất.
* Về bộ máy, tổ chức.

10


- Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ
Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương đến ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều
thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước;
- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp

được sắp xếp, điều chỉnh, thay đổi theo hướng tinh gọn hơn. Bộ máy hành chính
từ Trung ương đến cơ sở vận hành phát huy tác dụng, hiệu quả tốt hơn, cùng với
chủ trương hạn chế biên chế từ mấy năm nay, giảm số lượng đầu mối (nơi phát
sinh các thủ tục hành chính) cấp bộ, ngành từ Trung ương đến cơ sở và trong
từng cơ quan, đơn vị. Vấn đề tiền lương cũng được nhìn nhận một cách công
bằng hơn, chế độ tiền lương được cải thiện từng bước trong khả năng của ngân
sách, chính là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện cải cách hành chính.
- Một số cơ quan Nhà nước đó đi tiên phong trong áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo động lực đáng kể trong cải tiến hoạt
động của bộ máy hành chính Nhà nước.
* Về đội ngũ cán bộ, công chức.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ công chức bộ máy hành chính nhà nước đã được
nâng lên về mọi mặt, cả về trình độ chính trị lẫn chuyên môn. Việc quản lý, sử
dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo các quy định của Pháp
lệnh Cán bộ, công chức: từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen
thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chếđộ, chính sách tiền lương bước đầu
được cải cách theo hướng tiền tệ hóa. Nhận thức của phần lớn cán bộ, công chức
Nhà nước đã có sự thay đổi cơ bản, từ cách tư duy hành chính theo kiểu ''hành
dân'' đó chuyển sang tư duy ''phục vụ''. Sự tiến bộ trong nhận thức đó trực tiếp
tác động đến lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức từ cấp lãnh đạo
đến nhân viên khi thi hành công vụ. Việc tiếp công dân và giải quyết các khiếu
nại của dân được coi trọng hơn. Các cuộc gặp gỡ và giải đáp vướng mắc, kiến
nghị của doanh nghiệp đã được tổ chức thường xuyên ở nhiều cơ quan, được cấp
lãnh đạo cao nhất tham dự, đã giải quyết trực tiếp các kiến nghị trong khuôn khổ
pháp luật quy định.
2.1.2. Những hạn chế, yếu kém.
Cải cách nền hành chính nhà nước đã tiến hành được nhiều năm, tuy
nhiên, vẫn còn mang nặng dấu ấn, “tàn dư” của cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi phải có cơ chế quản lý
thích hợp thực tiễn, công cuộc đổi mới toàn diện, dân chủ hoá các mặt của đời

11


sống xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiệm hội nhập sâu, rộng kinh tế nước ta với nền kinh tế toàn cầu; yêu cầu phát
triển một nền hành chính lấy mục đích phục vụ nhân dân, vì dân, cũng như hiệu
lực, hiệu quả quản lý hành chính chưa cao.
* Về thể chế hành chính.
Mặc dù hệ thống thể chế hành chính đãđược các cấp, các ngành tích cực
ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý
hành chính và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống thể chế hành chính
vẫn còn nhiều điểm chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục
hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa
nghiêm. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiêu khê, đòi hỏi quá nhiều
giấy tờ, phải qua nhiều cửa, nhiều dấu, nhiều tầng nấc trung gian, đồng thời
thiếu thống nhất, tuỳ tiện thay đổi và thiếu công khai đã gây phiền hà cho nhân
dân, nhất là những người ít hiểu biết về thủ tục hành chính. Hệ thống các thủ tục
hành chính đã cản trở, gây phiền hà cho nhân dân trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác quốc tế, gây ra tệ
cửa quyền, tệ giấy tờ trong guồng máy hành chính và là ''miếng đất'' thuận lợi
cho nạn tham nhũng, lãng phí, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền.
ý thức chấp hành pháp luật hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức còn
yếu, quen giải quyết công việc theo ''lệ'' chứ chưa theo luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa chưa được đảm bảo.
*Về tổ chức, bộ máy hành chính.
- Bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cửa,
nhiều dấu, chức năng của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng, nhiều
khi cản trở lẫn nhau, hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính. Có lĩnh
vực thìôm đồm, bao biện, có lĩnh vực và có nơi thì buông lỏng quản lý, dẫn đến
một số cá nhân lợi dụng để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và

nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ,
sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch, triệt để,
cụ thể và phù hợp. Tình trạng chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cùng
cấp, cấp trên và cấp dưới còn chồng chéo, nhiều khi hạn chế lẫn nhau, dẫn đến
hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp.

12


- Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với
dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng,
bịđộng khi xử lý các tình huống phức tạp.
- Phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân
tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ
công;
* Về đội ngũ cán bộ, công chức.
Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần
trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc
chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra
nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế; ý thức nghề nghiệp chưa cao, tôn trọng kỷ luật lao động còn
yếu; đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ công chức bị suy thoái; thái độ
phục vụ nhân dân còn thấp, một bộ phận cán bộ công chức tồn tại thái độ thờ ơ,
''lãnh cảm'' với dân, đặt mình ở vị thế ban phát quyền lợi cho dân. Những vấn đề
đó đó làm chính quyền ngày càng xa dân, giảm lòng tin của dân đối với chính
quyền... Về số lượng thì có nơi, có lĩnh vực thừa và ngược lại, có nơi, có lĩnh
vực thì thiếu; thiếu đội ngũ cỏn bộ công chức có chất lượng cao, tận tụy với

nghề, vừa hồng vừa chuyên;tình trạng cán bộ nhiều nhưng chất lượng hoạt động
chẳng bao nhiêu, chưa có trình độ ngang tầm nhiệm vụ, bố trí chưa đúng người
đúng việc, bằng cấp và năng lực chưa tương ứng với chức danh v.v...

2.2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém.
Thực trạng hạn chế, yếu kém cải cách hành chính ở nước ta trong thời
gian qua do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra.
- Một là, nhận thức của cán bộ, công chức về vai trò và chức năng quản lý
của Nhà nước, về xây dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính
nhà nước trong tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống
nhất, còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ, còn nhiều
chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung,
quan liêu bao cấp chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế.
13


- Hai là, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính chưa được
tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, cải cách hành chính chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động
lập pháp và cải cách tư pháp.
- Ba là, cải cách hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích cục
bộ của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước ở trung ương vàđịa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp còn đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm của không ít cán bộ, công chức; cuộc cải
cách chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng.
- Bốn là, các chếđộ, chính sách về tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn
nhiều điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc cải cách.
- Năm là, những thiếu sót trong công tác chỉđạo của Chính phủ, các Bộ,
ngành trung ương vàủy ban nhân dân các địa phương trong việc tiến hành cải
cách hành chính; sự chỉđạo thực hiện các chủ trương đãđề ra thiếu kiên quyết và

chưa thống nhất.
- Sáu là, cải cách hành chính diễn ra chậm, thiếu sự kiểm tra, đánh giá sát
sao; nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh từđội ngũ cán bộ, công chức từ cấp cao
đến cấp cơ sở chậm được phát hiện xử lý nghiêm minh, kịp thời. Hiện tượng
phát sinh tiêu cực cả một tập thể, ngay từ chính những cán bộ chủ chốt cảở hệ
thống bộ máy Đảng và chính quyền có nơi, cóđịa phương xả ra trầm trọng, gây
bất bình trong dư luận, giảm lòng tin của nhân dân vào chếđộ.

