Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI PHẦN VĂN HÓA XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.66 KB, 33 trang )

ĐƯỜNG LỐI – VĂN HÓA
Câu 1: Hãy phân tích quan điểm: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong
xây dựng văn hóa, trọng tâm là xây dựng con người có nhân cách, lối sống
tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo” (Nghị quyết 33, Hội Nghị TW9, Khóa XI)
*MB* Qua 30 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa đã có bước phát
triển quan trọng, trở thành cơ sở chỉ đạo thực tiễn phát triển văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam. Từ năm 1986, Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan
điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới quan điểm giản dị nhưng sâu sắc:
Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển
chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm
giàu đẹp cuộc sống. Đó là tầm nhìn sâu, mới, toàn diện, bao quát hơn về vị trí của
văn hóa, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, gắn bó mật thiết
với mọi mặt đời sống.
1. Khái niệm:
Văn hóa: Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội, được
kế thừa, trao truyền và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự khác biệt
giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
lại trong lao động, tạo nên bản sắc của từng cộng đồng, quốc gia, dân tộc. nói một
cách ví von, văn hóa chính là “thiên nhiên thứ hai” do con người sáng tạo ra làm
thành các giá trị vĩnh hằng của nhân loại, là nền tảng tạo nên bản lĩnh, sắc thái, cốt
cách của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nói đến văn hóa là nói đến con người, là nói tới việc phát huy những năng lực
bản chất của con người nhằm hoàn thiện bản thân con người và hoàn thiện xã hội.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên mọi
tiềm năng sáng tạo của con người.
Trên cơ sở hoàn thiện, bổ sung 5 quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con


người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã hình thành quan
điểm chỉ đạo rất đặc sắc – đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn
hóa của Đảng ta đó là: quan điểm: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân
cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây
dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo.
Quan điểm này được bổ sung mới so với NQTW5 nhằm khẳng định yếu tố con
người luôn giữ vai trò quyết định sự phát triển của một quốc gia, dân tộc; do đó
nước nào cũng chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng con người. Vì vậy, việc
bổ sung quan điểm này trong NQTW9 là hết sức đúng đắn và kịp thời, khằng định
luận điểm văn hóa phải gắn với con người, con người là nhân tố trung tâm. Đặt ra
vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa bởi:
1. Do mặt trái của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đang làm tổn hại, thậm chí
tha hóa một số phẩm chất truyền thống cao quý của con người Việt Nam. Đó là
những phẩm chất đã giúp chúng ta vượt qua mọi thiên tia, địch họa để tồn tại và
phát triển. hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, thực trạng văn hóa nước ta đã xuất


hiện một số yếu tố tích cực, đồng thời cũng nẩy sinh một số mặt phức tạp, tiêu
cực tác dộng đến nhiệm vụ xây dựng con người, dẫn đến tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội và đang có chiều
hướng gia tăng; một số phẩm chất truyền thống giờ đây không còn phù hợp,
đang trở thành vật cản của sự phát triển, đòi hỏi có sự thay đổi, bổ sung.
2. Đặt ra yêu cầu xây dựng văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa sẽ khắc phục được tình trạng tách rời yếu
tố con người với yếu tố văn hóa. Đồng thời, quan điểm này cũng xác định cụ thể
những phẩm chất đặc trưng của con người Việt Nam mà chúng ta phải xây dựng
để phù hợp với công cuộc CNH, HĐH đát nước và hội nhập quốc tế.
Để xây dựng con người theo quan điểm của Nghị quyết đề ra, trước hết cần có

một quan niệm đầy đủ và nhất quán về khái niệm văn hóa, con người làm cơ sở cho
việc kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa tiếp nhận có chọn lọc để bổ sung,
phát triển những tiêu chuẩn, giá trị mới mà người Việt Nam còn thiếu nhằm đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập thế giới hiện nay. Thực tế Việt Nam cũng như các
nước châu Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo cùng với văn minh nông nghiệp lúa nước
và tư tưởng tiểu nông nên cần thiết có sự tiếp thu, bổ sung những phẩm chất của
nền văn minh đô thị, tác phong công nghiệp để có điều kiện phát triển nhanh hơn.
Tuy nhiên, việc tiếp nhận phải có sự chọn lọc hết sức kỹ lưỡng vừa phù hợp với văn
hóa Việt Nam, vừa theo kịp xu thế phát triển của thời đại. Những phẩm chất tốt đẹp
của con người Việt Nam như lòng yêu nước và tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc; sự
cần cù, thông minh, sáng tạo; lòng khoan dung độ lượng, tinh thần đoàn kết, tính
cộng đồng, yêu chuộng hòa bình… được hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ
nước cần được trân trọng, phát huy.
Hơn nữa, xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng con người, con người là
trung tâm, nhưng vấn đề then chốt trong xây dựng con người là phải xây dựng hệ
giá trị mà trong đó vừa giữ gìn, phát huy được những giá trị truyền thống vừa tiếp
thu những giá trị mới của con người hiện đại. Con người ngày nay phải là con người
có bản lĩnh, mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những
quyết định của mình, không a dua, xu nịnh, ngại va chạm, trốn tránh trách nhiệm;
có trí tuệ, có tư duy và tác phong công nghiệp, sống và làm việc theo pháp luật để
xây dựng xã hội tiến bộ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất
nước. Hạt nhân của hệ giá trí con người Việt Nam hướng tới là “con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”
Lòng yêu nước là tình yêu gia đình , quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng
đem hết khả năng của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Đặc biệt, khi đất nước lâm
nguy, lòng yêu nước lại trỗi dậy hơn bao giờ hết, nó có sức mạnh tự thân để đoàn
kết, tập hợp mọi người đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.Như vậy, yêu nước không chỉ lả
tình yêu đơn thuần mà phải có trách nhiệm với đất nước, với Tổ quốc mình,luôn tâm
niệm “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm

nay”.
Yêu nước luôn là việc làm, hành động được Đảng , Nhà nước và nhân dân ta
hoan nghênh, ủng hộ và tiếp nhận. Chính vì thế, mỗi người phải thật sự tỉnh táo,
sáng suốt để nhìn nhận vấn đề cho thật đúng đắn nhất, là sao chúng ta thể hiện
lòng yêu nước của mình cho hợp lý, phù hợp và có ý nghĩa.
Đặc tính thứ 2 đó là lòng nhân ái. Nhân là người, ái là thương yêu .Vậy lòng
nhân ái là tình thương yêu của con người với con người trong cộng đồng được thể


hiện bằng quan tâm, chăm sóc ,giúp đỡ, sẻ chia khi người khác bị gặp phải chuyện
bất trắc.
Lòng nhân ái không phải là những điều gì quá xa xôi.Nó tồn tại ngay trong
chính cuộc sống của mỗi người. Từng biểu hiện của chúng ta dành cho nhau, cử chỉ,
lời nói, hành động hay chỉ là cảm xúc dành cho nhau. Dù nó giản dị nhưng cũng đã
khiến cho trái tim nhau trở nên ấm áp hơn bao nhiêu. Mỗi người cần phải có trách
nhiệm và thái độ tích cực để cùng xây dựng và phát triển xã hội.
Tục ngữ có câu “Lá lành đùm lá rách” hay “Một con ngựa đau cả đàn bỏ cỏ”.
Tình yêu thương giữa con người với con người là điều cần thiết để có thể giúp đỡ,
chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với nhau.
Hằng năm, trên mảnh đất miền trung phải hứng chịu biết bao nhiêu trận bão
lũ.Để đồng hành với những nỗi đau đó cũng như nhằm gáng vác những thương tổn
mà thiên nhiên gây ra, nhiều tổ chức và quỹ từ thiện đã tiếp tế lương thực cũng như
động viên tinh thần để họ sớm ổn định lại cuộc sống.Xung quanh chúng ta còn rất
nhiều mảnh đời bất hạnh nghèo khó. Họ cần sự san sẻ, giúp đỡ bằng hành động chứ
không phải bằng lời nói.
Tuy nhiên, trong xã hội còn tồn tại những người chỉ biết sống riêng mình, không
biết giúp đỡ nhiều người xung quanh. Làm việc gì chỉ quan tâm đến lợi ích của bản
thân.Họ thật đáng chê trách.
Đặc tính thứ 3 là sống nghĩa tình.Nghĩa là ngay thẳng ,không có tư tâm, không
làm việc bậy.Tình là tình đồng chí ,đồng đội…tình yêu quê hương đất nước…

Sống có tình là yêu mến gắn bó giữa người với người, bằng sự tử tế ,tế nhị,
duyên dáng, dễ cảm, dễ mến trong đời sống tình cảm của con người ,vui và buồn
,yêu và ghét, giận và sợ cùng những ham muốn.Cả tình cảm và nhu cầu của con
người đều có nguồn gốc xã hội và mang tính lịch sử, tức là nó chịu sự định hướng
,điều chỉnh bởi các chuẩn mực xã hội ,cái mà ta gọi là nghĩa.Nghĩa được coi là hợp lẽ
phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội, nghĩa còn là quan
hệ tình cảm thuỷ chung, phù hợp với những quan điểm đạo đức nhất định.Nghĩa
trước hết là nghĩa vụ.Ngược lại,là vô tâm, vô tình ,vô cảm, thờ ơ, hững hờ, bạc
nghĩa, ăn cháo đá bát, rút ván qua cầu.
Đặc tính thứ 4 là trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lý, lẽ phải,
sống ngay thẳng , thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Trung
thực là đức tính cần thiết và quý báu của mỗi người. Sống trung thực giúp ta nâng
cao phẩm giá, lành mạnh các mối quan hệ xã hội và sẽ được mọi người tin yêu, quý
mến, kính trọng.Để thể hiện lòng trung thực tục ngữ ta có câu: “cây ngay không sợ
chết đứng “ hay “Ăn ngay nói thẳng”.Là một đức tính tốt đẹp của con người chúng
ta. Chính vì thế mà chúng ta nên rèn luyện và giữ gìn nó .Ngược lại là giả dối, sợ
hãi,ích kỷ chỉ biết đến quyền lợi cá nhân của mình, đạo đức giả.
Bên cạnh những người biết hoàn thiện bản thân để trở thành công dân tốt còn
có những người có biểu hiện thiếu trung thực. Chúng ta cần phê phán và lên án, đó
là nạn học giả bằng thật, thiếu trung thực trong kinh doanh,chất lượng sản phẩm
kém ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng như: các loại sữa có chứa chất
độc hại melamine, nước mắm chứa chất ure6 độc tố, các loại rau, quả bị tiêm nhiễm
các loại hoá chất vì lợi nhuận của bản thân họ.
Các căn bệnh này đã khiến xã hội xuống cấp, đạo đức người dân bị hạ thấp,
phá bỏ những nét đẹp truyền thống của dân tộc.
Trong công việc, trong chính trị những người thiếu trung thực vẫn thường lợi
dụng lòng tin của mọi người để trục lợi cá nhân, lừa đảo kiếm tiền hay tham nhũng,
che dấu tội ác trước pháp luật.



Không trung thực chính là nguyên nhân, mầm móng các tiêu cực xã hội, gây
băng hoại đạo đức, làm mất lòng tin, xói mòn đời sống tốt đẹp mọi người đang
chung tay xây đắp. Đối với những người cầm quyền phải là người chí công vô tư,
cương trực, thẳng thắn thì mới đưa đất nước vững mạnh đi lên, tiến tới công bằng,
dân chủ, văn minh.
Đặc tính thứ 5, đoàn kết là kết thành một khói thống nhất, cùng hoạt động vì
một mục đích chung.Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, thể
hiện qua sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể, nhất là
những khi gặp hoạn nạn, khó khăn.Thể hiện trong câu: “ Một cây làm chẳng nên
non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Khi đất nước có giặc ngoại xâm, tòn thể dân tộc đoàn kết, đồng lòng chống
giặc cứu nước, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc. Họ đã không ngần ngại
gian khổ, hi sinh, quyết tâm chống giặc cứu nước.Trải qua mấy nghìn năm lịch sử,
tinh thần ấy không ngừng lớn mạnh trở thành phẩm chất cao quý của dân tộc ta.
Trên mặt trận chính trị, nhân dân cả nước đồng lòng chống lại mọi âm mưu phá
hoại của các thế lực thù địch, không tiếp tay cho mọi hành động đi ngược lại với
chủ trương của Đảng và Nhà nước, quyết chí bảo vệ biên cương, hải đảo.Trên mặt
trận kinh tế hợp tác chung tay xây dựng nền kinh tế vững mạnh, sản xuất ổn định,
tăng cường xuất khẩu.Hành động chung tay góp sức ủng hộ, giúp đỡ đồng bào miền
Trung vượt qua bão lũ, giúp đỡ đời sống ngư dân sau thảm hoạ ô nhiễm môi trường,
giải quyết tiêu thụ nông sản,…
Trong xã hội còn có nhiều người thiếu tinh thần đoàn kết.Họ sống cá nhân, ích
kỷ, chỉ biết đến lợi ích bản thân, sống thờ ơ, vô cảm, không quan tâm đến cộng
đồng. Họ thường tách mình ra khỏi thập thể, né tránh những trách nhiệm
chung.Những người như thế thật đáng chê trách.
Tinh thần đoàn kết là một trong những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc
ta.Phải biết đoàn kết để cùng bảo vệ nền hoà bình dân tộc và xây dựng đất nước
ngày càng phồn vinh , hạnh phúc.
Đức tính thứ 6 để chúng ta rèn luyện là cần cù. Cần cù là chăm chỉ, chịu khó,
kiên nhẫn làm việc một cách thường xuyên. Con người cần cù học tập, lao động:”Có