14


CHƯƠNG III:
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ.
Bất kỳ hoạt động nào của Nhà nước đều phải đặt trong mối quan hệ với
các quan hệ kinh tế, cải cách hành chính cũng được đặt ra trong mối quan hệ
chặt chẽ với cải cách kinh tế với từng bước đi và từng lĩnh vực, trên từng địa bàn
nhằm tạo ra sự ăn khớp và thúc đẩy lẫn nhau giữa cải cách hành chính và đổi
mới cơ cấu quản lý kinh tế.
Việc triển khai các hoạt động kinh tế cũng cần được thực hiện bằng hệ
thống thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật (thủ tục hành chính) và hệ
thống thứ bậc hành chính mà chủ thể vận hành là công chức, viên chức Nhà
nước. Mặt khác, hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền từ Trung
ương đến địa phương cũng là tác nhân trực tiếp làm cho nền kinh tế tăng trưởng
hay suy thoái. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong đó là bộ máy cồng
kềnh, nhiều tầng, nấc, quản lý không thông suốt, chưa có cơ chế, chính sách tài
chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức làm dịch vụ công sẽ không chỉ tạo điều kiện cho tệ tham nhũng, quan liêu
trong bộ máy Nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư, tạo
ra sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, phá vỡ tính đồng bộ của nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cải cách thể chế hành chính trong thời gian tới phải tập trung vào việc đổi
mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động
theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối
với doanh nghiệp.
Đảng ta đã đặt ra mục tiêu dân chủ hoá trong bộ máy Nhà nước để giải
quyết mối quan hệ giữa cải cách hành chính với vấn đề kinh tế nêu trên. Theo
nguyên lý tổ chức bộ máy Nhà nước của đa số các nước trên thế giới cũng như
trong Hiến pháp của Việt Nam, cải cách hành chính gắn liền với mục tiêu xã hội,
nó không chỉ dừng lại ở việc thu hút nhân dân vào qúa trình thực hiện các vấn đề
của Nhà nước mà bản thân các cơ quan Nhà nước phải thực hiện nguyên tắc dân
chủ thực sự, hướng về cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân quyết định những công
15


việc lớn, hệ trọng của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh.
Bối cảnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế tại Việt Nam:
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội. Với tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân hơn 7%, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên
trở thành nước có thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người đạt 1.375
USD năm 2011). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch phù hợp với mục tiêu công
nghiệp hóa-hiện đại hóa, các ngành công nghiệp và dịch vụ đã chiếm gần 80%
tỷ trọng GDP vào năm 2010. Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại như xuất khẩu, thu
hút FDI, xuất khẩu lao động, du lịch… được chú trọng phát triển và có đóng góp
quan trọng vào tăng trưởng GDP.

Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2010:
Trong lĩnh vực xã hội, Việt Nam là một trong những quốc gia triển khai
hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ
đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ mức hơn 50% vào đầu thập niên 90 xuống
còn gần 12% năm 2011. Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu
Phát triển Thiên Niên kỷ (MDGs) và được cộng đồng quốc tế đánh giá là một
trong những điển hình sử dụng thành công các nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức cho các mục tiêu phát triển xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng đứng trước nhiều
thách thức to lớn trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa 20112020. Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn những hạn chế
nhất định, hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng từ 6,6 giai đoạn 2001-2005 lên 8
trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, Việt Nam phải đối phó với một số vấn đề về
ổn định kinh tế vĩ mô, đáng chú ý là lạm phát có xu hướng tăng cao trong một số
thời điểm nhất định như các năm 2008 và 2011. Thứ ba, tỷ lệ đói nghèo tại một
số vùng, miền còn cao và chênh lệch khoảng cách phát triển giữa đô thị và nông
thôn còn lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức từ những
biến động phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008-2009.
Trên thế giới, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đã góp phần đẩy
nhanh quá trình tái cấu trúc kinh tế thế giới với những đặc trưng chủ yếu, đó là:
(i) Chuyển đổi tư duy phát triển từ chú trọng tốc độ tăng trưởng kinh tế sang
16


tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện; (ii) Chuyển đổi mô hình kinh tế ở cấp
độ quốc gia, trong đó ưu tiên các mô hình kinh tế mang tính bền vững và thân
thiện với môi trường, ví dụ như kinh tế xanh, các chính sách kinh tế gắn với an
sinh xã hội và tạo việc làm; (iii) Chuyển dịch các mạng lưới sản xuất và chuỗi
giá trị với sự nổi lên của khu vực Châu Á-Thái Bình Dường; (iv) Tăng cường
các hình thức liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, chú trọng yếu tố kết nối giữa

các nền kinh tế. Xu hướng tái cấu trúc kinh tế thế giới một mặt tạo ra cơ hội to
lớn để các nền kinh tế điều chỉnh các chính sách phát triển theo hướng bền vững
và tham gia sâu, hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc tế. Mặt khác, các
nền kinh tế không có khả năng thích nghi với những điều chỉnh sẽ đứng trước
nguy cơ tụt hậu.
Từ những đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế và phù hợp với xu hướng tái
cấu trúc kinh tế thế giới, Việt Nam đã xác định tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững là một trong những trọng tâm
phát triển kinh tế-xã hội. Chủ trương này được cụ thể hóa bởi Đề án tổng thể tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng được thông qua vào
tháng 2/2013 cùng với các Đề án chuyên biệt tái cơ cấu một số lĩnh vực chủ chốt
của nền kinh tế.
Nội dung tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
1/2011) đã thông qua chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo
chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ
cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp
với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị
trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát
triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh”. Chủ trương này
được cụ thể hóa thông qua 12 giải pháp chủ đạo.
Các giải pháp chủ đạo đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
giai đoạn 2011-2020:
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
17



2. Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh
3. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững
4. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh
5. Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông
6. Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn
mới
7. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển
kinh tế
8. Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc
sức khoẻ nhân dân
9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo
10. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá
trình phát triển nhanh và bền vững
11. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu
quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai
12. Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo
đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Trước mắt, trong giai đoạn 2013-2015, ưu tiên chính của Chính phủ Việt
Nam là thực hiện Đề án tổng thể về tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng. Quan điểm về tái cơ cấu được xác định rõ trong Đề án tổng thể
của Chính phủ Việt Nam như sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà
nước và thị trường; nâng cao năng lực và hiệu lực quản trị quốc gia, phát huy vai
trò kiến tạo và hỗ trợ phát triển của Nhà nước thông qua các cơ chế, chính sách,

đòn bẩy kinh tế, giảm thiểu sử dụng các biện pháp can thiệp hành chính.
Hai là, kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề quan trọng, cấp bách
với các vấn đề cơ bản, dài hạn, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; ưu tiên
18


mục tiêu trung và dài hạn, chất lượng tăng trưởng; gắn với kiểm soát lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, thúc đẩy phát huy lợi thế cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, vùng
kinh tế và của các địa phương; coi trọng và phát huy các lợi thế về nông nghiệp,
phát triển mạnh kinh tế dịch vụ, du lịch; tiếp tục mở cửa, tích cực và hội nhập
quốc tế…
Về nội dung tái cơ cấu, ba lĩnh vực trọng tâm được xác định bao gồm tái
cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu hệ thống tài chính-ngân hàng, trọng tâm là các
ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước.
Về tái cơ cấu đầu tư công, các biện pháp triển khai bao gồm cắt giảm các
khoản chi chưa cần thiết, thực hành tiết kiệm; theo đó, sẽ huy động hợp lý các
nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng 30 - 35%
GDP, duy trì ở mức hợp lý các cân đối lớn của nền kinh tế như: tiết kiệm, đầu tư
và tiêu dùng, ngân sách nhà nước, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc
tế, nợ công và nợ nước ngoài quốc gia...
Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, trong giai đoạn 2013 – 2015
các biện pháp tập trung vào lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các tổ chức
tín dụng, trước hết tập trung xử lý nợ xấu của cả hệ thống các tổ chức tín dụng
và từng tổ chức tín dụng, tập trung phát triển các hoạt động kinh doanh chính,
bảo đảm khả năng thanh toán, chi trả và phát triển ổn định, bền vững, tập trung
xử lý tình trạng sở hữu chéo và tăng tính minh bạch trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Một nội dung quan trọng khác là cơ cấu lại căn bản, triệt để và
toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ

thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu
quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình...
Về tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước: sẽ thực hiện phân loại, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tập trung
vào các lĩnh vực chính gồm công nghiệp quốc phòng, các ngành, lĩnh vực công
nghiệp độc quyền tự nhiên hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và một số
ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn; đẩy mạnh cổ
phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không
cần nắm giữ 100% sở hữu... Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân; khuyến khích hình
19


thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Do tầm quan trọng đặc biệt của nội dung tái cơ cấu kinh tế, Chính phủ
Việt Nam đã yêu cầu các Bộ/ngành, địa phương và các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước phải xây dựng chương trình hành động triển khai Đề án tổng thể tái cơ
cấu. Đồng thời, bên cạnh Đề án tổng thể, Chính phủ Việt Nam cũng đã phê
duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước vào tháng 7/2012.
Kết quả bước đầu và một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình tái cơ cấu
kinh tế
Sau hơn 2 năm triển khai chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, tuy gặp phải nhiều thách thức song
Việt Nam đã đạt được một số kết quả bước đầu trong các lĩnh vực tái cơ cấu.
Trong lĩnh vực tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, các Bộ/ngành liên quan đã
tích cực rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và mô hình thực hiện
chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý của chủ sở hữu đối với
DNNN. Quá trình tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN
đang được đẩy mạnh, tới nay đã có trên 50 tập đoàn, tổng công ty nhà nước xây

dựng Đề án tái cơ cấu, trong đó hơn 30 Đề án đã được phê duyệt. Tiến trình cổ
phần hóa, sắp xếp lại các DNNN – một trong những giải pháp chủ đạo tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước – tiếp tục được chú trọng, theo đó trong giai đoạn 20112015, sẽ có 899 DNNN thực hiện các hình thức sắp xếp, cổ phẩn hóa.
Trong lĩnh vực tái cơ cấu ngân hàng, một trong những nội dung được đặc
biệt quan tâm là giải quyết nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở
tiếp thu kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với nhu cầu giải quyết nợ xấu của Việt
Nam, Chính phủ đã quyết định thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam
(VAMC) là định chế có chức năng giải quyết nợ của các tổ chức tín dụng. Đồng
thời, nhiều biện pháp đồng bộ khác đã được triển khai, bao gồm rà soát, đánh
giá, phân loại các khoản nợ xấu; yêu cầu các tổ chức tín dụng trích lập quỹ dự
phòng rủi ro và sử dụng quỹ để xử lý nợ xấu. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà
nước, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng trên tổng dư nợ đã giảm
từ 8% trong năm 2012 xuống khoảng 6% hiện nay.
Đáng chú ý, những kết quả nêu trên đạt được trong bối cảnh kinh tế Việt
Nam đạt được những cải thiện quan trọng trên khía cạnh ổn định vĩ mô. Lạm
phát của Việt Nam từ mức hai con số năm 2011 đã giảm xuống mức dưới 7%
20


năm 2012 và tiếp tục ổn định trong năm 2013; một số chỉ số vĩ mô khác như lãi
suất, tỷ giá… cũng cơ bản ổn định. Điều này cho thấy tiến trình tái cơ cấu kinh
tế tại Việt Nam bước đầu được triển khai tương đối “suôn sẻ”, không gây ra
những “xáo trộn” về ổn định kinh tế vĩ mô.
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, tiến trình tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững sẽ tiếp tục được triển khai
trong thời gian tới. Trong tiến trình này, có một số vấn đề cần được lưu ý như
sau:
Một là, thực hiện quyết liệt và đồng bộ các biện pháp tái cơ cấu trong cả ba
lĩnh vực tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu tài chính-ngân hàng và tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, do ba lĩnh vực này có sự gắn kết và phụ thuộc chặt chẽ