công mài sắt có ngày nên kim”.Một người cần cù sẽ luôn cố gắng làm cho mọi việc
hoàn tất dù có khó khăn và tốn thời gian biết bao nhiêu. Họ chịu khó cần mẫn tìm
hiểu một vấn đề cho đến khi hiểu nó.
Chính bằng sự cần cù lao động và ý chí tự chủ vượt khó thì không thể thay đổi
đất nước.
“Bàn tay ta làm nên tất cả,
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
Thế hệ trẻ ngày nay phải hiểu được sức mạnh to lớn của tinh thần cần cù trong
lao động thì phải cố gắng học tập thật giỏi, tích cực lao động góp phần làm cho dân
giàu, nước mạnh .
Đặc tính thứ 7 của con người là sáng tạo. Sáng tạo là hoạt động động tạo ra bất
cứ cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi( trong phạm vi ích lợi cụ thể).Sáng tạo
là một khoa học hòn toàn có thể học được. Tính ích lợi của mỗi sáng tạo mang đến
có khi chỉ ở trong phạm vi hẹp của người đã tạo nên chúng chứ không cần mang
đến cho nhiều người. Sáng tạo chỉ có trong 1 số phạm vi nhất định, nếu không có
thể gây nguy hiểm cho người xung quanh.
Vì lẽ đó, NQ TW 9, khoá XI xác định rằng:”Phát triển văn hoá vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hoá”. Có như thế văn
hoá và con người mới thực sự là mục tiêu và động lực của phát triển bền vững và


hiện đại hoá đất nước, mớ tạo ra sức mạnh của nguồn lực nội sinh,sức mạnh tổng
hợp của đất nước,dân tộc, con người và văn hoá đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế, nước Việt Nam đi tới thành công ,vì dân giàu, nước mạnh,dân chủ, công
bằng ,văn minh .
*KL* Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội, giáo dục
lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần
quan trọng vào công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở nước ta.
Do đó, các lĩnh vực văn hóa như: Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn
học, nghệ thuật, báo chí truyền thông, di sản văn hóa, thể chế, thiết chế văn hóa,

văn hóa tôn giáo, giao lưu văn hóa và tất cả các thành tố của môi trường văn hóa
(gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, đơn vị lực lượng vũ trang, các
bản làng, phường, xã…) trong chương trình hoạt động của mình phải hướng tới hiện
thực hóa mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện hướng đến Chân – Thiện – Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
xã hội; là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh.
***************************
Câu 2: Vì sao “Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng
vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa,
cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế?”
*MB* Môi trường văn hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Môi trường văn hóa là điều kiện bên
ngoài làm nên sự hình thành hay tha hóa nhân cách, sự phát triển hay thụt lùi của cá nhân, sự tiến bộ hay lạc hậu
của nhóm xã hội hoặc cộng đồng. Môi trường văn hóa cũng chính là hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, môi trường văn hóa ở Việt Nam ngày càng phong phú,
phức tạp. Đó là những hiện tượng và quan hệ văn hóa - xã hội đa dạng, đa chiều và năng động, có khả năng nuôi
dưỡng mọi ý tưởng tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát triển, sáng tạo, nhưng cũng tạo ra không ít thách thức
và cám dỗ. Trong sự phát triển mạnh mẽ của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước cũng còn có những bất
cập, trong đó môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, xuất hiện nhiều hiện tượng trái với thuần
phong mỹ tục… nhất là trong thanh, thiếu niên.
2. Khái niệm:

-

-

Văn hóa: Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên à xã hội, được kế thừa,

trao truyền và tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự khác biệt giữa các
cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Môi trường văn hóa: môi trường văn hoá bao gồm các điều kiện vật chất và tinh
thần chứa đựng hệ thống các giá trị của hoạt động con người, tạo nên niềm tin, giá
trị về thái độ của con người tham gia vào hoạt động và ảnh hưởng đến quá trình
phát triển của con người.
3. Tác động của văn hóa – gia đình

a. Tác động của môi trường văn hóa đến môi trường gia đình

- Môi trường văn hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Môi trường
văn hóa là điều kiện bên ngoài làm nên sự hình thành hay tha hóa nhân cách, sự
phát triển hay thụt lùi của cá nhân, sự tiến bộ hay lạc hậu của nhóm xã hội hoặc


cộng đồng. Khi đời sống con người với các mặt như phong tục, tập quán, lối sống, xu
hướng đạo đức, ý thức pháp quyền, mặt bằng dân trí, tính năng động hay mức độ
bảo thủ của một xã hội được xem như điều kiện, cơ sở, hoàn cảnh cho sự hình thành
nhân cách, phát triển cá nhân, phát triển nhóm hoặc cộng đồng thì đó chính là môi
trường văn hóa.
-Môi trường văn hóa cũng chính là hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội.
Nếu môi trường văn hóa có ảnh hưởng lớn đến mỗi người và cộng đồng, thì ngược
lại, mỗi người và cộng đồng sẽ có vai trò và trách nhiệm nhất định trong việc tạo ra,
cải tạo hoặc thay đổi môi trường văn hóa, góp phần sự phát triển xã hội nói chung
và sự phát triển của mỗi cá nhân nói riêng.
- Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, môi trường văn hóa
ở Việt Nam ngày càng phong phú, phức tạp. Đó là những hiện tượng và quan hệ văn
hóa - xã hội đa dạng, đa chiều và năng động, có khả năng nuôi dưỡng mọi ý tưởng
tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát triển, sáng tạo, nhưng cũng tạo ra không ít
thách thức và cám dỗ khiến cho bất cứ cá nhân, gia đình, cộng đồng nào cũng phải

cảnh giác trước nguy cơ lạc lối, sai lầm. Trong sự phát triển mạnh mẽ của mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội đất nước cũng còn có những bất cập, trong đó môi trường
văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, xuất hiện nhiều hiện tượng trái với
thuần phong mỹ tục… nhất là trong thanh, thiếu niên. Nước ta đang trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thế giới ngày càng sâu rộng
với nhiều thời cơ thuận lợi và không ít những khó khăn, thách thức. Một trong số
những khó khăn, thách thức đặt ra đối với nước ta lúc này chính là sự suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên trước những
tác động mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường. Thanh niên nước ta hiện nay
về cơ bản được sống, học tập và rèn luyện trong môi trường tốt, được phát huy hết
khả năng và trí tuệ của mình. Nhiều người đã thành danh trên các lĩnh vực và có
những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong
xã hội, thực trạng thanh niên sa vào các tệ nạn xã hội, như ma túy, cờ bạc, mại
dâm, đua xe, trộm cắp,… ngày càng gia tăng. Chính thực trạng đó đã đặt ra những
mối quan ngại sâu sắc đối với từng gia đình và xã hội.
Thời gian qua, chúng ta vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc chăm lo
xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, tạo điều kiện để bồi dưỡng
nhân cách cho thanh niên. Ở nhiều địa phương, các nhà máy, khu công nghiệp,
chung cư cao tầng được đầu tư xây dựng nhiều nhưng những khu vui chơi, giải trí
công cộng cho thanh thiếu niên lại chưa được chú trọng. Hoạt động của các tổ chức
Đoàn, Đội nhiều nơi còn kém hiệu quả, không thu hút được đông đảo thanh niên
tham gia… Vì vậy, chúng ta càng ngày càng khó kiểm soát một số biểu hiện lệch
lạc, méo mó về nhân cách của thanh niên hiện nay, như dao động mục tiêu, lý
tưởng; thờ ơ với thời cuộc, vận mệnh quốc gia, dân tộc; sống dựa dẫm, ỷ lại, sống
vội, sống gấp, sống thử… thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Do đó
chúng ta cần phải thẳng thắn thấy được những “hạt sạn” đang xâm nhập mạnh mẽ
vào tư tưởng và hành động của thanh niên hiện nay để có biện pháp loại trừ kịp
thời. Để có được thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước có đức, có tài, “vừa hồng,
vừa chuyên” thì việc xây dựng môi trường văn hóa gia đình lành mạnh - môi trường
đầu tiên và cũng là môi trường quan trọng nhất mà mỗi cá nhân học hỏi để trưởng

thành, là một trong những giải pháp hữu hiệu và thiết thực nhất hiện nay. Nhưng
trước tiên, để có môi trường văn hóa gia đình tốt thì phải có môi trường văn hóa xã
hội tốt. Môi trường văn hóa lành mạnh có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng
môi trường văn hóa gia đình, làm cho gia đình thực sự trở thành nhân tố tích cực


thúc đẩy thành viên trong gia đình hoàn thiện nhân cách, kế thừa và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Một môi trường văn hóa lành mạnh sẽ góp phần
giáo dục, rèn luyện nhân cách, lối sống cho con người.
b. Tác động trở lại của môi trường gia đình đến môi trường văn hóa

-

Môi trường gia đình là nơi tái xuất những công dân có ích cho xã hội.
Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách. Gia đình có vai trò
quan trọng ảnh hưởng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc
gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình
phải trở thành môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách
cho con người. Gia đình ấm no, bố mẹ hòa thuận hạnh phúc là điều kiện, môi trường
quan trọng trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có thể chất tốt cũng như tinh thần tốt,
góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững của đất nước.
Gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Thông qua các câu chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha
mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư
duy và từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động,
qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, các thành viên lớn tuổi trong gia đình đã
truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền
thống văn hóa dân tộc. Từ đó, mỗi cá nhân dần hình thành nhân cách, được bồi

dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính cộng đồng, lòng nhân ái, tinh
thần tự lực, tự cường, tinh thần yêu tự do, hòa bình, anh hùng trong công cuộc xây
dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất… Đảng
ta chỉ rõ trong giai đoạn hiện nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét đến cùng, đó
là trách nhiệm của mỗi gia đình, mỗi con người cụ thể.

-

Môi trường gia đình là nơi tốt đẹp nhất để giáo dục con cái biết bảo vệ thiên nhiên,
đồng thời là một nét đẹp trong văn hóa Việt.
Môi trường văn hóa gia đình có quan hệ chặt chẽ với môi trường văn hóa xã hội.
Con người sống trong môi trường nào chịu sự tác động của môi trường đó. Do những
tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử dựng nước và giữ nước, con
người Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Sự gắn
kết của cá nhân với gia đình (và cao hơn là với làng, xã, Tổ quốc) đã trở thành một
trong những giá trị văn hóa cơ bản của dân tộc Việt Nam. Với con người Việt Nam
truyền thống, môi trường gia đình có vai trò hết sức quan trọng. Môi trường gia đình
không chỉ là nơi sinh sống, nuôi lớn mỗi cá nhân về thể chất mà còn là cái nôi nuôi
dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách cho con người. Môi trường gia đình là giá trị
cao đẹp mà con người mong muốn hướng tới. Trong xã hội Việt Nam truyền thống,
gia đình hạnh phúc và đáng tự hào là gia đình có sự chung sống của nhiều thế hệ
kiểu “tam đại”, “tứ đại”, “ngũ đại” đồng đường. Trong đó, hạnh phúc gia đình được
duy trì trên cơ sở gắn kết hài hòa của các mối quan hệ giữa các cá nhân, thế hệ với
những tình cảm và chuẩn mực đạo đức, giá trị tốt đẹp.
Trước cơn lốc toàn cầu hóa, bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập quốc tế, văn hóa
dân tộc nói chung, văn hóa gia đình nói riêng đang đứng trước những thời cơ lớn lao
và những thách thức không nhỏ. Trong hoàn cảnh đó, nhiều giá trị mới được sinh ra



nhưng cũng nhiều giá trị cũ mất đi. Môi trường gia đình là tế bào cơ sở của xã hội,
giữ gìn, phát triển văn hóa gia đình, làm đẹp đẽ, bền chặt mối quan hệ giữa con
người và gia đình, là con đường đúng đắn để bình ổn và phát triển xã hội. Vấn đề
đặt ra là xã hội, môi trường gia đình và chính bản thân mỗi cá nhân cần phải có giải
pháp để cân bằng các mối quan hệ: quyền lợi cá nhân và quyền lợi gia đình, cái lợi
trước mắt và cái lợi lâu dài… Cần phải kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với
giá trị hiện đại, biết loại bỏ những yếu tố lỗi thời, giữ lấy những gì là tinh hoa, bản
sắc, đồng thời tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế để tiếp nhận những giá trị văn
hóa mới. Có như thế mới khắc phục được tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế với văn hóa gia đình nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung
4. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa: cần chú ý đầy đủ đến yếu tố

văn hóa và con người trong phát triển kinh tế
Trong thời đại ngày nay, để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh không
chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên mà chủ yếu là khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn
hóa, nghĩa là trong ý chí tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn đạo lý, lối
sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Để văn hóa trở thành
động lực thì giải pháp của mọi giải pháp phải hướng vào xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực; các chính sách, cơ chế cho phát triển phải hướng vào tạo điều kiện,
cơ sở cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo
của con người. Văn hóa trong lãnh đạo, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong sản
xuất kinh doanh, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa sinh hoạt gia đình và ngoài xã
hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ,
văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội con người ngày càng cao bao nhiêu
thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển của đất nước càng trở nên hiện
thực bấy nhiêu.
Trong nền kinh tế thị trường, văn hóa dựa vào chuẩn mực của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến,

cải tiến kỹ thuật nâng cao tay nghề sản xuất hàng hóa với năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh ngày càng cao. Văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh
nghiệp hướng dẫn, động viên các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, chủ động
liên kết, hợp tác để phát triển với sức mạnh của các giá trị văn hóa, mới có khả
năng hạn chế, đẩy lùi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Trong thời kỳ mở cửa
hội nhập quốc tế, văn hóa góp phần tăng cường sự hiểu biết, mở rộng giao lưu hợp
tác về nhiều mặt giữa nước ta với các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Trong lĩnh vực kinh tế, mở cửa hội nhập kinh tế là để tăng cường hợp tác, liên kết,
liên doanh với nước ngoài, song mọi yếu tố ngoại sinh như: Vốn, kỹ thuật, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường nước ngoài… chỉ có thể biến thành động
lực bên trong của sự phát triển nếu chúng được vận dụng phù hợp với các yếu tố nội
sinh như là yếu tố trọng tâm, tức là con người Việt Nam với truyền thống văn hóa,
đạo đức, tâm hồn, lối sống dân tộc Việt Nam. Ở đây, văn hóa dân tộc phải đóng vai
trò định hướng, điều tiết để mở cửa hội nhập, nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ
quyền, xây dựng được nền kinh tế độc lập; hợp tác với bên ngoài nhưng không bị
người ta lợi dụng biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp nguyên
liệu và nhân công rẻ mạt, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa, thành “bãi rác công
nghệ lạc hậu”, nơi tiếp nhận lối sống không lành mạnh, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác.
5. Thành tựu – hạn chế - nguyên nhân hạn chế: *Theo NQTW5 Khóa VIII


a. Thành tựu: Nhìn một cách tổng quát, trong những năm 1986-2005, nền văn

hoá nước ta đạt được những thành tựu nổi bật sau:
- Văn hóa góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
tham gia tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân bước đầu được
phát huy; dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng.