lẫn nhau. Đặc biệt, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được đánh giá là nội dung
cần được đặc biệt chú trọng do vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế và hiệu quả mà tiến trình này có thể mang lại đối với các lĩnh vực tái cơ
cấu còn lại.
Hai là, gắn kết hài hòa giữa tái cơ cấu kinh tế với các biện pháp chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, nói cách khác là giữa chủ trương, biện pháp tái cơ cấu kinh
tế với các chính sách liên quan đến chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ví dụ như
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến
năm 2050. Đồng thời, tiến trình tái cơ cấu kinh tế cần gắn kết chặt chẽ với việc
thực hiện ba khâu đột phá chiến lược giai đoạn 2011-2020 đó là: hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh
tranh bình đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa họccông nghệ; và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và đô thị lớn.
Ba là, gắn kết giữa tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng với
tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, do hội nhập quốc tế có thể đóng vai trò
tích cực giúp thu hút nguồn lực (vốn, công nghệ, tri thức…) cho tái cơ cấu kinh
tế. Đồng thời, tái cơ cấu kinh tế hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội, từ đó tạo cơ sở thuận lợi cho hội nhập quốc tế. Sau hơn 25 năm Đổi mới,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hội nhập quốc tế, bao
gồm thiết lập quan hệ thương mại-đầu tư với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ; trở
thành thành viên của nhiều diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế quan trọng như
các cơ chế tiểu vùng Mê Công, ASEAN, hợp tác Đông Á, APEC, ASEM,
21


FEALAC, WTO… đồng thời đang tích cực tham gia tiến trình đàm phán nhiều
Hiệp định Thương mại tự do quan trọng như Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP)… Đây là cơ sở quan trọng cho việc tăng cường sự gắn kết giữa hội nhập
quốc tế với tái cơ cấu kinh tế trong thời gian tới.
Tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và các nước thành viên FEALAC trong

tiến trình tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
bền vững
Trong những thập kỷ vừa qua, nhiều nước thành viên Diễn đàn hợp tác
Đông Á-Mỹ La tinh (FEALAC) đã đạt được nhiều thành tích hết sức ấn tượng
về phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Bất chấp những tác động của
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, nhiều nước thành viên FEALAC vẫn
duy trì mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng, góp phần đưa khu vực Đông Á và Mỹ
La tinh trở thành những “đầu tàu” tăng trưởng của kinh tế thế giới. Đông Á và
Mỹ La tinh nằm trong số những khu vực năng động nhất xét về khía cạnh hội
nhập và liên kết khu vực với nhiều cơ chế và khuôn khổ hợp tác khu vực hiệu
quả.
Quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và các nước FEALAC trong
thời gian qua không ngừng được tăng cường và củng cố. Một số nước thành viên
FEALAC là những đối tác chiến lược của Việt Nam. Trong lĩnh vực kinh tế, các
nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước ASEAN và một số quốc
gia Mỹ La tinh là những đối tác thương mại hàng đầu, đồng thời là các địa bàn
cung cấp nguồn vốn FDI quan trọng cho Việt Nam. Giữa Việt Nam và các nước
đã hình thành nhiều khuôn khổ hợp tác kinh tế quan trọng, trong đó có thể kể
đến các cơ chế ủy ban liên chính phủ, các hiệp định/thỏa thuận về thương mạiđầu tư-tài chính..., các cơ chế hợp tác giữa các doanh nghiệp… Đây là những
tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác với
các nước FEALAC trong thời gian tới.
Liên quan đến nội dung tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, Việt Nam và các nước thành viên FEALAC có thể thúc đẩy hợp tác
trong một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất, trao đổi kinh nghiệm tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng bền vững. Như đã nêu, nhiều nước FEALAC có kinh nghiệm
thực tiễn trong việc chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng nhằm duy trì
tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao, đồng thời đối phó với nguy cơ khủng hoảng tài
22