- Đã phát huy được tính tích cực tự giác của nhân dân tham gia vào các hoạt
động văn hóa, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” để tạo nên sự chuyển biến bước đầu và là tiền đề quan trọng để văn hóa Việt
Nam tiếp tục phát triển đúng hướng và vững chắc.
- Văn hóa đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động của cấp ủy
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, từng bước gắn bó
chặt chẽ với các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
- Di sản văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy nhằm phục vụ đời sống tinh
thần của nhân dân.
- Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành, góp phần
nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
- Hoạt động văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí được mở rộng, có nhiều thành
tựu đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới.
- Đời sống văn hóa của nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, ở vùng gặp khó khăn như
miền núi, hải đảo, biên giới được cải thiện.
- Giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng, việc quảng bá hình ảnh dân tộc và
văn hóa Việt Nam ra nước ngoài được chú ý. Việc thể chế hóa các nghị quyết của
Đảng được coi trọng, tạo hành lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân
và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động và sáng tạo văn hóa.
b. Hạn chế:

- Những thành tựu và tiến bộ đạt được trên lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng
và vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống.
- Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có
một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước,
niềm tin của nhân dân.
- Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng
kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng.

- Việc xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt.


- Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các
sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng.
- Thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao.
- Có biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh
hướng trong lý luận - phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày càng phức
tạp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa.
- Xu hướng “thương mại hóa”, chạy theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận
báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
- Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính
sách trên lĩnh vực văn hóa còn chậm.
- Đời sống văn hóa còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu ở nhiều vùng nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ
cách mạng trước đây chưa được khắc phục có hiệu quả.
- Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền, khu
vực, tầng lớp xã hội tiếp tục gia tăng.

-

-

-

-

*Theo VK ĐH XII: Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều mặt yếu kém,

khắc phục còn chậm
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và chăm lo đời sống nhân dân
nhiều mặt còn hạn chế. Xã hội hóa còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh
để huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn, thông
tin về cung - cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm; tỉ trọng
lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn. Số người thiếu việc làm và việc làm
không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh viên sau
tốt nghiệp khó tìm được việc làm; chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền
lương của đại bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người lao động còn thấp, lương
tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức sống tối thiểu. Tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức
còn cao (khoảng 56%)[20], thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
lao động khu vực này. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để tuyển chọn lao động có
năng lực và đưa ngườikhông đáp ứng yêu cầu ra khỏi khu vực nhà nước.
Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là trong đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy
cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn
lớn. Tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân
tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên đến 50%). Một số chính sách về an sinh
xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao và chưa
khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Tỉ lệ bao phủ và chất lượng dịch
vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Quỹ bảo hiểm xã hội chưa bền
vững.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế. Chất lượng
khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Y đức của một bộ


-

phận cán bộ y tế chưa tốt. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm,

nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bất cập. Việc thực hiện lộ
trình giá thị trường đối với dịch vụ y tế và cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp y
tế công lập còn chậm. Thu hút nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước và xã hội hóa y tế
còn khó khăn, chính sách chưa đủ hấp dẫn. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư
nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Công nghiệp
dược phát triển chậm. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng chất lượng cuộc sống chưa
cao.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu. Nhiều
biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Tệ nạn xã hội
còn diễn biến phức tạp. Quản lý văn hóa, nghệ thuật, lễ hội, các di tích lịch sử còn
hạn chế. Xã hội hóa trong lĩnh vực văn hoá còn chậm, hiệu quả chưa cao. Nhiều sản
phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng thấp. Đời sống văn hóa, nhất là vùng sâu,
vùng xa còn nhiều hạn chế. Thể thao thành tích cao phát triển còn chậm. Quản lý
thông tin, báo chí, nhất là trên Internet còn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước về tôn
giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế.
c. Nguyên nhân của những hạn chế
Về khách quan:
+ Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm cho một
số người hoang mang, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái do quá trình toàn cầu hóa kinh tế
và sự xâm nhập tràn lan những sản phẩm văn hóa dẫn đến những tư tưởng phức tạp
trong đời sống văn hóa, xã hội.
+ Những tiền đề vật chất để xây dựng nền văn hóa còn yếu kém, mức sống của
nhân dân còn thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
+ Các thế lực thù địch quốc tế luôn thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối
với cách mạng nước ta.
Về chủ quan:
- Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy đảng các cấp về vai trò đặc
biệt quan trọng của văn hóa chưa thật đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa chưa được quán triệt và tổ chức

thực hiện nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ,
không kiên quyết.
- Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được
triển khai tích cực, có nơi còn xem nhẹ, không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được
tấm gương văn hóa cho quần chúng.
- Chậm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về văn hóa. Chưa
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng lực của những người làm
công tác văn hóa.


- Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển
văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Một số bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa, thông tin, báo chí, xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong
định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, tạo ra
một số sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thậm chí sai trái.
5. Giải pháp xây dựng và quản lý môi trường văn hóa
- Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng
chiến, các di sản văn học, vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa,
nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng. Bảo tồn và phát huy văn
hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy di sản văn hóa với
các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
- Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng
cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, vươn lên trình độ hiện đại về mô hình, cơ cấu tổ
chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ
động, khoa học.
- Đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ
thuật đi đôi với việc phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ. Có chính sách
trọng dụng tài năng văn hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của văn nghệ

sĩ. Đẩy mạnh hoạt động lý luận - phê bình văn học, nghệ thuật. Đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học, nghệ thuật từ Trung
ương đến địa phương.
- Tăng cường sự quản lý của Nhà nước về văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính
sách, chế độ ổn định, phù hợp với yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Tích
cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của các
loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng...
- Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các hội văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí,
các hộ gia đình, các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động trên các lĩnh vực văn
hóa.
- Xây dựng và triển khai chương trình giáo dục văn hóa - thẩm mỹ, nếp sống
văn minh, hiện đại trong nhân dân.
- Nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa
trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên, chống những hiện tượng phản văn hóa,
phi văn hóa.
- Chú trọng nhiều hơn đến việc xây dựng đời sống văn hóa ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thông tin với bước đi
thích hợp cho từng loại hình, từng vùng13.
*Theo VK ĐH XII:


-

-

-

-


-

-

Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, lồng ghép hiệu
quả các mục tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước, từng ngành, từng địa phương.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công. Rà soát, hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội. Đẩy mạnh
giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù
để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp
tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát
nghèo bền vững. Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của
người dân. Thực hiện tốt chính sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất
nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát
triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mở
rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính,
bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội.
Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, bảo đảm mức tối thiểu
về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch, thông tin.
Cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với
tăng năng suất lao động. Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương tối thiểu
theo lộ trình phù hợp, bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động đang làm việc
cũng như người đã nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức công đoàn, thực sự đại diện quyền lợi cho người lao động, giải quyết kịp thời

các tranh chấp.Thực hiện cơ chế đối thoại và thoả thuận về tiền lương giữa các bên,
xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ. Có cơ chế để công đoàn, tổ chức đại
diện cho người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động giám sát thực
hiện thỏa ước lao động tập thể. Nghiên cứu điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phù hợp. Tăng
cường quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền
lương đối với doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quản lý nhân
lực và hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng suất lao động. Thực hiện tốt chính sách bảo
hộ lao động.
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến.
Quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát triển hệ thống y tế dự phòng, chủ động
phòng bệnh, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc
phục nhanh tình trạng quá tải bệnh viện. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở y tế, nhất
làmiền núi, biên giới, hải đảo; hoàn thành việc xây dựng một số bệnh viện tuyến
cuối; nhân rộng mô hình bệnh viện vệ tinh và bác sĩ gia đình. Đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn quản lý và
kiểm tra chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh. Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng. Nâng cao trình độ chuyên môn, trách
nhiệm và y đức của đội ngũ cán bộ y tế. Chú trọng phát triển nhân lực y tế trình độ
cao, tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.
Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển y tế ngoài công lập, thí điểm hình thành cơ sở
khám, chữa bệnh theo hình thức hợp tác công - tư và mô hình quản lý bệnh viện
như doanh nghiệp công ích. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Đổi mới cơ chế tài chính, điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình, tính đúng, tính đủ
và bảo đảm công khai, minh bạch; đồng thời hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng chính
sách, người nghèo, người yếu thế.
Khuyến khích phát triển công nghiệp dược và y học cổ truyền. Tăng cường quản lý
thuốc chữa bệnh. Đẩy mạnh công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Chú


-


-

-

trọng công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, cải thiện tình trạng mất cân bằng giới
tính khi sinh. Cùng với nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu tuổi thọ trung
bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về văn hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp
của dân tộc. Chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa, quảng bá văn hoá
Việt Nam, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và môi trường văn
hoá lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục các
biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết
chế văn hóa. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, tăng
cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, văn học - nghệ thuật đi đôi với
đề cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa.
Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc,
tôn giáo và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Phát triển hiệu quả, lành mạnh hệ thống báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình
đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước và nhu cầu thụ hưởng ngày càng cao
của nhân dân. Phát triển thể dục, thể thao cho mọi người và thể thao thành tích
cao, chuyên nghiệp. Quan tâm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Chăm
sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. Thực hiện hiệu quả các giải pháp thúc đẩy
bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn
hoá, xã hội.
*KL* Trước cơn lốc toàn cầu hóa, bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập quốc tế, văn hóa
dân tộc nói chung, văn hóa gia đình nói riêng đang đứng trước những thời cơ lớn lao

và những thách thức không nhỏ. Trong hoàn cảnh đó, nhiều giá trị mới được sinh ra
nhưng cũng nhiều giá trị cũ mất đi. Môi trường gia đình là tế bào cơ sở của xã hội,
giữ gìn, phát triển văn hóa gia đình, làm đẹp đẽ, bền chặt mối quan hệ giữa con
người và gia đình, là con đường đúng đắn để bình ổn và phát triển xã hội. Vấn đề
đặt ra là xã hội, môi trường gia đình và chính bản thân mỗi cá nhân cần phải có giải
pháp để cân bằng các mối quan hệ: quyền lợi cá nhân và quyền lợi gia đình, cái lợi
trước mắt và cái lợi lâu dài… Cần phải kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với
giá trị hiện đại, biết loại bỏ những yếu tố lỗi thời, giữ lấy những gì là tinh hoa, bản
sắc, đồng thời tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế để tiếp nhận những giá trị văn
hóa mới. Có như thế mới khắc phục được tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế với văn hóa gia đình nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung.
***************************
Câu 3: Vì sao GD-ĐT và KH-CN là vấn đề quốc sách hàng đầu của đất nước
ta trong giai đoạn hiện nay?
*MB* Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu
to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo
như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu; cần kết
hợp hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức Phương
Tây hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong cuộc đua về giáo dục
sẽ thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”; cường quốc Mỹ cũng luôn chú trọng
đến việc “Tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài”; một người
bạn lớn của Việt Nam là Liên xô trước đây cũng đã khẳng định “Chính sách về con
người là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của mọi chính sách kinh tế - xã hội”.


Khái niệm:
Giáo dục là quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con
người thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự
tồn tại, tiến hóa và phát triển của nhân loại.

Đào tạo là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nhằm trao truyền một kỹ
năng cụ thể cho một loại công việc cụ thể nào đó.
Khoa học, công nghệ (SGK trang 139)
Bước sang thế kỉ 21, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệngày càng được
nhân loại coi trọng. Đặc biệt Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò vị trí hàng đầu của GD
ĐT và KHCN
1. Vị trí vai trò của GD ĐT và KHCN và sứ mệnh của GD ĐT và KHCN: Trong Nghị
quyết TW các kỳ ĐH đã khẳng định vị trí vai trò hàng đầu của GD ĐT và KHCN
Nghị Quyết TW 3, khoá 7 năm 1993 khẳng định: “Khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển”.
Nghị quyết TW 2, khoá VIII: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu”.
NQTW 8, khoá XI: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được
ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Và trong văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 năm 2016 cũng đã
khẳng định vai trò GD ĐT& KHCN như sau: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu,
tiếptục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục đào tạo theo
hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học…” (1), “ phát triển
mạnh mẽ khoa học công nghệ, làm cho khoa học , công nghệ thực sự là quốc sách
hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
kinh tế tri thức, nâng cao năng suất hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo
vệ môi trường…” ( VK trang 27)
Quan điểm GD ĐT& KHCN là quốc sách hàng đầu đã được cụ thể hoá thành các
chính sách như: Chính sách đầu tư cho giáo dục. Việt Nam là một trong những quốc
gia có sự đầu tư ngân sách cho giáo dục lớn.
2. Mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay: Phát triển nhanh, bền
vững, phát triển hài hòa 3 yếu tố: Kinh tế- Văn hóa xã hội- tài nguyên môi
trường:

Định nghĩa này có thể mở rộng với ba cấu thành cơ bản về sự phát triển bền
vững:
– Về mặt kinh tế: Một hệ thống bến vững về kinh tế phải có thể tạo ra hàng hoá
và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ và nợ nước
ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ.
– Về mặt xã hội: Một hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công
bằng trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục,
bình đẳng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính trị của mọi công dân.
– Về môi trường: Một hệ thống bền vững về môi trường phải duy trì nền tảng
nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay
những vận động tiềm ẩn của môi trường và việc khai thác các nguồn lực không tái
tạo không vượt quá mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao


gồm việc duy trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh
thái khác mà thường không được coi như các nguồn lực kinh tế.
Nói cách khác, phát triển bền vững đạt được trên cơ sở đảm bảo hài hoà được
cả ba mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường.
3. Để đảm bảo đất nước phát triển bền vững cần hai yếu tố:
a. Con người- nguồn nhân lực chất lượng cao:
Kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các đại hội trước, nhất là Nghị quyết 29 của Hội
nghị Trung ương 8 (khóa XI) về giáo dục và đào tạo, Đại hội XII tiếp tục chủ trương
“Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo”. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh đến
sự cần thiết phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo là do lĩnh vực này
từ tư duy giáo dục đến tất cả các yếu tố cơ bản trong thời gian qua còn nhiều yếu
kém; trong đó, đặt lên hàng đầu hai yếu kém chủ yếu phản ánh một cách tổng quát
kết quả đầu vào và đầu ra của giáo dục, đào tạo nước nhà.
“Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động
lực phát triển ” ( VK 12 trang113) như nhiều nghị quyết của Đảng đã xác định. Trong

thực tế, nhiệm vụ này chưa được ưu tiên nhất trong các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội, chưa thực sự được coi là nhân tố quyết định phát triển đất nước. Vì thế,
rất nhiều chương trình, dự án đầu tư chỉ tập trung vào mua sắm trang thiết bị,
phương tiện mà chưa chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực để làm chủ các trang
thiết bị đó, dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp kém. Nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền từ
Trung ương đến địa phương còn lúng túng trong việc cụ thể hóa quan điểm “phát
triển giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu” và xử lý các vấn đề thực tiễn của
giáo dục, đào tạo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
“Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu ”( trang 113
VK 12) nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào
tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục đào tạo,
còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết nghiên cứu khoa học, sản
xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động…( VK trang 113). Như vậy chất
lượng của giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát
triển bền vững. Vì thế, giáo dục và đào tạo chưa tạo ra được lợi thế cạnh tranh
mạnh mẽ về nhân lực của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khi
mà lợi thế cạnh tranh về nhân lực đã chuyển từ số lượng sang chất lượng; làm cho
năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp, chậm được
cải thiện
b. Nền KHCN tiên tiến:

Yếu tố thứ hai của sự phát triển bền vững là phải có nền khoa học tiên tiến
Trong thực trạng hiện nay theo VK ĐH 12 cho thấy: KHCN đã có đóng góp tích
cực cho phát triển KT- XH trên tất cả các lĩnh vực( VK trang 118). Tuy nhiên, KHCN
chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển KT- XH. Việc huy động nguồn
lực của xã hội cho KHCN chưa được chú trọng, đầu tư cho KHCN còn thấp, hiệu quả
sử dụng chưa cao. …(VK trang 119)
Thực tế hiện nay, nền KHCN nước ta còn lạc hậu, chỉ mới áp dụng một phần của

cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 khi thế giới đã thành công trong việc sử
dung kết quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0..


4. Giải pháp: Để khắc phục những thực trạng này cần những giải pháp sau:
-

Phải đặt GDDT – KHCN là thực sự là quốc sách hàng đầu, là điều kiện đảm bảo cho
đất nước phát triển bền vững. đây là chính sách được ưu tiên trước hết:



Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GDĐT theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất năng lực người học. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Đổi mới
căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân chủ thống nhất; tăng quyền tự chủ
và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đổi mới chính sách, tài chính , huy động
sự tham gia đóng gớp của toàn xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu
ứng dụng KHCN , đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.



Phát triển mạnh mẽ KHCH, làm cho KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động
lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng
cao năng suất, chất lượng , hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi
trường, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát triển và ứng dụng KHCN là một nội dung
cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành,
các cấp. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý , tổ chức , hoạt động
KHCN, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Phát huy và

tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia

-

Phải có sự đầu tư nguồn lực: nhân lực, vật lực và tài lực cho phát triển GD ĐT và
KHCN



Nhân lực: ưu tiên chính sách chế độ chọn người tài giỏi vào ngành sư phạm, có chế
độ tiền lương của sư phạm phải đáp ứng cuộc sống của nhà giáo để các thầy cô tập
trung nâng cao trình độ kiến thức từ đó vực dậy ngành giáo dục.



Vật lực: Dành những phương tiện tốt nhất cho giáo dục, đưa công nghệ hiện đại cho
sinh viên thực hành



Tài lực: Nâng cao đầu tư ngân sách cho GD ĐT và cho KHCN
5. Liên hệ bản thân:

*KL* Với vị trí và vai trò quan trọng, trong những năm gần đây, GD và ĐT ngày càng được

Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, tác động trực tiếp, to lớn và tích cực đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, góp phần quan trọng đưa nước ta nhanh chóng hoàn thành quá trình
CNH, HĐH.
Bản thân mỗi cá nhân cần nhận thức sâu sắc vị trí và vai trò của GD&ĐT đối với sự phát
triển của chính bản thân và toàn xã hội. Sự nghiệp GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước

và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển toàn diện. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa”.

*********************************


Câu 4: Phân tích các nhiệm vụ cần thực hiện nhằm phát triển GD-ĐT trong
bối cảnh hiện nay?
1.Khái niệm:
Giáo dục là quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con
người thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự
tồn tại, tiến hóa và phát triển của nhân loại.
Đào tạo là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nhằm trao truyền một kỹ
năng cụ thể cho một loại công việc cụ thể nào đó.
2.Vai trò
Thứ nhất, giáo dục có ý nghĩa quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất vật chất.
Thứ hai, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, tạo tiền đề kinh tế xã hội.
Thứ ba,Giáo dục không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất,
mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hóa tinh thần của dân tộc. Giáo dục có tác
dụng vô cùng to lớn trong việc truyền bá lý tưởng chính trị, đạo đức và lối sống lành
mạnh cho mỗi cá nhân.
2.Nhiệm vụ: Có 9 nhiệm vụ, giải pháp theo NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG
ƯƠNG 8 KHÓA XI VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (Nghị
quyết 29-NQ/TW)
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới
giáo dục và đào tạo
Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành
giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là

quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục
và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể
trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường
và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình.
Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự
đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã
hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường
học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các
trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục-đào tạo phải thực sự đi
đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân
về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh
đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh,
phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để xây dựng nhà
trường.
Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân
lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ.
Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực
hiện.


Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các
hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai
mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên
ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở
giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa

đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo
hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề;
tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách,
đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị
cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá
trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng
cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại
ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của
người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng
Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các
chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới
tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa
học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết hợp
chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu
phát triển thể lực và hình thành nhân cách.
Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh
gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp
học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục
tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối
tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.
Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức,
kỹ năng, tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp
cho người học.

Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện
đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống
giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo
đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới.
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các
tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận.
Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối
năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà
trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.


Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo
hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực,
đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học.
Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp
trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có
cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất
lượng của cơ sở đào tạo.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng
kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào
tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới
kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công
nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc.
Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương,
từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn

cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất
lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả
kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo
đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương
thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.
Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú
trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng
cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của
thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất
lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển
các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở,
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân
luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục
nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với
quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống
nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp
sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện
nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực hiện phân tầng
cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn
thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của
khu vực và thế giới.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất
lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập

đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có loại hình cơ sở giáo
dục do cộng đồng đầu tư.
Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có
cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh,
thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.