chính và giải quyết các vấn đề xã hội. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 20082009, một số nước thành viên FEALAC cũng đã thực hiện chuyển đổi mô hình
tăng trưởng với những thành công nhất định. Về phía mình, Việt Nam có thể
chia sẻ những kinh nghiệm tiến hành cải cách kinh tế trong hơn 25 năm Đổi
mới, bao gồm triển khai các nội dung tái cơ cấu trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, tăng cường hợp tác kinh tế, nhất là trên các lĩnh vực có khả năng
bổ trợ lẫn nhau giữa các nước như trao đổi thương mại, thúc đẩy FDI, hợp tác
khoa học-công nghệ… qua đó phục vụ các nội dung chuyển đổi mô hình tăng
trưởng của các nước.
Thứ ba, đóng góp vào nội dung hợp tác kinh tế trong khuôn khổ diễn đàn
FEALAC, bao gồm nội dung hợp tác giữa các nước liên quan đến tái cơ cấu
kinh tế. Việc tổ chức các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm giữa các nước FEALAC
tương tự như Hội thảo “Kinh nghiệm của các nước FEALAC về chuyển đổi mô
hình tăng trưởng theo hướng bền vững” có thể tạo cơ hội tốt để các nước
FEALAC trao đổi, nắm bắt những bài học bổ ích về chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, đồng thời tăng cường khả năng hợp tác với các tổ chức quốc tế trong
tiến trình quan trọng này.
(theo Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo
hướng bền vững tại Việt Nam - Vụ Tổng hợp Kinh tế - Bộ Ngoại giao nước
CHXHCN Việt Nam)

23


KẾT LUẬN
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế, yếu tố
quyết định chính là nâng cao năng suất lao động, do vậy nâng cao năng suất lao
động là yếu tố “sống còn” đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Theo đó, Chính phủ cần có biện pháp hướng các doanh nghiệp đầu tư phát triển
các lĩnh vực thâm dụng khoa học công nghệ, hàm lượng chất xám trong hoạt

động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan
trọng của đầu tư cho khoa học công nghệ và nâng cao năng lực lựa chọn công
nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mở rộng các hình thức hợp tác, thu
hút mọi sáng kiến khoa học công nghệ trong và ngoài nước, nhằm phục vụ cho
nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, sự phối hợp nhịp nhàng có hiệu
quả giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng cần được củng cố và
tăng cường trong năm 2015. Chính sách tài khóa trong thời gian tới cần kiên
quyết hơn trong mục tiêu giảm bội chi ngân sách, điều chỉnh cơ cấu chi cho phù
hợp hơn và kiểm soát chặt chẽ các khoản đầu tư công. Đây là các giải pháp góp
phần ổn định các cân đối vĩ mô, hỗ trợ tích cực cho chính sách tiền tệ, nhằm đưa
nền kinh tế phát triển bền vững.
Đổi mới tư duy phát triển kinh tế-xã hội, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay không chỉ là yêu cầu cấp thiết
để tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, mà còn là sứ mệnh của Đảng tại
Đại hội lần thứ XII sắp tới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN mặc
dù còn tiếp tục phải nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo hướng đến mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó phải là một thể chế kinh tế có
khả năng dung hợp, cho phép và khuyến khích sự tham gia của đại đa số dân
chúng vào các hoạt động kinh tế, sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ của họ và
giúp các cá nhân thực hiện những lựa chọn họ muốn.
Tóm lại, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2015 và các năm tiếp theo phụ
thuộc rất nhiều vào các quyết sách và công tác điều hành vĩ mô của Chính phủ.
Đẩy mạnh cải cách thể chế, kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi,
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vẫn phải là giải pháp đột phá và có
ý nghĩa quyết định để nền kinh tế đất nước có bước phát triển mới trong năm
2015 và các năm tiếp theo./.

24



25


×