5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi
trọng quản lý chất lượng
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo
và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân
định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy
mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của
các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung và
chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước ngoài
tại Việt Nam. Phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu khoa họccông nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản
lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.
Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; chú
trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng
giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào tạo.
Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà
giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ
quan quản lý nhà nước.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt

Nam; quản lý học sinh, sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn ngân sách
nhà nước và theo hiệp định nhà nước.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát
huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà
trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các
cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp
học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo
viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên,
có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và
phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp
phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số
trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình trạng phân
tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển
riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành
sư phạm.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi
dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao
chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng,
sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh
giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy
định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố



trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ
phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được
ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có
thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu
khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường
ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ...
Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng
dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước.
Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo,
nhất là các trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các
viện nghiên cứu.
7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của
toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách;
chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh
phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện
chính sách học phí.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây
dựng, phát triển các cơ sở giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng
bước hoàn thành mục tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại
hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở
khu vực đô thị.
Đối với giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp, Nhà nước tập trung đầu tư xây
dựng một số trường đại học, ngành đào tạo trọng điểm, trường đại học sư phạm.
Thực hiện cơ chế đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu
chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ

sở đào tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và
trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các hoạt động liên danh, liên kết đào tạo, sử dụng
nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích luỹ tái đầu tư.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với
các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các
đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới
bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công
lập và trường ngoài công lập. Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối
tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học
bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh,
khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi
bật cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt
động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình
trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện định kỳ
kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào tạo.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để
có mặt bằng xây dựng trường. Từng bước hiện đại h óa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc


biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Bảo đảm đến năm 2020 số học sinh mỗi lớp
không vượt quá quy định của từng cấp học.
Phân định rõ ngân sách chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học với ngân sách chi cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
thuộc hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang. Giám sát chặt chẽ, công khai,
minh bạch việc sử dụng kinh phí.

8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư
nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa
học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên
gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào
tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu
tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng
điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất
thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại học. Có chính sách khuyến
khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ,
doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát
minh trong các cơ sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự
nghiệp khoa học và công nghệ cho các cơ sở giáo dục đại học. Nghiên cứu sáp nhập
một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học
công lập.
Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số
trường đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc
tế, đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu
thế giới.
9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào
tạo
Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học,
công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương,
thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.

Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên
các ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học
tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước.
Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu
trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất
lượng đào tạo.
Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt
Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao
khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc
tế.
Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên
Việt Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam.
*******************************
Câu 5: Vì sao chính sách xóa đói giảm nghèo là chìa khóa then chốt trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội mang tính cấp bách hiện nay ở nước ta?


Bài làm
 Khái niệm chính sách xã hội:
Chính sách xã hội là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của
con người, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, công
bằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người.
 Liên hệ xã hội hiện nay đang có các vấn đề cấp bách như:
- Chính sách giải quyết việc làm (giải quyết vấn đề thất nghiệp,….)
- Dân số (áp lực tăng dân số nhanh hơn,…)
- Tệ nạn xã hội (ngày càng phức tạp quan hệ xã hội  thuần phong mỹ tục, đạo đức
băng hoại,…)
- Chính sách về y tế xã hội (áp lực quá tải tại các bệnh viện,…)
- Giáo dục (sỉ số học sinh trong 1 lớp học rất đông,…)

 Nguyên nhân lại phát sinh ra các vấn đề trên:
- Đua đòi, ăn chơi
- Không biết làm ăn
- Hành trang trang bị nghề cho bản thân chưa vững chắc
…..
 Tất cả các nguyên nhân đều do nghèo mà ra  phải giải quyết cái nghèo  góp
phần giải quyết được các vấn đề trên  chính sách xóa đói giảm nghèo là chìa khóa
then chốt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội mang tính cấp bách hiện nay ở
nước ta.
Trong văn kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ XII đã nêu những mặt yếu kém,
khắc phục còn chậm:
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và chăm lo đời sống nhân
dân nhiều mặt còn hạn chế. Xã hội hóa còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ
mạnh để huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã
hội.
Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn,
thông tin về cung - cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm; tỉ
trọng lao động trong khu vực nông nghiệp còn lớn. Số người thiếu việc làm và việc
làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh viên
sau tốt nghiệp khó tìm được việc làm; chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền
lương của đại bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người lao động còn thấp, lương
tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức sống tối thiểu. Tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức
còn cao (khoảng 56%)1, thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao
động khu vực này. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để tuyển chọn lao động có
năng lực và đưa người không đáp ứng yêu cầu ra khỏi khu vực nhà nước.

1


Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là trong đồng bào

dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy
cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn
lớn. Tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân
tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên đến 50%). Một số chính sách về an sinh
xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao và chưa
khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Tỉ lệ bao phủ và chất lượng dịch vụ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Quỹ bảo hiểm xã hội chưa bền
vững.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế. Chất
lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Y đức của một
bộ phận cán bộ y tế chưa tốt. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm,
nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bất cập. Việc thực hiện lộ
trình giá thị trường đối với dịch vụ y tế và cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp y
tế công lập còn chậm. Thu hút nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước và xã hội hóa y tế
còn khó khăn, chính sách chưa đủ hấp dẫn. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư
nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Công nghiệp
dược phát triển chậm. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng chất lượng cuộc sống chưa
cao.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu. Nhiều
biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Tệ nạn xã hội
còn diễn biến phức tạp. Quản lý văn hóa, nghệ thuật, lễ hội, các di tích lịch sử còn
hạn chế. Xã hội hóa trong lĩnh vực văn hoá còn chậm, hiệu quả chưa cao. Nhiều sản
phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng thấp. Đời sống văn hóa, nhất là vùng sâu,
vùng xa còn nhiều hạn chế. Thể thao thành tích cao phát triển còn chậm. Quản lý
thông tin, báo chí, nhất là trên Internet còn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước về tôn
giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế.
 Chính sách xóa đói giảm nghèo
Trong thời gian sắp tới chính sách xóa đói giảm nghèo sẽ được thực hiện theo
hướng: thực hiện đồng bộ, lồng ghép các chương trình, chính sách hiện hành có điều
chỉnh, bao gồm:

(1) Chính sách hỗ trợ lao động nghèo, người thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông
thôn có việc làm, thu nhập ổn định và tham gia thị trường lao động; hỗ trợ dân cư
nông thôn dễ dàng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản
(2) Tuyên truyền hỗ trợ đối với 40% dân số nông thôn hiện nay chưa tham gia bảo
hiểm y tế;
(3) Bổ sung nhóm đối tượng nghèo kinh niên được hưởng chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên;
(4) Tiếp tục xây dựng, thực hiện Nghị quyết về định hướng giảm nghèo thời kỳ
2011-2020, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo thời kỳ 2011-2015 và Nghị
quyết 30a/2008/NQ-CP
 Giải pháp giảm nghèo bền vững
- Thực hiện tốt chính sách giáo dục đào tạo dạy nghề, nâng cao dân trí
- Tăng cường đầu tư, phá triển hạ tầng cơ sở ở nông thôn.


×